28/08/2016
Chúa Nhật tuần 22 thường niên năm C
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 22 Thường Niên - Năm C
CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN - NĂM C
Hc 3,19-21.30-31; Hr 12,18-19.22-24a;
Lc 14,1.7-14
Hc 3,19-21.30-31; Hr 12,18-19.22-24a;
Lc 14,1.7-14
CHỦ ĐỀ:
KHIÊM NHƯỜNG ĐỂ ĐƯỢC CỨU
KHIÊM NHƯỜNG ĐỂ ĐƯỢC CỨU
“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ
xuống,
còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”
(Lc 14,11)
còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”
(Lc 14,11)
Sự
kiêu ngạo là đầu mối gây ra mọi tai họa cho con người. Nó phá vỡ mối
tương quan của con người với Thiên Chúa và với tha nhân. Vì thế, Lời Chúa hôm
nay mời gọi chúng ta hãy để cho lời dạy về sự khiêm nhường của Đức Giêsu thấm
nhuần trong tâm hồn và tác động vào đời sống của chúng ta. Sự khiêm nhường sẽ
giúp chúng ta nhận ra con người đích thực của mình và mở lòng ra với Thiên Chúa
và người khác.
I. BÀI ĐỌC LỜI CHÚA
1. BÀI ĐỌC I (Hc 3,19-21.30-31)
Tác giả sách Huấn Ca cho rằng nhân đức khiêm nhường là chìa khoá
của sự thành công cho đời sống. Càng đạt tới địa vị cao trọng thì càng phải trở
nên khiêm nhường, bởi vì sự khiêm nhường thì làm đẹp lòng Thiên Chúa: “Càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như
thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa.” Thật ra, con người chẳng
là gì để mà tự phụ trước mặt Thiên Chúa và người khác, vì những gì mình có cũng
là do ơn Thiên Chúa ban, còn con người chỉ là kẻ nắm giữ. Trong tương quan
chiều dọc-hướng thần, Thiên Chúa yêu thích và nâng dậy những ai có lòng khiêm
nhường: “Vì quyền năng
Đức Chúa thì lớn lao. Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường.” Trong
tương quan chiều ngang-hướng tha, sự khiêm nhường đích thực giúp cho con người
dễ dàng đi vào những mối tương giao huynh đệ, thân tình với những người khác.
Ngược lại, sự kiêu ngạo sẽ làm đứt mối tương quan với Thiên Chúa sụp đổ mọi mối
tương giao với người khác.
2. BÀI ĐỌC II (Hr 12,18-19.22-24a)
Tác giả thư Hípri (thư Dothái) nói cho chúng ta về hai kinh
nghiệm: kinh nghiệm của dân Dothái tại núi Sinai và kinh nghiệm của những người
thuộc về Đức Kitô trong Hội Thánh. Kinh nghiệm tại núi Sinai, nơi Thiên Chúa
bày tỏ vinh quang uy dũng của Người: “có
lửa đang cháy, mây mù, bóng tối và dông tố, có tiếng kèn vang dậy và tiếng nói
thét gầm, khiến những kẻ nghe phải van xin đừng để lời ấy thốt ra với họ nữa”.
Kinh nghiệm này mặc khải cho chúng ta về quyền năng Thiên Chúa. Chúng ta cần
phải kính sợ uy danh Người. Đây là thái độ cần thiết của một tạo vật khi đứng
trước Thiên Chúa. Kinh nghiệm thứ hai nói về mối tương quan giữa Thiên Chúa với
những người thuộc về Người:“Anh
em đã tới núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời,
với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con
đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời.” Chúng
ta sẽ có được kinh nghiệm này nhờ lòng tin vào Đức Giêsu, đấng trung gian duy
nhất giữa Thiên Chúa với con người.
3. BÀI TIN MỪNG (Lc 14,1.7-14)
Đức Giêsu được mời tới dự tiệc tại nhà một Pharisêu. Người quan
sát thái độ của những vị khách mời. Đức Giêsu thấy họ luôn tìm kiếm cho mình
chỗ cao trọng trong bữa tiệc để đề cao vị thế của mình. Vì thế, Người đã kể cho
họ dụ ngôn nói về thái độ khiêm nhường và sự quảng đại không tính toán. Người
nói: “Khi anh được mời
đi ăn cưới, thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn
anh cũng được mời, và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với
anh rằng: Xin ông nhường chỗ cho vị này. Bấy giờ anh sẽ phải xấu hổ mà xuống
ngồi chỗ cuối.”
Đức Giêsu dạy cho chúng ta bài học về các chiều kích của lối
sống khiêm nhường. Trước hết là cần có thái độ khiêm nhường trong cuộc sống.
Người khiêm nhường luôn biết từ bỏ “cái tôi”, luôn biết nghĩ về Thiên Chúa và
quan tâm đến người khác. Người khiêm nhường không muốn tự nhận mình là “số
một”, là trung tâm của thế giới, hạt nhân của nhóm, để rồi bắt mọi người phải
phục vụ mình, hoặc làm theo ý mình. Người khiêm nhường có tinh thần hòa đồng,
biết mình biết ta, cộng tác với mọi người. Nhờ đó, họ thực sự làm đẹp lòng
Thiên Chúa và người khác. Người khiêm nhường thực sự sẽ được cất nhắc xứng
đáng: “Vì phàm ai tôn
mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.
Kế đến, cần có một thái độ khiêm nhường đích thực nội tâm, chứ không
chỉ là khiêm nhường giả tạo bên ngoài. Sự khiêm nhường đích thực được thể hiện
qua việc sống kín đáo, không phô trương, không muốn cho người ta biết “mình là
khiêm nhường nhất”. Người khiêm nhường sống đơn sơ, không so đo tính toán. Điều
này được ví như người mời khách dự tiệc: không mời những người giàu có, nổi
tiếng để được đáp lễ, nhưng mời những người vô danh tiểu tốt, bất hạnh. Như
vậy, tính khiêm nhường còn được thể hiện qua lối sống quảng đại không tính toán
trong mọi hành vi. Lòng quảng đại đích thực không chờ đợi sự đáp trả. Nếu
chúng ta thực hành một việc bác ái và chờ đợi một sự đáp trả, chúng ta sẽ không
được công trạng gì hết. Đức Giêsu đã dạy cách cụ thể: “Trái lại, khi anh đãi tiệc, hãy mời
những người nghèo khổ, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như
thế, anh mới thật có phúc”. Những hành vi bác ái đích
thực sẽ tồn tại mãi và làm đẹp lòng Thiên Chúa.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Càng làm lớn, con càng phải tự
hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa”.Tôi có
thực hành lời dạy này chưa? Tôi có thực sự khiêm hạ trong lòng? Hay tâm hồn tôi
còn đầy dẫy những núi đồi của lòng tự cao?
2. “Anh em
đã tới núi Sion, tới thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời,
với con số muôn vàn thiên sứ. Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con
đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời”. Để được tham dự vào mối tương
quan hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa và với những người công chính trong
thành đô của Thiên Chúa, tôi cần phải thay đổi con người của tôi. Vậy, tôi đã
bắt đầu thực hiện việc thay đổi này chưa?
3. “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị
hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.Tôi đã
có những biện pháp nào để dẹp trừ tính kiêu ngạo? Tôi có biết chết đi cho tính
kiêu ngạo của mình trong tương quan với những người khác?
4. “Khi đãi tiệc, hãy mời những người
nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông
mới thật có phúc”. Những
đối tượng này chính là những đối tượng đang sống trong vùng “ngoại biên hiện
sinh” mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Hội Thánh quan tâm nhiều trong những năm
gần đây. Tôi có quan tâm đủ những đối tượng trên trong cuộc loan báo Tin Mừng
và trong tương quan đời sống hằng ngày của tôi?
III. LỜI NGUYỆN
CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên
Chúa Cha đã sai Con Một của Người đến trần gian nêu gương sống khiêm nhường
phục vụ, và mời gọi chúng ta noi theo để được hưởng hạnh phúc Nước Trời. Tin
tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng tha thiết cầu xin.
1. Hội
thánh được mời gọi tiếp nối sứ mạng cứu thế của Chúa Kitô. Chúng ta cùng cầu
xin cho các vị mục tử trong Hội Thánh, cách riêng Đức Giáo Hoàng Phanxicô và
các Giám mục của chúng ta, luôn hăng say phục vụ Tin Mừng và sống hết mình vì
phần rỗi mọi người.
2. “Ai hạ
mình xuống sẽ được tôn lên.” Chúng ta cùng cầu xin cho tất cả những ai đang giữ
vai trò lãnh đạo trong giáo hội cũng như xã hội, luôn sống khiêm tốn chân thành
với mọi người, biết đặt lợi ích chung lên trên quyền lợi riêng tư.
3. Tham
vọng và ích kỷ đã gây bao nhức nhối cho đời sống gia đình và xã hội. Chúng ta
cùng cầu xin cho những ai đang đau khổ vì sự ích kỷ của người khác, tìm được
niềm vui và nguồn an ủi nơi Chúa Kitô là Đấng “hiền lành và khiêm nhường trong
lòng.”
4. Khiêm
nhường và bác ái là phương thế hữu hiệu để người tín hữu nên trọn lành. Chúng
ta cùng cầu xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết trung thành thực
thi Lời Chúa dạy: chân thành yêu thương nhau và luôn tôn trọng phẩm giá của
người khác.
Chủ tế: Lạy Chúa là Đấng quyền năng
cao cả, xin đoái thương chúc lành cho những ý nguyện của chúng con. Xin giúp
chúng con luôn tích cực sống khiêm nhường bác ái như Đức Giêsu Kitô, Con Chúa
truyền dạy. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
SCĐ CHÚA NHỰT XXII TN C
Chủ đề :
Khuyến khích sống khiêm hạ
"Xin ông hãy nhường chỗ" (Lc 14,9)
Sợi chỉ đỏ :
-
Bài đọc I : Những châm ngôn về sự khiêm hạ được sưu tầm trong một đoạn
sách Huấn ca.
-
Đáp ca : Ca tụng lòng ưu ái của Thiên Chúa dành cho những người nghèo hèn
yếu đuối.
-
Tin Mừng : Chúa Giêsu chỉ trích thói dành chỗ danh dự trong bàn tiệc và
thói thích mời những kẻ danh giá đến dự tiệc của mình.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Ba
khuynh hướng xấu lớn nhất của con người là "danh, lợi và thú". Lời
Chúa hôm nay sẽ dạy chúng ta về khuynh hướng hám danh, nói cách khác là tính
kiêu căng.
Chúng
ta hãy chăm chú nghe Lời Chúa dạy bảo và hãy ngoan ngoãn sống theo giáo huấn
của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
-
Chúng ta đều mang tính kiêu căng, mỗi người thể hiện một cách.
-
Vì ham danh vọng, chúng ta đã làm nhiều điều đáng trách
-
Chúng ta đối xử đặc biệt tốt đối với những người có địa vị, và khinh miệt những
kẻ thấp hèn.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Hc 3,17-18.20.28-29)
Đoạn
sách Huấn ca này gom góp nhiều huấn dụ khôn ngoan về sự khiêm tốn :
-
Kẻ làm việc cách khiêm tốn thì được người khác mến yêu
-
Chính Thiên Chúa yêu thương những kẻ khiêm tốn
-
Kẻ kiêu căng khi lâm cảnh khốn khổ thì vô phương cứu chữa.
2. Đáp ca (Tv 67)
Thánh
vịnh này được gọi là Bài ca của kẻ nghèo hèn : Lòng yêu thương của Thiên
Chúa đặc biệt dành cho những người yếu đuối, cô thế cô thân và nghèo hèn.
3. Tin Mừng (Lc 14,1.7-14)
Khung
cảnh của câu chuyện này là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisêu để
dùng bữa, và nhóm Pharisêu cố dò xét Ngài. Trong khung cảnh bữa tiệc ấy, Chúa
Giêsu dạy hai bài học :
a/ Bài học về việc chọn chỗ ngồi (cc 7-11) : chỗ
ngồi tượng trưng cho địa vị.
-
Không nên tự mình tranh dành địa vị, vì có thể địa vị ấy không tương xứng với
khả năng và phẩm giá của mình.
-
Địa vị ấy, hãy để cho người khác sắp xếp cho mình, do sự đánh giá khách quan
của họ đối với mình.
-
Và tốt nhất là hãy để chính Chúa lo việc đó, vì "hễ ai tự nâng mình lên sẽ
bị (Thiên Chúa) hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được (Thiên Chúa) nâng
lên".
b/ Bài học về việc phục vụ vô vị lợi : bài học
phục vụ vô vị lợi. Chúa Giêsu lấy thí dụ bằng việc mời khách dự tiệc :
-
"Hãy mời những người nghèo, người què, người cà thọt và người
đui" : ba hạng người sau chỉ là giải thích cho chữ "người
nghèo". Chúa Giêsu dùng ba hạng đó để diễn tả những người nghèo nhất, vì
ba hạng này bị khinh miệt nhất và không được phép tham dự những lễ nghi trong
Đền thờ (2Sm 5,8 ; Lv 21,18).
-
"Họ không có gì đáp lễ" : người đời thường cư xử với nhau
theo tiêu chuẩn có qua có lại, do đó họ thường mời những kẻ mà sau này sẽ đền
ơn họ bằng cách này hay cách khác. Nhưng Chúa Giêsu khuyên hãy mời những kẻ
không có gì đáp lại và cũng không có khả năng đáp lại. Khi đó chính Thiên Chúa
sẽ thay họ mà thưởng công cho kẻ đã mời ("ông sẽ được đáp
lễ" : thể thụ động, ngụ ý Thiên Chúa là kẻ chủ động).
4. Bài đọc II (Dt 12,18-19.22-24a) (Chủ đề phụ)
Tác
giả thư do thái tiếp tục khích lệ các kitô hữu gốc do thái : khi họ bỏ Do
thái giáo để theo Kitô giáo, xem ra như họ bỏ núi Sinai (một trong những biểu
tượng của Do thái giáo), nhưng bù lại họ được tiến lên núi Sion trên trời, trên
đó có thành Giêrusalem trên trời, họ được đến với chính Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Hai bài học ngược đời
Nhân cơ hội được mời dự tiệc, Chúa Giêsu dùng hình ảnh bữa tiệc để
dạy hai bài học : bài học khi được mời dự tiệc và bài học khi đứng ra đãi
tiệc. Cách dự tiệc và cách đãi tiệc là hình ảnh của những cách sống.
a/ Khi được mời dự tiệc :
- Chúa Giêsu thấy người do thái hay chọn chỗ nhất mà ngồi. Không phải vì chỗ
nhất ăn ngon hơn, mà vì chỗ đó danh dự hơn (tiếng "chủ tịch" nghĩa là
làm chủ chiếc chiếu tiệc, lớn nhất trong chiếu). Như vậy "chỗ ngồi"
là danh dự.
- Những người do thái tự chọn chỗ danh dự nghĩa là tự tô vẽ
danh dự cho mình. Việc tự tô vẽ như thế có khi không đúng sự thật, cho nên có
thể bị mời xuống hàng dưới. Như vậy, danh dự của mình không phải do tự
mình tô vẽ, mà do thực tế khách quan người ta công nhân nơi mình và đặt mình
ngồi vào đó. Kẻ tự tô vẽ danh dự có thể bị hố và xấu hổ.
- Chú ý câu cuối "Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống" : Động từ
"Bị hạ xuống" ở thể thụ động, một kiếu tránh nói trực tiếp tới Thiên
Chúa : không phải người đời mà chính cả Thiên Chúa cũng hạ kẻ tự tô vẽ
danh dự của mình. Như vậy, điều khám phá thứ hai là Danh dự của mình là
do Thiên Chúa đặt mình vào. Mà Thiên Chúa thì thường nâng cao kẻ thấp hèn
(Abel/Cain Giacóp/Êsau Giuse/Các anh Đavít/các anh Đức Maria v.v)
b/ Khi đứng ra đãi tiệc :
- Người do thái làm theo óc tính toán : do ut dat. Cái lợi là được người
ta đền đáp
- Chúa Giêsu dạy làm ơn và phục vụ không cần người ta đền đáp, vì chính
Thiên Chúa sẽ đền đáp, và như thế chắc chắn trọng hậu hơn.
* 2. Con là không, Chúa là tất cả
Một
hôm Dương Chu sang nước Tống, vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà có hai nàng
hầu, một nàng đẹp, một nàng xấu. Để ý quan sát Dương Chu thấy trong nhà ai cũng
quí trọng người thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, ông mới dò
hỏi cậu bé giúp việc.
Cậu
bé tiết lộ :
-
Người thiếp đẹp hay kênh kiệu, tự cho mình là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng
ai còn nhìn ra cái đẹp của nàng. Trái lại, người thiếp xấu, tự biết mình xấu,
sống hồn nhiên vô tư với mọi người, nên không ai còn nhìn thấy cái xấu của nàng
nữa.
Dương
Chu liền gọi học trò đến dặn :
-
Các con hãy ghi nhớ lời này : Giỏi mà bỏ được cái thói tự cho mình giỏi,
thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn trọng.
*
"Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ
mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 14,11). Chúa Giêsu rất ưa
thích sự khiêm nhường mà còn làm gương trước cho mọi người. Là một vị Thiên
Chúa quyền năng, nhưng Người đã hạ mình làm kiếp phàm nhân. Là bậc thầy trong
thiên hạ, lại quì xuống rửa chân cho các đệ tử. Chỗ của Người là "chỗ
nhất" trên trời cao, nhưng lại chọn "chỗ cuối" dưới
chân con người.
Chúa
Giêsu tự hạ mình xuống như thế : không phải là để được tôn lên, vì dưới
vòm trời này ngôi báu nào có thể chứa được Người. Người khiêm nhường đến tự huỷ
như thế, cũng là để phục vụ con người đến hết mình, và để yêu thương họ cho đến
cùng. Vì thế, khiêm nhường để gây chú ý, để được tiếng khen, để được tôn lên,
mà không nhằm phục vụ, yêu thương thì chỉ là kiêu ngạo trá hình mà thôi.
Có
thể nói, khiêm nhường như Chúa dạy, chính là "tự nhận mình là
không và Chúa là tất cả", nên chỉ cậy dựa vào Chúa mà hy sinh, mà
phục vụ và yêu thương mọi người. Chỉ có những ai hạ mình xuống như thế mới đáng
được Chúa tôn lên.
Thánh
Giuse đã khiêm nhường phục vụ, yêu thương Đức Mẹ và Đức Giêsu tại quê nghèo
Nadarét, nên đã được tôn làm cha nuôi Chúa Cứu Thế.
Đức
Maria đã khiêm nhường nhận mình là nữ tì của Thiên Chúa, để suốt đời phục vụ
chăm lo cho Con Chúa Trời, nên đã được tôn làm Mẹ Thiên Chúa.
Noi
gương Chúa biết bao con người đang âm thầm xả thân cho đồng loại, họ khiêm
nhường làm những công việc dơ dáy hôi tanh, để chăm sóc cho những người phong
cùi lở loét, những bệnh nhân nan y bất trị, những người hấp hối nhặt được từ
đường phố, những trẻ em nghèo đói, thương tật trong các nước chiến tranh, lạc
hậu.
Chính
khí yêu thương vô vị lợi, chính khi chúng ta "đãi tiệc những kẻ nghèo khó,
tàn tật, què quặt, đui mù, những kẻ không có khả năng mời lại", thì chúng
ta "mới thật có phúc", vì chính Thiên Chúa sẽ trả công cho chúng ta.
Người không có ý phân biệt giàu nghèo, thân sơ, vì trước mắt Thiên Chúa, chúng
ta là anh em. Nhưng Người muốn lưu ý chúng ta rằng : dù người được mời
giàu hay nghèo, thân hay không thân, chúng ta cũng đừng mong họ đáp trả lại
theo kiểu "ăn miếng trả miếng". Đó là lòng bác ái vô vị lợi mà Chúa
muốn dạy chúng ta hôm nay.
Có
thể chúng ta thực thi việc bác ái cho anh em chỉ vì vụ lợi, vì khoe khoang, vì
muốn hơn người, vì trách nhiệm hay vì phần thưởng. Nhưng sự trao ban đích thực
chính là trao ban vì yêu thương. Thánh Gioan viết : "Thiên
Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người" (Ga
3,16). Chỉ những ai trao ban vô vị lợi, trao ban vì yêu thương, trao ban chính
bản thân mới trờ nên giống Thiên Chúa.
*
Lạy
Chúa, Chúa thương những kẻ khiêm nhường, vì họ luôn nhận mình yếu hèn và chỉ
cậy dựa vào Chúa mà thôi.
Xin
Chúa dạy chúng con biết khiêm nhường mà phục vụ, dấn thân và trao ban mà không
mảy may tính toán, vì Chúa sẽ yêu thương chúng con nhiều hơn. Amen (TP)
* 3. Những bậc thang xã hội
Tổ
chức xã hội nào cũng có những bậc thang cao thấp : trong cơ quan, trong
trường học, trong hội đoàn v.v. Chủ tịch hay Giám đốc là cao nhất, kế đến là
Phó, rồi Thư ký, quản lý v.v.
Ngay
trong Giáo Hội cũng thế : có một số người luôn được ngồi ghế danh dự, luôn
có quyền phát biểu trước… trong khi nhiều tín hữu khác chấp nhận thân phận thấp
cổ bé miệng của mình.
Lời
Chúa Giêsu hôm nay phải khiến chúng ta đặt lại vấn đề : "Những kẻ
đứng chót sẽ lên hàng đầu, và những kẻ hàng đầu sẽ hạ xuống chót". Làm thế
nào để thực hành lời Chúa mà không khiến cộng đoàn bị xáo trộn và cũng không
phải thay thế một kiểu chủ nghĩa hình thức này bằng một chủ nghĩa hình thức
khác ?
Sau
đây là một số hoàn cảnh chúng ta cần suy nghĩ :
-
Cách chọn người đại diện cho những thành phần tín hữu.
-
Những hình thức ưu tiên trong cộng đoàn.
-
Cách đối xử với người nghèo, người ít học và cả người "tội lỗi" v.v.
* 4. Đức tin bị vỡ mộng
Đoạn
thánh thư hôm nay được viết cho những tín hữu do thái bị vỡ mộng về đức
tin : họ đã rời bỏ Do thái giáo để theo Kitô giáo. Nhưng sau một thời
gian, họ bị vỡ mộng và có cảm giác bỏ mồi bắt bóng. Họ tưởng phụng vụ kitô giáo
huy hoàng hơn Do thái giáo, nhưng thực tế ngược hẳn lại ; họ tưởng nếp
sống kitô giáo sung sướng hơn nếp sống cũ, nhưng thực tế ngược hẳn lại… Những
tín hữu gốc do thái này tiếc nuối thứ tín ngưỡng ngày xưa của họ, cũng giống như
dân Israel trong sa mạc tiếc nuối củ hành củ tỏi lúc còn ở Ai cập.
Nhiều
tín hữu thích sống với thứ tín ngưỡng thời thơ ấu xa xưa vì họ thấy rất đẹp,
rất ngọt ngào : những chuyện thánh với rất nhiều phép lạ, những bài giáo
lý dạy cho trẻ em với những lối giải thích rất đơn giản về những vấn đề của
cuộc sống đời này và đời sau, những cách giải quyết vấn đề rất đơn giản hễ có
công thì được thưởng và hễ có tội thì bị phạt v.v.
Thế
rồi, khi họ đụng chạm với thực tế ngày nay, cái đức tin trẻ thơ ấy không trả
lời được những vấn nạn hóc búa. Và họ bị vỡ mộng.
Nhưng
sự vỡ mộng này là cần thiết, vì nó thúc giục chúng ta phải bồi dưỡng đức tin,
củng cố đức tin. Bởi vì không thể sống một cuộc sống trưởng thành chỉ với đức
tin của một đứa bé.
5. Chuyện minh họa
a/ Chỗ ngồi và người ngồi
Một
người chủ nhà kia mở một bữa tiệc và mời nhiều người đến dự. Trong số khách
mời, có một học giả nổi tiếng tên là Daniel. Khi Daniel đến, người chủ nhà mời
ông ngồi bàn trên. Nhưng Daniel từ chối, nói rằng ông muốn được ngồi chung với
những người bình dân nghèo nàn. Sau Daniel còn có nhiều người khách lần lượt
đến. Ai cũng dành ngồi bàn trên và những bàn gần phía trên. Rốt cuộc chỉ có cái
bàn tận dưới cùng, bàn mà Daniel đang ngồi, là còn chỗ trống. Sau cùng, ông thị
trưởng đến. Vì không còn ghế trống ở bất cứ bàn nào khác, nên người chủ nhà
buộc lòng mời Ông Thị Trưởng ấy đến ngồi bàn cuối chung với ông Daniel. Vị Thị
Trưởng thắc mắc : "Nhưng đây là chiếc bàn cuối mà !" Người
chủ nhà nhanh trí đáp : "Thưa không, đây là bàn danh dự, vì là bàn có
Ông Daniel đang ngồi". Vị Thị Trưởng hết thắc mắc và ngồi vào chỗ chủ nhà
chỉ.
Ý
nghĩa câu chuyện này là : không phải chỗ ngồi làm cho người ngồi được vinh
dự ; ngược lại chính người ngồi làm cho chỗ ngồi được vinh dự.
b/ Cho thế nào mới có giá trị
Nicholas
là một người nổi tiếng về lòng quảng đại vì đã dùng rất nhiều của cải để cho
rất nhiều người. Ông chết và được dẫn tới cửa thiên đàng.
Thánh
Phêrô chỉ cho ông thấy 2 đống vàng, một đống to và một đống nhỏ, đống nào cũng
gồm nhiều cục vàng có kích cỡ khác nhau. Nicholas hỏi :
-
Những cục vàng kia để làm gì thế ?
Thánh
Phêrô giải thích :
-
Đó là phần thưởng dành cho những người có lòng quảng đại. Mỗi cục vàng tương
đương với một lần cho đi mà con người thực hiện khi còn sống.
Nicholas
phấn khởi trong lòng, tin chắc mình sẽ được thưởng rất nhiều. Nhưng ngay lúc đó
Thánh Phêrô nói tiếp :
-
Tuy nhiên không phải lần nào người ta cho cũng đều là thật lòng cả đâu. Đa số
những lần cho đều do tính toán vụ lợi. Chúng là những cục trong đống vàng lớn
này, không được kể.
-
Sao vậy ?
-
Đống vàng lớn tượng trưng cho những thứ mà người ta cho bà con, bạn bè thân
thích. Chúng chẳng có giá trị gì cả, vì ngay cả những tên trộm cướp cũng biết
cho những người thân của mình như thế.
Thánh
Phêrô vừa nói xong thì đống vàng lớn tan thành bụi.
Tiếp
đến, thánh Phêrô lấy một cái sàng có những lỗ khá to. Rồi Ngài lấy những cục
vàng trong đống còn lại để lên sàng mà sàng. Rất nhiều cục vàng bị lọt xuống.
Và Thánh Phêrô giải thích :
-
Những cục vàng bị lọt xuống ấy là những của người ta cho đi với tính toàn sẽ
được lại. Đó không thực sự là cho, mà là đầu tư, vì thế cũng không kể.
Thế
là những cục vàng ấy trở thành bụi.
Thánh
Phêrô chỉnh các lỗ sàng cho rộng ra một chút. Ngài lấy những cục vàng còn lại
đặt lên sàng và sàng lần nữa. Lại một số lọt xuống :
-
Đây là những của người ta cho đi để được người khác khen ngợi. Cũng là một hình
thức mua bán, cho nên cũng không kể.
Mớ
vàng ấy lại tan thành bụi.
Thánh
Phêrô lại chỉnh những lỗ sàng cho rộng hơn nữa và lại sàng mớ vàng còn lại. Một
số lại lọt xuống :
-
Đây là những của người ta cho đi để được cảm giác mình đã làm một việc tốt.
Chúng cũng không được kể.
Và
mớ vàng đó cũng lập tức tan thành bụi.
Sau
lần sàng thứ tư, thánh Phêrô nói :
-
Đây là những của người ta cho vì bổn phận. Cũng không được kể. Và chúng cũng
tan thành bụi.
Thánh
Phêrô chuẩn bị sàng lần thứ năm thì Nicholas đưa tay chặn lại : "Thôi
thôi, xin Ngài đừng sàng nữa, vì nếu cứ tiếp tục thì tôi sẽ chẳng còn gì
cả". Thánh Phêrô ôn tồn đáp :
-
Đúng thế, những của cho thực sự thì rất ít, cũng như vàng nguyên chất thì rất
ít vậy. Tuy nhiên anh đừng nản lòng, tôi có một tin vui cho anh.
-
Tin vui gì ?
-
Thiên Chúa là người quảng đại thật lòng nhất. Nào chúng ta hãy đến gặp Ngài.
-
Nhưng mà hai bàn tay của con rỗng không, con không có gì cả.
-
Nghĩa là anh nghèo chứ gì ! Thì càng tốt, bởi vì Thiên Chúa đối xử quảng
đại hào phóng nhất đối với những người nghèo mà tự biết mình nghèo.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, lý tưởng
người Kitô hữu cần đạt được trong cuộc sống trần gian là mỗi ngày một nên giống
Chúa Giêsu hơn. Luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời
cầu xin :
1. Chúa Giêsu nói : / Anh em hãy học với
tôi / vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho các vị mục tử / luôn noi gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa
Giêsu, Vị Mục tử nhân hậu.
2. Con người vốn có rất nhiều tham vọng : /
muốn được giàu sang / đam mê quyền lực / thích được địa vị cao trong
xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người / nhận thấy được tính
mau qua của mọi thực tại trần gian.
3. Chúa ghét kẻ kiêu căng và thương người khiêm
tốn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu hiểu được chân lý
này / để cố gắng khiêm tốn và hiền lành trong cung cách xử sự của mình.
4. Đức bác ái buộc người tín hữu phải tôn trọng nhân
phẩm / và chia sẻ cơm áo cho người nghèo khổ / Chúng ta hiệp lời cầu
xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái như Chúa đã
dạy.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi
chúng con hãy nên trọn lành như Cha trên trời, mà một trong những phương thế
hữu hiệu giúp người Kitô hữu đạt được mục tiêu này chính là sống theo Lời Chúa
dạy trong Tin mừng. Xin cho chúng con ý thức được tầm quan trọng của Lời Chúa
trong đời sống đức tin thường ngày. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước
kinh Lạy Cha : Kinh Lạy Cha nhắc chúng ta nhớ rằng mọi người chúng ta
là anh em với nhau do cùng một Cha là Thiên Chúa trên trời. Vậy chúng ta hãy
đối xử với nhau một cách quảng đại, thật tình chứ đừng tính toán thiệt hơn.
- Sau
kinh Lạy Cha : "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, đặc
biệt là thói kiêu ngạo, hám danh, vụ lợi… Xin đoái thương cho những
ngày chúng con đang sống được bình an…"
VII. Giải tán
Xin
Chúa giúp anh chị em trong tuần này biết sống khiêm tốn và quảng đại, vì
"ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên",
và nếu chúng ta giúp đỡ những người không có khả năng đáp trả thì chính Thiên
Chúa sẽ thay mặt họ đáp trả bội hậu cho chúng ta.
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật XXII Thường Niên (C)
Chúa
Nhật, 28 Tháng 8, 2016
Dụ
ngôn chỗ trên nhất và chỗ rốt hết:
Vì
hễ ai tự nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống
Lc
14:1, 7-14
1.
Lắng Nghe Lời Chúa
a)
Lời nguyện mở đầu:
Lạy
Chúa, tất cả chúng con có một nỗi khao khát được lắng nghe Chúa, và Chúa biết
điều ấy, bởi vì chính Chúa đã tạo dựng nên chúng con như thế. “Chỉ có Chúa mới
có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6:68). Chúng con tin vào những Lời này,
chúng con đang đói và khát cho những Lời này; vì những Lời này, trong sự khiêm
nhường và lòng yêu thương, chúng con cam nguyện với tất cả lòng trung thành
chúng con. “Lạy Chúa, xin hãy phán, tôi tớ Chúa đang lắng nghe” (1Sm
3:9). Đây là lời cầu nguyện khẩn thiết của Samuel là người không biết;
trường hợp chúng con có phần khác, nhưng đó chính là tiếng nói của Chúa, Lời của
Chúa, mà đã thay đổi sự run sợ của lời cầu nguyện cổ xưa thành niềm khao khát
được hiệp thông của một người con nài van cha nó: Xin cha hãy nói vì con
cha đang lắng nghe.
b)
Tin Mừng:
1 Khi ấy, trong ngày Sabbát, Chúa
Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người Biệt Phái để dùng bữa; và họ dò xét Người.
7 Người nhận thấy cách những kẻ được
mời, chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng: 8 “Khi
có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng
hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, 9 và chủ tiệc
đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho người
này.’ Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. 10 Nhưng
khi ngươi được mời, hãy đi vào chỗ ngồi rốt hết, để khi người mời ngươi đến,
nói với ngươi rằng: ‘Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên.’ Bấy giờ ngươi
sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. 11 Vì
hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc
lên.’ 12 Rồi Người lại nói với kẻ đã mời Người rằng:
“Khi ông dọn bữa ăn trưa hay tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng
giềng giàu có, kẻo đến lượt họ cũng mời ông, và như thế ông đã được trả lễ rồi. 13 Nhưng
khi làm việc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt, và đui mù; 14 ông
sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những
người công chính sống lại.”
c)
Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Để được
thấm nhuần Lời của Chúa Kitô và để Lời Chúa trở nên xác phàm, là Đức Kitô, có
thể ngự trị trong lòng chúng ta và để chúng ta có thể tuân giữ các Lời ấy, thật
là cần thiết rằng có sự lắng nghe và im lặng sâu sắc.
2.
Lời Chúa được soi sáng (Lectio)
a)
Bối cảnh:
Dụ
ngôn về sự chọn chỗ được kể lại, trong một ngày thứ bảy khi Chúa Giêsu đã đến
thành Giêrusalem, nơi Mầu Nhiệm Vượt Qua sẽ được hoàn tất, nơi Nhiệm Tích Thánh
Thể của Giao Ước Mới sẽ được cử hành, mà sau đó là cuộc gặp gỡ với Đấng hằng sống
và sự ủy thác sứ vụ vào các môn đệ do đó nối tiếp sứ vụ lịch sử của Đức
Giêsu. Ánh sáng của Lễ Vượt Qua làm cho tất cả những ai được gọi để đại
diện Người như là người tôi tớ, phục vụ (diakonos), trong cộng
đoàn, trong các cuộc tập họp quây quần bên bàn ăn, để xem thấy con
đường mà Chúa sẽ đi qua. Đó là chủ đề của các khách mời tại bàn tiệc hoặc
sống vui vẻ cùng nhau của thánh Luca. Chúa Giêsu đã nhận ra thực tế đẹp đẽ
nhất, được công bố và giảng dạy tại bàn tiệc trong một khung cảnh hòa đồng vui
vẻ.
Trong
chương 14, thánh Luca, với nghệ thuật một người kể chuyện có khả năng của ông,
vẽ nên một bức tranh, trong đó ông đã chồng hai hình ảnh lên nhau: Đức Giêsu
tại bàn ăn xác định khuôn mặt của cộng đồng mới, được mời đến chung quanh bàn
tiệc Thánh Thể. Trang này được phân chia thành hai cảnh: cảnh thứ nhất, lời
mời ăn tối tại nhà một thủ lãnh các người Biệt Phái, vào một ngày lễ, ngày thứ
bảy (Lc 14:15-16), mà cũng là mối quan tâm đến vấn đề của các khách mời: ai sẽ
tham gia vào bàn tiệc trên nước Trời? Điều này chuẩn bị bắt đầu ngay từ
bây giờ trong mối quan hệ với Chúa Giêsu, Đấng mời gọi những kẻ chung quanh Người
gia nhập vào trong cộng đoàn-Giáo Hội.
b)
Lời chú giải:
-
Thứ bảy, một ngày lễ và ngày giải thoát
Đây
là đoạn trong Tin Mừng theo thánh Luca: “Trong ngày Sabbát, Chúa
Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người Biệt Phái để dùng bữa; và họ dò xét Người” (Lc
14:1). Trong một ngày lễ, Chúa Giêsu được mời bởi một người là kẻ chịu
trách nhiệm về phong trào của các người tuân giữ lề luật hoặc người Biệt
Phái. Chúa Giêsu đang ngồi tại bàn ăn. Cảnh thứ nhất diễn ra trong
bối cảnh này: việc chữa lành một người đàn ông bị bệnh phù thủng đã bị cản trở
bởi sự tàn phế thân thể nên không thể ngồi dự tiệc. Những người bị bệnh
trong thân thể thì bị gạt bỏ ra khỏi cộng đoàn bởi những người biệt phái theo lề
luật Qumran. Bữa ăn trong ngày Thứ Bảy mang đặc tính ngày lễ hội và
thiêng liêng cách đặc biệt đối với người tuân thủ theo Lề Luật. Thực ra,
vào ngày Thứ Bảy, có sự tưởng nhớ hàng tuần của việc rời bỏ đất Ai Cập và sự
tao dựng trời đất. Chúa Giêsu, một cách chính xác vào ngày Thứ Bảy đã đem
lại sự tự do và việc tái hội nhập xã hội với đầy đủ sức khỏe cho người bị bệnh
phù thủng.
Vì thế,
Chúa đã dùng những lời sau đây để chứng minh cho việc làm của mình trước các giảng
viên và các người biệt phái: “Trong số các ông ở đây nếu có con lừa
hoặc con bò của mình bị rơi xuống giếng mà không kéo nó lên dù rằng trong ngày
Sabbát không?” Thiên Chúa quan tâm đến loài người và không
phải chỉ vì của cải hoặc các tài sản của người ta. Ngày Thứ Bảy không chỉ
là ngày phải tuân giữ các lề luật về sự nghỉ ngơi thiêng liêng bên ngoài, mà đó
còn là ngày có ích lợi cho con người. Với mối quan tâm hướng về loài người,
nó cũng được ban cho chiếc chìa khóa để định nghĩa các tiêu chuẩn cho việc hội
họp trong cộng đoàn này được biểu tượng là bàn tiệc: Làm cách nào để chọn
vị trí chỗ ngồi? Ai được mời và ai tham gia cuối cùng tại Bàn Tiệc Nước Trời?
Cử chỉ của Chúa Giêsu là một chương trình: Thứ bảy là ngày tạo ra cho
loài người. Vào ngày Thứ Bảy, Chúa đã làm đúng theo ý nghĩa căn bản của
việc cử hành ngày kỷ niệm rời khỏi đất Ai-Cập và sự tạo dựng trời đất.
-
Về việc chọn chỗ ngồi và các khách mời
Các
tiêu chuẩn để chọn vị trí chỗ ngồi không dựa trên địa vị, chức tước, hoặc danh
tiếng, mà được đặt để bởi việc làm của Thiên Chúa khuyến khích những người sau
rốt, “bởi vì ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được
nâng lên”(Lc 14:11). Nguyên tắc này kết thúc bài dụ ngôn về các nghi
lễ mới, đã làm đảo ngược các tiêu chuẩn đã có của thế gian, nói về việc làm của
Thiên Chúa qua hình thức thụ động “sẽ được nhắc lên”. Thiên
Chúa cất nhắc những người bé nhỏ và nghèo hèn như Chúa Giêsu đã làm cho người
đàn ông bị bệnh phù thủng, là người đã bị gạt bỏ ra ngoài, đem người ấy đến bàn
tiệc và cùng ngồi ăn với ông ta trong ngày lễ Sabbát.
Sau
đó chúng ta có tiêu chuẩn cho việc chọn lựa những khách mời. Tiêu chuẩn của
việc giới thiệu và sự quen biết trong cùng giai cấp đã bị loại bỏ: “Đừng
mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có…” “Ngược lại, khi ngươi
có một bữa tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, và đui mù…” (Lc
14:12-13).
Danh
sách bắt đầu với những người nghèo khó, những người mà trong sách Tin Mừng Luca
là những người thừa hưởng các Mối Phúc Thật: “Phúc cho ai có tinh
thần nghèo khó, vì nước Trời là của họ”. Trong danh sách những khách
mời, những người nghèo khó được đề cập đến như là những người bị tật phế về thể
chất, người tàn tật, bị loại trừ ra khỏi tình bạn bè của các người Biệt Phái và
khỏi các cuộc tế lễ (2Sm 5:8; Lv 21:18).
Danh
sách này cũng được tìm thấy trong dụ ngôn về buổi tiệc lớn: kẻ nghèo khó, người
tàn tật, kẻ mù lòa, què quặt được đặt vào chỗ những người khách quý (Lc 14:21).
Dụ
ngôn thứ hai về tiêu chuẩn chọn lựa khách mời được loan báo với lời công bố
này: “Ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ
được trả lễ khi những người công chính sống lại” (Lc 14:14), vào lúc tận
thế Thiên Chúa sẽ chứng tỏ quyền tối cao của mình bằng cách chia sẻ sự sống đời
đời. Tại thời điểm này có một thành ngữ nói về những khách mời như một
món quà lưu niệm giữa hai dụ ngôn nhỏ và dụ ngôn buổi tiệc lớn: “Phúc
thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa!” (Lc 14:15). Lời này
nhắc nhớ lại những mối Phúc Thật của Nước Trời và điều kiện để gia nhập vào nước
này qua hình ảnh của bữa tiệc, “ăn bánh”, giới thiệu trong dụ ngôn
nói trước đó về bữa tiệc lớn trong ý nghĩa ngày tận thế. Nhưng bữa tiệc
cuối cùng này, là Nước Thiên Chúa và sự hiệp thông toàn vẹn với Người, được chuẩn
bị từ lúc này bằng cách ngồi chung và ăn cùng một bàn. Chúa Giêsu thuật lại
dụ ngôn này để giải thích việc tập họp mọi người với việc công bố Nước Thiên
Chúa và qua các hành động mang tính cách lịch sử của Người.
3.
Suy Gẫm Lời Chúa
a) Khi Chúa Giêsu ở trong nhà người
Biệt Phái đã mời Người đến dùng bữa, Chúa quan sát cách mà những người được mời
cố để có những chỗ ngồi trên nhất. Đó là một thái độ rất phổ biến trong
cuộc sống, không những chỉ khi người ta tại bàn tiệc: mỗi người cũng cố để có
được chỗ trước nhất về sự quan tâm và kính trọng từ những người khác. Tất
cả mọi người, bắt đầu từ chính mình, chúng ta đều có kinh nghiệm này.
Nhưng chúng ta hãy chú ý, Lời của Chúa Giêsu khuyên nhủ tránh không chọn
chỗ trên nhất không chỉ đơn giản là một lời dạy bảo giáo dục xuông; đó còn là một
quy luật trong cuộc sống. Đức Giêsu minh xác rằng chính Thiên Chúa đã ban
cho mỗi người chúng ta nhân phẩm và danh dự; chúng ta không thể tự ban phát nó
cho mình, hay tự cho đó là các giá trị riêng của chúng ta. Như Người đã
nói trong bài giảng các Mối Phúc Thật, Đức Giêsu đảo ngược sự xét đoán và cách
cư xử của thế gian này. Ai tự thú nhận mình là kẻ tội lỗi và khiêm hạ thì
được nhắc lên bởi Thiên Chúa; nhưng, những ai có dự định để được mọi người thừa
nhận và chọn chỗ nhất thì có nguy cơ bị loại trừ khỏi bữa tiệc này.
b) “Khi có ai mời ngươi dự
tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được
mời dự tiệc với ngươi … Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết” (Lc
14:8-9). Dường như Chúa Giêsu muốn bông đùa về nỗ lực trẻ con của các người
khách đã cố gắng dành cho được những chỗ tốt nhất; nhưng ý định của Người có một
mục đích nghiêm trọng hơn. Nói với các thủ lãnh của người Do-thái, Chúa
đã cho thấy quyền năng nào đã tạo dựng nên mối quan hệ với Nước Trời: “Ai
tự nhắc mình lên thì sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên” (Lc
14:11). Chúa nói cho họ biết “lối xử dụng quyền lực đúng đắn” được tìm thấy
trong sự khiêm nhu. Nó cũng là sức mạnh mà Thiên Chúa đã ban phát cho
nhân loại trong việc Nhập Thể: “Vì vâng theo thánh ý của Chúa Cha, để
toàn thể nhân loại được cứu rỗi, Đức Kitô đã không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế; Người lại còn hạ mình, vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2:6-8).
Việc hoàn toàn trút bỏ vinh quang của Con Thiên Chúa có khả năng chữa
lành, hòa giải và giải thoát mọi tạo vật. Sự khiêm tốn chính là động lực
xây dựng Nước Trời và cộng đoàn các môn đệ, là Giáo Hội.
4. Cầu
Nguyện – Thánh Vịnh 23
Bài
Thánh Vịnh dường như xoay quanh một tiêu đề: “Chúa là Đấng chăn nuôi
tôi”. Các Thánh là hình ảnh của một đoàn chiên trên đường: họ được chăn dắt
bởi sự tốt lành và lòng trung tín của Thiên Chúa, cho đến lúc họ cuối cùng đã
tiến vào nhà Chúa Cha (L.
Alonso Schokel, Các Thánh Vịnh của lòng tín thác, Sách Dehoniana,
Bologna, 2006, 54).
CHÚA
là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa
dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Lời
nguyện kết:
“Lạy
Chúa, con xin cảm tạ về ánh sáng Chúa đã đổ tràn trên con, ánh sáng tràn ngập đời
con với niềm xác tín rằng con là kẻ tội lỗi. Con đã hiểu cặn kẽ hơn rằng
Đức Giêsu, Con Một Chúa, là Đấng Cứu Chuộc con.
Ý chí
con, tâm hồn con, tất cả thể xác con xin trao trọn nơi Chúa. Nguyện xin
tình yêu của Đấng Toàn Năng chinh phục con, Ôi lạy Chúa! Xin hãy đánh đổ
sự phản kháng thường xuyên làm cho con nổi loạn, nỗi luyến tiếc đã thúc đẩy con
trở nên biếng nhác; nguyện xin Tình Yêu Chúa chinh phục được tất cả để con có
thể là một giải thưởng hạnh phúc cho sự chiến thắng vinh quang của Chúa.
Niềm
hy vọng của con nương tựa vào lòng trung tín của Chúa. Cho dù con có phải
lớn lên trong những cơn lốc xoáy của nền văn minh, con đã biến đổi thành một
bông hoa và người gác cổng của Chúa trong mùa Xuân đã được nở rộ, đâm chồi nảy
lộc từ Máu Con Thiên Chúa. Xin Chúa nhìn vào mỗi người chúng con, Chúa
chăm sóc chúng con, Chúa bảo vệ chúng con; Lạy Chúa, Đấng vun xới mùa Xuân của
Cuộc Sống Đời Đời: Lạy Chúa, là Cha của Đức Giêsu, và là Cha của chúng con; lạy
Cha của con!” (ĐHY Anastasio Ballestrero)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét