20/08/2016
Thánh Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội
Thánh.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đi-giông,
nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111, người nhập dòng các
đan sĩ Xitô. Ít lâu sau, người được chọn làm viện phụ. Người đã dùng hoạt động
và gương sáng để hướng dẫn các đan sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự phân ly
trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hòa bình và hiệp nhất.
Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.
Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 43,
1-7a
"Uy
nghi Chúa tiến vào đền thờ".
Trích
sách Tiên tri Êdêkiel.
Thiên
Thần dẫn tôi đến cửa phía đông. Và đây vinh quang Thiên Chúa Israel từ con đường
phía đông tiến vào: tiếng của Người như tiếng nước lũ, và địa cầu sáng rực uy
nghi của Người. Thị kiến mà tôi đã thấy giống như thị kiến trước kia tôi đã xem
thấy khi Người đến huỷ diệt thành phố, và như thị kiến tôi đã xem thấy gần sông
Côbar, nên tôi sấp mặt xuống đất. Uy nghi Chúa tiến vào đền thờ theo lối của hướng
đông. Thần Trí đỡ tôi lên, và dẫn tôi vào hành lang phía trong. Ðây ánh vinh
quang của Chúa tràn ngập đền thờ. Tôi đã nghe có người nói với tôi từ trong đền
thờ và người đứng gần bên tôi, bảo tôi rằng: "Hỡi con người, đây là nơi đặt
bệ ngai Ta, nơi Ta để chân, nơi Ta ngự giữa con cái Israel đến muôn đời".
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14
Ðáp: Vinh quang Chúa ngự trị trong đất
nước chúng tôi (x. c. 10b).
Xướng:
1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ
phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa,
để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.
2)
Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau
âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.
- Ðáp.
3)
Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông
trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước
của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con
Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 23, 1-12
"Họ
nói mà không làm".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người
biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy
làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ
buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ
ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới
rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu
trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là
"Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là
"Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh
em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các
ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi
là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức
Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự
nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm: Ðề phòng thái độ giả hình
Theo
các văn thư của Ðức Giáo Hoàng Innocentê để lại, thì thời của Ngài, tức thế kỷ
12, là một trong những thời kỳ suy thoái nhất của giáo huấn về đức tin và luân
lý: tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê
bình chỉ trích các vị lãnh đạo Giáo Hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài.
Lúc đó thánh Phanxicô Assisiô xuất hiện, ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức
rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài; ngài không khoe khoang,
không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống đạo một cách nghiêm túc;
ngài đi cho đến tận cùng trọng cuộc sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan
dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ,
Giáo Hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới, mùa xuân thiêng liêng được
nở rộ nhiều thế kỷ liên tiếp.
Trong
giai đoạn hiện nay, mẫu gương của thánh Phanxicô Assisiô thôi thúc chúng ta hơn
bao giờ hết.
Tin Mừng
hôm nay không phải là một bản án trút xuống một vài thành phần nào đó trong
Giáo Hội, mà phải là một lời mời gọi sám hối cho mọi người. Quả thật, Chúa
Giêsu không chỉ kết án thái độ giả hình của những biệt phái, mà còn kêu gọi mọi
người hãy đề phòng thái độ giả hình ấy. Giả hình là căn bệnh chung của tất cả
những ai mang danh Kitô. Thật thế, nếu giả hình là tách biệt giữa niềm tin và
cuộc sống, thì có ai trong chúng ta dám tự phụ mình không rơi vào một thái độ
như thế? Giả hình vẫn là cơn cám dỗ cơ bản và triền miên trong cuộc sống người
Kitô hữu. Khi căn tính Kitô chỉ là một danh xưng mà không được thể hiện trong
cuộc sống hàng ngày, khi sinh hoạt tôn giáo chỉ đóng khung trong bốn bức tường
nhà thờ, khi lòng đạo đức được thúc đẩy bởi khoe khoang, tự phụ, khi cuộc sống
đạo không là lối sống về niềm tin, mà là trở ngại cho nhiều người đến với Chúa
và Giáo Hội, phải chăng đó không là một cuộc sống giả hình?
Câu hỏi
mà chúng ta không ngừng đặt ra là cuộc sống đạo của tôi có thực sự là một đóng
góp vào việc cải tạo một xã hội đang băng hoại về đạo đức và những giá trị tinh
thần không? Giáo Hội mà tôi là thành phần, có xứng đáng là điểm tựa đạo đức cho
nhiều người không?
Xin
Chúa soi sáng hướng dẫn chúng ta để chúng ta không ngừng nhìn lại bản thân và
nhận ra những thiếu sót lầm lỡ trong cuộc sống đạo, ngõ hầu từ đó chúng ta quyết
tâm vươn lên mỗi ngày trên đường theo Chúa.
Veritas
Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 20 TN2
Bài đọc: Eze
43:1-7; Mt 23:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Giá trị bên trong thay vì hào nhoáng bên ngoài.
Chúa
luôn đòi con người chú trọng đến đời sống tinh thần bên trong hơn là những nghi
thức hoành tráng bên ngòai; đến mối liên hệ sâu đậm với Thiên Chúa và giữ các
điều răn của Ngài hơn là những danh xưng hào nhoáng và giữ các tập tục của con
người.
Các
Bài đọc hôm nay lại một lần nữa dạy con người những nguyên tắc căn bản trên.
Trong bài đọc I, ngôn sứ Ezekiel nhắc nhở cho con cái Israel sự hiện diện của
Thiên Chúa trong Đền Thờ, để họ đừng làm cho Đền Thờ ra ô uế như vua chúa và
các tiền nhân của họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên dân chúng chú trọng đến
đạo lý các kinh sư và biệt phái dạy họ; nhưng đừng làm những gì họ làm, vì họ
không thực hành những điều họ dạy.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vinh quang của Thiên Chúa trở lại bao phủ
Đền Thờ.
1.1/ Đền
Thờ sẽ được xây dựng lại sau thời lưu đày: Như lời Chúa đã tuyên sấm qua các tiên
tri (Isaiah, Micah, Jeremiah, Ezekiel), Chúa tạo cơ hội cho Israel được hồi
hương sau những năm tháng lưu đày. Điều quan trọng hàng đầu là cho họ có cơ hội
xây dựng lại Đền Thờ, nơi Thiên Chúa sẽ cư ngụ giữa họ để dạy dỗ và che chở họ.
Trong quá khứ, Israel đã vấp phạm hai lỗi lầm quan trọng: (1) quá để ý đến Đền
Thờ mà quên đi sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa họ, và (2) quá để ý đến những
nghi lễ bên ngoài mà quên đi việc thực thi hai giới răn công bằng và bác ái.
Thị kiến
hôm nay nhắc nhở cho họ biết Đền Thờ sẽ chỉ là cái vỏ vô nghĩa bên ngoài nếu
không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Một khi không còn sự hiện diện của Thiên
Chúa, Đền Thờ cũng chẳng khác chi các dinh thự khác. Tiên tri cho biết thị kiến
ông nhìn thấy vinh quang của Chúa xuất hiện và bao trùm Đền Thờ hôm nay cũng giống
như thị kiến ông đã thấy khi Người đến để huỷ diệt thành, thị kiến ông đã thấy
bên sông Chebar.
1.2/ Sự
hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ mới: Một khi Đền Thờ đã hoàn tất, cần có sự
hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ. Tiên tri Ezekiel bảo đảm điều này khi
ông nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa từ trời ngự xuống trên ngai Cherubim,
qua cổng phía đông và ở lại trong Đền Thờ; và lời Thiên Chúa phán với ông: “Hỡi
con người, đây là nơi Ta đặt ngai của Ta, đây là nơi Ta đặt các bàn chân của
Ta. Ta sẽ ngự tại đây, giữa con cái Israel, cho đến muôn đời. Nhà Israel, cả
chúng lẫn các vua của chúng, sẽ không còn làm ô uế danh thánh của Ta vì những sự
đàng điếm và xác chết các vua của chúng nữa.”
2/ Phúc Âm: Nghe nhưng đừng làm.
2.1/ Giá
trị giới hạn của kiến thức suông: Tục ngữ Việt-Nam dạy: “Lời nói lung
lay, gương bày lôi kéo.” Lời nói có thể chỉ cho con người biết điều đúng sai,
nhưng gương sáng có sức hấp dẫn để người khác làm theo như vậy. Người lãnh đạo
hoàn hảo là người biết dùng cả lời nói lẫn hành động để hướng dẫn những người
dưới quyền mình làm theo những gì họ muốn. Tuy nhiên, nếu không tìm thấy một
người lãnh đạo hoàn toàn như thế, người lãnh đạo chỉ bằng lời nói cũng có thế
giá giới hạn của họ như Chúa Giêsu đã công nhận hôm nay. Người nói với dân
chúng và các môn đệ Người rằng: "Các kinh sư và các người Pharisees ngồi
trên toà ông Moses mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm,
hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.”
2.2/ Những
tật xấu của các luật-sĩ và Pharisees: Chúa Giêsu tố cáo họ những điều sau:
(1) Họ
là những người làm luật và kiểm soát những người lỗi phạm luật; vì thế họ đặt
ra rất nhiều luật đến độ quá chi li không cần thiết, chẳng hạn cách thức rửa
tay trước khi ăn hay đóng thuế thập phân những lá cây như bạc hà. Chúa buộc tội:
“Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không
buồn động ngón tay vào.”
(2) Họ
làm việc cốt để cho thiên hạ thấy: Tất cả những việc đạo đức họ làm không vì
Thiên Chúa, nhưng để cho người đời trông thấy để khen ngợi họ. Tuy việc đeo hộp
kinh và mang tua áo trong khi cầu nguyện là việc luật buộc phải làm để nhắc nhở
họ phải không ngừng nhớ tới Thiên Chúa là Chúa của họ (hộp kinh: Exo 13:16, x/c
Deut 6:8, 11:18; tua áo: Num 15:37-41, Deut 22:12); nhưng để kéo sự chú ý của
người khác, họ thi nhau làm những hộp kinh lớn hơn và đeo những tua áo dài hơn.
(3) Họ
ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường: Trong các
đám tiệc, chỗ nào quan trọng nhất là chỗ của họ, chẳng hạn ngồi bên trái hay phải
của chủ nhà hay cùng bàn với những nhân vật quan trọng. Trong hội đường
Do-thái, những ghế trên đầu là những ghế dành cho những người già cả và vị vọng.
Họ muốn những ghế này để tỏ cho thiên hạ biết mình quan trọng và chú ý tới cách
ăn mặc của họ cũng như các việc họ làm.
(4) Họ
thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là
“rabbi.” Người luật sĩ và Pharisees quan niệm dân chúng phải đối xử với họ như
những công dân bậc nhất, hơn cả cha mẹ, vì cha mẹ chỉ có công về phần xác;
trong khi họ có công về phần tinh thần và tinh thần quan trọng hơn thân xác.
Tại
sao Chúa Giêsu ngăn cấm không cho các môn đệ gọi ai là "rabbi,"
“cha,” hay “người lãnh đạo”? Ở đây Chúa muốn nhắc nhở cho các môn đệ đừng tôn
thờ ai như thần tượng của mình để bắt chước họ ngòai một mình Thiên Chúa. Sau
cùng, Chúa nhắc nhở con người về tiêu chuẩn đánh giá trị của Thiên Chúa: “Trong
anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ
bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đền
thờ hay thánh đường là nơi Thiên Chúa ngự; mỗi khi đến những nơi đó chúng ta cần
có thái độ cung kính và khiêm nhường để học hỏi và cầu nguyện với Chúa. Đó
không phải là nơi phô trương các việc đạo đức hay tài năng cho người khác nhìn
thấy để bái phục và khen thưởng; càng không phải là nơi để trình diễn thân thể
hay thời trang làm chia trí người khác.
-
Chúng ta có lý do để không theo những nhà lãnh đạo bằng miệng, nhưng những kiến
thức của họ tự nó cũng có giá trị. Vì thế, chúng ta nên theo những gì họ nói mà
không làm theo những gì họ làm.
- Thân
xác con người là đền thờ của Thiên Chúa, chúng ta cần phải chú trọng đến sự hiện
diện của Chúa trong tâm hồn và biết quí những nét đẹp và giá trị bên trong thay
vì những hào nhoáng và các giá trị bên ngoài.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
20/08/16 THỨ BẢY TUẦN
20 TN
Th. Bê-na-đô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh
Mt 23,1-12
Th. Bê-na-đô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh
Mt 23,1-12
Suy niệm: Nghe tin mình được bổ nhiệm Tổng Giám Mục San
Salvador, Đức Cha Oscar Romero bàng hoàng lo lắng vì ngài hiểu sứ vụ ấy rất
nặng nề, cách riêng trong bối cảnh thực tế. Một thân hữu trao cho ngài đôi giày
mới làm quà mừng. Và một trong những việc đầu tiên của Tổng Giám Mục Romero
là... cởi bỏ đôi giày cũ đã há miệng toang hoác, xỏ đôi giày mới vào, và lớ ngớ
tập bước đi cho ra uy phong ‘tổng giám mục.’ Làm ‘lớn’ sao mà phiền phức quá!
Mà phiền phức thật đấy. Vị tổng giám mục bị dính hết rắc rồi này đến rắc rối
khác với nhà cầm quyền và với giới địa chủ, vì ngài dứt khoát đứng về phía đám
đông dân nghèo bị bức hiếp và ngài kiên quyết bênh vực họ. Người ta mưu sát
ngài, ngài tuyên bố: “Nếu họ giết tôi, tôi sẽ sống lại nơi người dân
El Salvador!” Và thực tế đã xảy ra đúng như vậy.
Mời Bạn: Cuộc
đời Đức Tổng Giám Mục Romero là một minh họa tuyệt vời về ý nghĩa của ‘làm lớn’
trong Hội Thánh. ‘Làm lớn’ trong Hội Thánh là để phục vụ, và chỉ để phục vụ
thôi, cho đến chết. Cái chết của Đức Giê-su không phải là cái giá Người phải
trả cho sứ vụ phục vụ của Người đó sao? Cái chết đó không phải là hành động
phục vụ tột đỉnh mà Người thể hiện đó sao?
Chia sẻ: Theo
bạn, những gì thường che lấp hay thậm chí làm phá sản ý nghĩa phục vụ nơi những
người ‘làm lớn’ trong Hội Thánh?
Sống Lời Chúa: Mỗi
sáng, chúng ta tự nhủ: “Thêm một ngày để tôi phục vụ.”
Mỗi cuối ngày, ta tự vấn: “Hôm nay tôi đã phục vụ như thế
nào?”
Cầu nguyện: Hát Kinh
Hòa Bình.
Là anh em với nhau
Giả hình là không làm điều mình dạy người khác,
là dễ dãi với chính mình, nhưng khắt khe với tha nhân. Giả hình là biến việc thờ
phượng Chúa thành thờ mình.
Suy niệm:
Nửa
sau của bài Tin Mừng hôm nay
có
thể làm chúng ta bị sốc.
Ðức
Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy,
vì
chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài;
cũng
đừng gọi ai là cha,
vì
chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời.
Vậy
mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh
là
cha, là Ðức Thánh Cha,
là
giáo phụ, thượng phụ, viện phụ...
Chúng
ta có làm sai lời Chúa dạy không?
Ta
có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Ðức Giêsu không?
Hội
Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen.
Thánh
Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu,
đã
gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19).
Hội
Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28),
và
những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8)
Vậy
đâu là điều Ðức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc
chắn Ngài không hề muốn phá bỏ
những
cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh,
Ngài
cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành.
Ngài
chỉ muốn chúng ta đừng quên:
mọi
quyền bính trong Hội Thánh
đều
bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu
có ai làm thầy, làm người lãnh đạo,
thì
vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Ðức Giêsu.
Nếu
họ được gọi là cha,
thì
vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa.
Dù
có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh,
tôi
cũng không được quên chân lý này:
còn
tất cả anh em đều là anh em với nhau,
con
một Cha trên trời.
Chỉ
có một vị Thầy là Ðức Giêsu.
Nhưng
Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ,
như anh
em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50),
và
nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Ðức
Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo.
Quyền
lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần
đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự giả hình
của
một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả
hình là không làm điều mình dạy người khác,
là
dễ dãi với chính mình,
nhưng
khắt khe với tha nhân.
Giả
hình là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ mình,
làm
việc tốt để người ta thấy và thán phục.
Khi
nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình,
tôi
thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ,
dám
“đốc” chứ không dám làm...
Có
những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối,
vì
mở cho chúng ta những chân trời xa,
cho
chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm,
nhưng
chưa làm.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
20
THÁNG TÁM
Hiệp
Nhất: Sứ Mạng Cốt Thiết Của Giáo Hội
Công
Đồng xác nhận những xác tín của các tín hữu khi tuyên bố rằng Giáo Hội nhìn nhận
tất cả những điều thiện hảo có thể được tìm thấy trong trật tự xã hội ngày nay:
nhất là, khát vọng hiệp nhất, sự phát triển của công cuộc “xã hội hóa y tế“ giữa
các dân tộc, và một sự nhấn mạnh về “sự liên đới kinh tế và dân sự”. Thật vậy,
“sự thăng tiến hiệp nhất tương ứng với sứ mạng cốt thiết của Giáo Hội, bởi
trong Đức Kitô, Giáo Hội có sứ mạng trở thành một bí tích và một dấu chỉ của sự
hiệp nhất với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại… Năng lực mà
Giáo Hội đóng góp cho xã hội con người hiện đại là năng lực đức tin và tình yêu
được sống cụ thể, chứ không phải năng lực của một thế lực bên ngoài xuyên qua
duy chỉ những phương tiện của con người” (MV 42).
Vì những
lý do này, một mối gắn kết sâu sắc và thậm chí một sự đồng nhất nào đó được ghi
nhận giữa -một đàng – sự phát triển và tiến bộ của con người trong xã hội và –
đàng khác – lịch sử cứu độ. Kế hoạch cứu độ có gốc rễ của nó trong những ước vọng
thực và trong những mối quan tâm sâu thẳm nhất của con người. Tiếng gọi đón nhận
ơn cứu chuộc không ngừng được loan báo cho con người trong thế giới. Vì Giáo Hội
luôn luôn đứng trước thế giới khi Giáo Hội đặt mình trước những ước vọng và những
ưu tư của con người.
Vâng,
lịch sử cứu độ diễn ra giữa lòng lịch sử thế giới, nhận lấy lịch sử thế giới
làm lịch sử của chính mình theo một nghĩa nào đó. Nếu nói ngược lại cũng đúng.
Những thành tựu vĩ đại của con người và những chiến thắng thật sự của lịch sử
cũng chính là nền móng của triều đại Thiên Chúa trên trái đất này. Hiệp nhất
chính là mục đích của kế hoạch Thiên Chúa, Đấng vừa vượt trên mọi sự vừa ở
trong mọi sự.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
20 – 8
Thánh
Bênađô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh
Ed
43,1-7; Mt 23,1-12.
Lời
suy niệm: “Các kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên
tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ,
còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những
gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón
tay vào,”
Qua lời
Kinh Thánh này, mỗi một người chúng ta đều cần phải xét mình lại về cách sống của
mình. Đôi khi trong công việc bác ái hay một công tác tại Giáo xứ, mình chỉ biết
đứng ra kêu gọi sự hy sinh đóng góp của tất cả mọi người tùy theo khả năng,
nhưng rồi chính mình lại không có một sự hy sinh đóng góp nào cả; chỉ muốn mọi
người khác phải hy sinh đóng góp. Và hãnh diện với thành quả như là của mình.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con thấm nhuần Lời Chúa để đem ra thực
hành trong đời sống hằng ngày.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
20-08
Thánh
BERNADÔ
Tu
Viện Trưởng, Tiến Sĩ Hội Thánh (1090 - 1153)
Bernađô
sinh năm 1090, tại lâu đài Phontaine gần Dijon. Cha Ngài là hiệp sĩ Tescelin
khôn ngoan và đạo đức. Mẹ Ngài là bà Aleth Thánh thiện. Một đêm kia bà mơ thấy
Bernađô đang nô đùa bỗng hoá thành con chó sủa vang. Giấc mơ này tiên báo
Bernađô sẽ trở thành tông đồ, thành nhà giảng thuyết đại tài. Bernađô luôn luôn
khẩn cầu Thiên Chúa cho lòng mình khỏi vướng tội nhơ. Một lần lỡ nhìn người phụ
nữ, Ngài đã dìm mình xuống hồ giá lạnh cho tới tận cổ.
Năm
22 tuổi, cả một tương lai sáng mở ra rước mắt, tại triều đình, nơi quân ngũ,
trong toà án, mỗi nơi có thể ao ước, Ngài đều có thể thành công. Nhưng một đêm
Giáng sinh, Ngài được thị kiến thấy Chúa Giêsu âu yếm ẵm lấy Ngài, kỷ niệm này
in dấu sâu đậm suốt đời Ngài. Một ngày khác vào thánh đường, tha thiết cầu xin
Chúa cho Ngài biết thánh ý Chúa, cũng như xin Chúa ban ơn can đảm thi hành
thánh ý ấy. Chỗi dậy, Ngài quyết định gia nhập dòng Citeax, một dòng tu nổi tiếng
khắc khổ. Thế là giã từ danh vọng thế gian và các niềm vui giả tạo.
Một
hiệp sĩ trẻ trung sắp chôn vùi đời mình trong tu viện. Sẽ hiến mình cầu nguyện
liên lỉ, làm việc cực nhọc và hãm mình hết mực. Điều đặc biệt là Ngài đã chọn một
tu viện xa nhà và nghèo khổ thay vì những tu viện Bênêdictô mà tặng vật và ảnh
hưởng của gia đình có thể bảo đảm cho Ngài những chức vụ sáng giá.
Bernađô
trình bày ý định với cha, Ngài đã bị phản đối, anh em trong gia đình cũng không
chấp nhận được ý kiến này. Ngài nói: - Này hãy tin tôi đi, cuộc chinh phục linh
hồn không được đáng giá sao ?
Cương
quyết và nhiệt tình, Bernađô không những đã làm cho cha mẹ và anh em nhượng bộ,
lại còn lôi cuốn họ vào dòng theo chân mình nữa. Lần kia em út Nivard đang ngồi
chơi, Guy người anh cả nói: - Giã từ em nhé. Tất cả sản nghiệp thuộc về em, bằng
lòng chứ ?
Người
em út nói lớn: - Sao ? Trời cho các anh, còn đất cho em, phân chia chẳng đồng đều
tý nào.
Rồi
người em út cũng theo cha và các anh vào dòng. Ngoài ra ông cậu và các bạn của
Bernađô, cả thẩy trên 30 người đã theo chân Ngài vào dòng.
Sự
gia nhập đông đảo này đã tiêm một nhiệt huyết mới vào dòng Citeaux. Thái độ của
Bernađô và của các bạn còn được một số đông các bạn trẻ noi theo. Đức viện phụ
của dòng lúc ấy là thánh Têphanô Harding, một người gốc Anh, thánh hiện, khôn
ngoan và uyên bác. Ngài sai từng nhóm nhỏ đi lập các tu viện mới rập theo khuôn
mẫu của nhà mẹ. Ba năm sau, tới phiên Bernađô, Ngài dẫn đầu một nhóm tu sĩ 12
người đến một thung lũng gần Langres. Họ dựng chòi một nhà nguyện, nhà ăn, làm
những cái hòm giống như quan tài để ngủ. Sự thánh thiện của các tu sĩ cũng như
vùng thung lũng trở thành thung lũng ánh sáng hay là Claivaux.
Thánh
Bernađô sẽ là đan viện phụ của tu viện này cho đến hết đời. Lúc đầu Ngài tỏ ra
đòi hỏi gắt gao. Nhưng rồi về sau, Ngài đã hiểu và nhân hậu hơn. Danh tiếng
Ngài lan rộng. Nhiều người từ xa đến xin Ngài giúp đỡ, hay xin Ngài phân xử cho
những vụ tranh chấp. Việc này không được mọi người bằng lòng, vì Ngài không biết
sợ ai cả. Ngày kia người nhận được một lá thư ngắn ngủi từ Roma, dạy đừng xen
mình vào chuyện đời. Không gì làm Ngài vui mừng bằng được ở yên trong tu viện.
Nhưng vì cảm thấy mình có liên hệ tới lợi ích của Giáo hội nên đã không ngại viết
một lá thư hồi âm rất can đảm nhiệt tình.
Ngài
là người ủng hộ nhiệt liệt cho những cải cách Hildebrand, nhưng Ngài nghĩ rằng:
sự tập quyền trong Giáo hội đã đi quá xa. Khi nâng đỡ cho những đòi hỏi của toà
thánh, Ngài không tin là phải phỉnh nịnh Đức giáo hoàng. Nhưng khi sự phân rẽ
đe dọa làm rạn nứt Giáo hội, Ngài được triệu vời đến. Một cách rạng rỡ, Ngài đã
đánh bại vị phản giáo hoàng. Lúc này danh tiếng Ngài lan rộng khắp Châu Au. Cả
thế giới đều như muốn quay về Ngài để tìm ý kiến giúp đỡ. Không đến với Ngài được
người ta viết thư và Ngài đã quyết hồi âm cho tất cả mọi người. Một phần nhỏ
trong số thư tín khổng lồ này con sót lại, nhưng cũng là một trong những nguồn
tài liệu lịch sử chính yếu về thời đó.
Như
nhà dẫn đầu trong cuộc cải tổ dòng Citeaux, Ngài tranh luận với các tu sĩ dòng
Bênêdictô thuộc cộng đoàn chung. Rất tôn trọng cách sống của họ, Ngài không thể
tha thứ cho những lạm dụng đang thịnh hành trong một vài nhà dòng. Dầu vậy đối
với Đan viện phụ Cluny, cha đáng kính Phêrô, Ngài vẫn giữ được một tình bạn
nghĩa thiết. Nhưng sự chống đối của thánh Bernađô với Phêrô Abelardô mới thật nổi
bật. Không những chống lại các chủ trương của ông, Ngài còn chống lại cả cách
thức ông kiêu hãnh tranh luận về các vấn đề thánh nơi chợ búa. Thánh Bernađô
luôn nghĩ tới đức tin của những người dân đơn sơ và đứng về phái bảo thủ, nhưng
vẫn là bạn của người học thức đỡ đầu cho các học giả như Robertô Pullen và
Gioan miền Sabisbury.
Đối với
Đức Maria, thánh Bernađô có một lòng sùng kính đặc biệt. Một ngày kia tại nhà
thờ chính tòa Sprine, khi nghe hát Kinh Lạy Vữ Vương, Ngài đã nhiệt tình thêm
vào:
- Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh.
- Ôi khoan thay, nhân thay, dịu thay, Thánh Maria trọn đời đồng trinh.
Chính
Ngài cũng Ngài viết thánh thư cảm động: Ave Maria Stella. Dường như Ngài cũng
là tác giả kinh "Hãy nhớ" nữa.
Suốt
thời gian làm đan viện phụ của thánh Bernađô dòng Clairvaux phát triển mạnh và
sinh ra 60 nhà khác nữa rải rác khắp Âu Châu. Rất bận rộn công việc, Ngài không
sao lãng việc chăm sóc cho các tu sĩ của mình. Suốt đời, Ngài là một tu sĩ và
là một nhà thần bí. Ngài trước tác những bài chú giải sách Nhã Ca và nhiều tác
phẩm thần học và thần bí khác nữa.
Những năm cuối cùng đời Ngài bị phủ mờ vì sự thất bại của đạo binh thánh giá thứ nhì. Đức giáo hoàng cậy Ngài cổ động cho đạo binh này. Nghe lời Ngài toàn Au Châu cầm khí giới lên đường. Nhưng khi xa khỏi ảnh hưởng của Ngài, các nghĩa binh thánh giá đã quên hẳn lý tưởng cao cả của mình mà làm vỡ cuộc viễn chinh vì đánh phạt nhau và vì các việc làmbất xứng với danh hiệu Kitô hữu.
Những năm cuối cùng đời Ngài bị phủ mờ vì sự thất bại của đạo binh thánh giá thứ nhì. Đức giáo hoàng cậy Ngài cổ động cho đạo binh này. Nghe lời Ngài toàn Au Châu cầm khí giới lên đường. Nhưng khi xa khỏi ảnh hưởng của Ngài, các nghĩa binh thánh giá đã quên hẳn lý tưởng cao cả của mình mà làm vỡ cuộc viễn chinh vì đánh phạt nhau và vì các việc làmbất xứng với danh hiệu Kitô hữu.
Dầu
không thể quy trách được cho thánh Bernađô, nhưng như các thánh nhân khác và
như chính Chúa Kitô, Ngài đã qua đời ngày 20 tháng năm 1153, dưới bóng mây mù
vì thất bại đã quá rõ ràng. Ngài nói với con cái Ngài : - Cha không phải giải
quyết thế nào. Tình thương yêu con cái đời cha ở lại nhưng tình yêu Thiên Chúa
kéo cha lên cao.
Cả Âu
Châu thương tiếc Ngài. 21 năm sau, Đức Alexander III phong Ngài lên bậc hiển thánh.
Năm 1830, Ngài được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh. Ngài đã sống trước khi hình
thành thuyết kinh viện và bởi vì giáo huấn của Ngài còn nằm trong truyền thống
các giáo phụ, người ta thường coi Ngài là thánh giáo phụ cuối cùng.
(daminhvn.net)
20
Tháng Tám
Hai Vì Sao Mỉm Cười
Một
vị ẩn sĩ nọ tịnh niệm và chay tịnh đến suốt ngày không động đến thức ăn và nước
uống.Từ trên đỉnh núi cao, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban
ngày: đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận của lễ hy sinh của ông.
Ngày
nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ
chế. Vừa lúc ông đương leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo.
Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi theo. Họ ra đi khi mặt trời
vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn
cô bé gái đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của
mình, nhưng ông lại giục cô gái hãy uống nước. Cuối cùng, không ai chạm đến nước.
Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một
mình.
Họ
càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Ðến một lúc, vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy
cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy
nước đưa lên miệng và lúc bấy giờ cô bé gái cũng mỉm cười uống nước với ông.
Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh
ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ
đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ lở của ông, khi ông
ngước mắt nhìn lên đỉnh núi, ông thấy có hai vì sao lấp lánh như đang mỉm cười
với ông.
Ðể mặc
khải cho chúng ta bộ mặt thông cảm, nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa, Chúa
Giêsu đã không ngần ngại đến ngồi đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội
lỗi. Phúc Âm ghi lại rằng, khi đi qua dãy bàn thu thuế, Ngài đã nhìn thấy
Matthêô. Ngài đã chọn ông vào số các tông đồ của Ngài. Trong bữa tiệc do
Matthêô khoản đãi, những người bạn của ông ngồi cùng bàn với Chúa Giêsu. Thấy
thế, những người biệt phái đã tỏ ra khó chịu. Chúa Giêsu đã nói với họ như sau:
"Không phải những kẻ khỏe mạnh cần đến thầy thuốc, mà chính là những người
đau ốm. Hãy đi học hiểu câu nói: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ".
Qua
thái độ và lời phát biểu trên đây, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thấy rằng cốt
lõi của Tin Mừng, cốt lõi của Ðạo chính là tình thương. Thực thi bác ái là việc
ăn chay có giá trị nhất, là của lễ cao đẹp nhất mà con người có thể dâng lên
Thiên Chúa. Nếu chỉ có một vì sao mọc lên để chứng giám cho một hành động khổ
chế, thì sẽ có hai vì sao hiện ra để xác nhận cho một hành động bác ái. Thật
ra, bác ái đích thực cũng là một hành động khổ chế, bởi vì nó đòi hỏi con người
phải chết cho bản thân, phải ra khỏi chính mình để đến với người khác. Một hành
động bác ái đích thực phải là một cái chết dần chết mòn trong chính bản thân.
Nói
như mẹ Têrêxa Calcutta: "Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao ban cho người một
điều gì làm tôi cảm thấy mát mát, đau khổ, thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị.
Tôi không chia sẻ và trao ban của dư thừa, mà chính là trao ban chính tôi.
Khi
tôi cố gắng chào hỏi một người tôi ghét cay ghét đắng, đó mới thật sự là một
hành động bác ái. Khi tôi có thể đến sống nghèo, chia sẻ kiếp sống nghèo của
người khác, đó mới là một hành động bác ái. Khi tôi có thể tha thứ cho những
người xúc phạm đến tôi, đó mới là một hành động bác ái thực sự. Tôi đã chết đi
một phần và cái chết ấy sẽ được Thiên Chúa của lòng nhân từ đón nhận như là lễ
hy sinh đích thực".
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét