25/09/2016
Chúa Nhật tuần 26 thường niên năm C
(phần I)
Bài Ðọc
I: Am 6, 1a. 4-7
"Các
ngươi đã mê đắm và ca hát, giờ đây các ngươi bị lưu đày.
Trích
sách Tiên tri Amos.
Ðây
Chúa toàn năng phán: "Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion, và tự
kiêu trên núi Samaria. Các ngươi đã nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm trên ghế
dài: ăn chiên con trong đoàn và bê béo trong đàn; và ca hát theo tiếng đàn cầm
thụ; người ta nghĩ mình như Ðavit, có những nhạc khí, dùng chén lớn uống rượu,
lấy dầu hảo hạng xức lên mình, và chẳng thương hại gì đến nỗi băn khoăn của
Giuse; vì thế, giờ đây họ phải lưu đày và đi đầu các kẻ lưu đày; những buổi yến
tiệc của các kẻ buông tuồng sẽ không còn nữa".
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen
Chúa (c. 2a).
Xướng:
1) Chúa là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói
được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.
2)
Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù; Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng
khuất phục; Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những
khách kiều cư. - Ðáp.
3)
Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác
nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời, Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm
vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: 1 Tm 6, 11-16
"Con
hãy gìn giữ huấn lệnh cho tới ngày Chúa lại đến".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Hỡi
người của Thiên Chúa, hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức
ái, đức nhẫn nại, đức hiền lành. Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính
nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới
và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng.
Cha chỉ thị cho con trước mặt Thiên Chúa, Ðấng làm cho muôn vật được sống, và
trước mặt Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đã làm trước mặt Phongxiô Philatô, lời tuyên
xưng thẳng thắn, con hãy giữ gìn huấn lệnh đó cho tinh tuyền và không thể trách
được, cho tới ngày Chúa chúng ta là Ðức Giêsu Kitô lại đến, mà đến thời đã định,
Ðấng phúc lộc và quyền năng duy nhất sẽ tỏ ra, Người là Thiên Chúa, Vua các vua
và Chúa các chúa, Ðấng độc nhất trường sinh bất tử, Người ngự trong ánh sáng
siêu phàm, không một ai trong loài người đã xem thấy hay có thể xem thấy: (kính
chúc) vinh dự và quyền năng cho Người muôn đời. Amen!
Ðó là
lời Chúa.
Alleluia:
Ga 1, 14 và 12b
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang nghe, Chúa có lời ban sự
sống đời đời. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 16, 19-31
"Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp
toàn sự khốn khổ".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: "Có một nhà phú hộ kia vận
toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất
tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn
bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con
chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và
được các Thiên Thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và
được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì
thấy đàng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng:
'Lạy
Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để
làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này'. Abraham nói lại:
'Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ.
Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng,
giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn từ
đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ bên đó qua đây được'.
Người
đó lại nói: 'Ðã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm
người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này'.
Abraham đáp rằng: 'Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài'.
Người đó thưa: 'Không đâu, lạy cha Abraham, nhưng nếu có ai trong cõi chết hiện
về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải'. Nhưng Abraham bảo người ấy: 'Nếu chúng không
chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng
chẳng chịu nghe đâu'".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Trở lại và thay đổi nếp sống
Bài
sách Amos trong Chúa Nhật trước đã nói đến những con người buôn bán muốn làm
giàu bằng cách bóc lột người nghèo. Hôm nay nhà tiên tri nói đến hạng người đã
khá giả và đang có thế lực, mà người phú hộ trong bài Tin Mừng Luca là một tiêu
biểu. Giáo huấn của Chúa dạy chúng ta không nên bắt chước những người này,
nhưng hãy nghĩ đến tương lai dành cho những người như Lazarô, để chúng ta theo.
Lời thư gửi cho Timôthê mà biết đặt tầm quan trọng vào công việc nào ở trần
gian này? Vậy chúng ta hãy quan sát nếp sống của những con người đầy đủ ở trong
xã hội, định mệnh dành cho họ, và cách thức chúng ta phải sống để được tương
lai khác họ.
1. Nếp
Sống Của Những Con Người Ðầy Ðủ
Một lần
nữa chúng ta lại nghe tiếng nói của tiên tri Amos. Ông là dân quê ở miền Nam nước
Do Thái, được Chúa chọn đi tuyên sấm ở miền Bắc. Từ một nếp sống bình dị nơi
thôn dã, ông đã thấy mình đứng trước một xã hội buôn bán tấp nập. Không phải
ông không muốn thích nghi với đời sống mới, nhưng con mắt của người được Chúa
chọn nhận ra ngay những nguy hiểm của nếp sống chạy theo tiền bạc. Người ta cạnh
tranh lừa đảo, bóc lột nhau để mà làm giàu. Nhưng để làm gì?
Bài
sách hôm nay mô tả nếp sống của hạng người đầy đủ trong xã hội. Nói đúng hơn,
đây là giai cấp chiếm ưu thế và được biệt đãi. Họ ung dung cậy dựa vào các
thành phần kiên cố ở bờ cõi. Tức là họ đang tin vào trật tự an ninh của xứ sở.
Pháp luật và quân đội đang bảo vệ họ, vì họ đang là giai cấp thống trị. Người
dân phải đến với họ và họ xét xử mọi công việc.
Bề
ngoài, người ta thấy họ như vậy, nhưng bên trong họ đang sống thế nào? Amos viết:
"Họ đang nằm trên giường ngà, thõng thượt trên các sập gụ". Ðây không
phải là hình ảnh quen thuộc nơi dân Do Thái. Nếp sống này rõ ràng lai căng. Nó
bắt chước Hy Lạp, dân ngoại. Nó chứng tỏ lớp người đứng đầu dân đã mất tinh thần
dân tộc. Và đối với Amos, như vậy là mất tất cả tinh thần đạo đức. Israen không
có tôn giáo riêng ư? Và tôn giáo này có cả một luật pháp với nhiều điều khoản
quy định nếp sống xã hội. Bỏ nếp sống này để du nhập phong tục ngoại lai, há chẳng
phải là đã bỏ niềm tin vào Thiên Chúa và đạo của Người rồi sao? Không phải bọn
họ đã theo đạo nào khác, đạo mới của họ chỉ là nếp sống ươn ái trong chè chén
nhậu nhẹt. Chính vì vậy mà Amos dùng những từ ngữ có màu sắc tôn giáo để tiếp tục
mô tả nếp sống của họ.
Ông
viết: họ ăn chiên cừu cùng bê nhốt chuồng, họ nghêu ngao họa theo tiếng đàn, tự
bày nhạc khí theo Ðavít, họ uống rượu cả tô và xức dầu thượng hạng.
Chiên,
cừu, bê là những vật thường được dùng để dâng lễ; nay nằm trên bàn ăn của hạng
giàu có. Và để phòng ăn của họ trở nên như đền thờ, họ nghêu ngao dạo nhạc như
Ðavít. Họ dùng rượu và xức dầu thượng hạng như các tư tế vào dịp lễ lớn. Ít nhất
họ cũng đã mang các thứ quen dùng trong đền thờ ra mà ăn uống. Ðạo của họ bây
giờ nằm trong những thứ này. Và vì thế Amos muốn dùng những từ ngữ vừa diễn tả
nếp sống thực tế của họ, vừa đồng thời khẳng định tôn giáo của họ bây giờ là thế
đó. Với những con người đã đầy đủ, Chúa của họ bây giờ là "cái bụng"
cũng như đối với những kẻ đang làm giàu: tiền mới là chúa tể. Và đối với cả hai
hạng người, nhân dân, đồng bào không còn là gì nữa. Sống chết mặc bay; Giuse có
tang thương, Ephraim có đau ốm, cũng chẳng thèm biết. Tương lai dân tộc có làm
sao, họ cũng chẳng để ý.
Nhưng
họ dại và ngốc. Ðó là những tĩnh từ quen thuộc dùng trong Kinh Thánh để nói về
họ, định mệnh sẽ đến chộp lấy họ đang lúc bất ngờ nhất. Và ở đây Amos nói: họ sẽ
là những người bị bắt đi lưu đày đầu tiên; họ sẽ cầm đầu đoàn người bị phát
lưu, vì khi các thành trì bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị sụp đổ, bọn
này sẽ là những nạn nhân đầu tiên và khốn nạn nhất.
Amos
nói như vậy thì chưa đưa sang bình diện tôn giáo. Ông đã có quan niệm tôn giáo
để quan sát và phân tích nếp sống trụy lạc của giai cấp có của và thống trị.
Nhưng khi nói về định mệnh, tương lai của hạng người này, ông vẫn chỉ chờ một
cuộc đổi thay xã hội và những hình phạt trần gian. Chúng ta sẽ không thấy như vậy
trong bài Tin Mừng là mạc khải sẽ đầy đủ hơn.
2. Ðịnh
Mệnh Của Những Người Giàu Có
Chúng
ta ai cũng thuộc nằm lòng câu chuyện người phú hộ và Lazarô ăn mày. Nhưng chưa
chắc chúng ta đã hiểu như nhau và nhất là biết hiểu đúng ý của tác giả Luca.
Thánh
Luca kể rằng có một người phú hộ ăn mặc gấm tía và lụa mịn, ngày ngày yến tiệc
linh đình. Nếp sống của ông ta làm cho chúng ta nhớ lại bài sách của Amos. Và
quả thật, ông ta chỉ biết ăn uống, chứ đâu có để mắt tới đồng bào, đồng loại
gì... Có người ăn mày tên là Lazarô, nằm ở cổng nhà ông chỉ mong được miếng thừa
nào trên bàn của ông liệng xuống mà vẫn không được. Cũng là hai con người,
nhưng là hai thân phận. Tác giả Luca không cần mô tả thêm con người giàu có. Ðã
có Amos kể thay rồi. Ngòi bút của Luca chú ý hơn để vẽ hình ảnh người ăn mày.
Ðây
là lần duy nhất trong tác phẩm, Luca đã đặt cho nhân vật trong bài dụ ngôn một
tên. Thế nên chúng ta đừng nghĩ đây là một tên thật, và muốn đồng hóa với
Lazarô em của Mátta và Maria. Hai chị em này đâu có nghèo đến nỗi bắt em phải
đi ăn xin; Lazarô trong tác phẩm của Gioan (chương 1) không lở lói, hôi thối đến
nỗi người ta phải khiêng vứt ở cổng nhà người phú hộ. Ðàng khác, dụ ngôn không
phải là những câu chuyện có thật, mà chỉ là những câu chuyện có khả năng xảy ra
để giúp chúng ta có một bài học đạo đức.
Nhưng
tại sao tác giả Luca lại muốn gọi tên người ăn mày là Lazarô? Ðể chúng ta liên
tưởng đến người em trai của hai chị em Mátta và Maria được Chúa thương cho sống
lại? Và như vậy Luca muốn báo trước số phận tốt đẹp chung cuộc của người ăn
xin. Và khi mô tả Lazarô lở lói, bị vứt ở cổng nhà người phú hộ, có lẽ tác giả
muốn lấy lại hình ảnh ông Yob và xác định đây là con người nghèo khó công
chính, bị bạc đãi ở đời này nhưng chỉ là tạm thời, vì chung cuộc tương lai sẽ rất
tốt. Hơn nữa, trong tiếng Do Thái, từ ngữ Lazarô có nghĩa là "Thiên Chúa cứu
giúp". Tác giả Luca muốn nói rằng: những con người nghèo khó là những kẻ
đang cần được và sẽ được Thiên Chúa cứu giúp; họ là thành phần được Người quan
tâm, chiếu cố và yêu mến. Và Người sẽ bắt tất cả mọi sự phục vụ những con người
này, nên ở đây ngay bầy chó hoang, thường chỉ đi xâu xé, thế mà đối với Lazarô
chúng cũng dễ thương lạ lùng, đến liếm các ung nhọt cho ông. Và điều này càng
nói lên ác tâm bất nhẫn của người phú hộ hơn nữa.
Như vậy,
việc giới thiệu hai nhân vật đã xong. Tác giả Luca nói đến câu chuyện xảy ra.
Lazarô chết và được các Thiên Thần đưa lên dự tiệc ngay nơi lòng Abraham; còn
người nhà giàu cũng chết và được tống táng. Chỉ hai câu nói thôi, nhưng đầy ý
nghĩa. Người Do Thái quan niệm rằng các người công chính sau khi chết, sẽ được
các thiên thần đưa lên trời dự tiệc, giữa cộng đoàn dân Chúa có tổ phụ Abraham
chủ tọa. Và ai cũng được yêu, càng được ngồi gần vị tổ phụ. Kiểu nói "ngồi
trong lòng Abraham" chỉ muốn diễn tả chỗ ngồi đặc biệt và tình âu yếm ấy.
Số phận của Lazarô đã đổi thay hoàn toàn. Không do một biến động chính trị như
Amos đã gợi đến trong bài sách hôm nay. Cũng không như tác giả sách Yob đã nói
rằng ông này được lại hết mọi sự ở đời này và được gấp trăm, gấp nghìn. Ở đây
việc đổi thay số phận xảy ra ở bên kia thế giới, sau khi con người đã chết. Ðó
là bình diện Nước Trời chứ không còn phải trong phạm vi trần gian.
Chúng
ta hãy đọc tiếp để thấy quan niệm của tác giả Luca về đời sau và định mệnh
chung cuộc của hai nhân vật trong bài dụ ngôn. Vậy, Lazarô được đưa lên trời,
còn người phú hộ thì được đem đi tống táng. Một người ở trên và một người ở dưới.
Kẻ ở dưới ngước mắt lên thấy hạnh phúc người ở trên. Thấy mình đang nóng nảy
trong lửa, còn Lazarô thì đang an thái nơi lòng của Abraham; kẻ khổ sở tự nhiên
phải buột miệng kêu lên. Xin Cha Abraham nói với Lazarô nhỏ xuống cho một chút
nước để đỡ khổ. Nhưng y đã không hiểu gì. Và Abraham phải cắt nghĩa: bây giờ sự
đổi thay đã dứt khoát và hố sâu ngăn cách giữa hai thế giới hạnh phúc và khổ sở
không thể bắc cầu được nữa. Kẻ xưa khổ thì nay sướng và kẻ xưa sướng thì nay khổ.
Chứ không như ngày xưa khi ở trên mặt đất kẻ sướng có thể đến với kẻ khổ mà
chia sẻ... Nhưng vì đã không muốn làm việc ấy, nên giờ đây y đừng hy vọng bắt
được nhịp cầu hiệp thông...
Câu
chuyện dĩ nhiên có thể chấm dứt ở chỗ này. Và đã có nhiều bài học cho chúng ta.
Ngoài những quan niệm về đời sau như: định mệnh của người lành kẻ dữ đã khác
nhau ngay từ sau khi chết và trước ngày phán xét chung; định mệnh ấy đã dứt
khoát không thay đổi được nữa vì đã hết thời có thể lập công phúc; ở đây khi mô
tả sự thay đổi số phận của hai người trong khi sống và sau khi chết, tác giả
Luca có ý diễn tả một giáo huấn thông thường của Ðức Giêsu, đó là việc Nước Trời
được dành cho những kẻ nghèo khó; vì Thiên Chúa sẽ cứu giúp họ và kẻ tự mãn ở đời
này sẽ ra đi tay không về đời sau.
Nhưng
tác giả Luca đã không dừng lại ở những điểm này. Người muốn kêu gọi người ta
"trở lại". Ðặc biệt ở đây, Người muốn nói với những người Do Thái có
Abraham là tổ phụ. Họ phải thay đổi đường lối để không bị loại ra khỏi Nước Trời
sau này. Tác giả Luca biết rõ họ rất cứng lòng. Trước đây khi Ðức Giêsu còn
đang giảng đạo họ đòi phải thấy phép lạ điềm thiêng. Người bảo họ sẽ chẳng được
xem dấu lạ nào, ngoài dấu hiệu của tiên tri Giona, tức là ngoài sự kiện chính
Người sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chịu chết. Nay việc đó đã xảy ra rồi; thế
mà Luca vẫn thấy họ cứng lòng. Nên hôm nay, tác giả đau đớn dùng miệng Abraham
mà nói: dẫu cho có ai sống lại từ cõi chết, chúng cũng chẳng ngã lẽ đâu! Và đối
với người Do Thái, chỉ còn lại hy vọng là họ hãy nghe Môsê và các tiên tri. Ấy
là chưa kể chính mầu nhiệm Ðức Giêsu chịu chết và phục sinh, muốn hiểu được
cũng phải tựa vào lời sách thánh kể từ Môsê cho tới các tiên tri, như chính
Chúa sống lại đã làm như thế để giúp đỡ các đức tin của các tông đồ.
Như vậy
bài Tin Mừng Luca hôm nay có những ý tưởng mà thoạt nghe chúng ta đã chưa nhận
ra. Người đã không thuật lại câu chuyện Ðức Giêsu đã kể, một cách đơn giản đâu.
Vẫn biết khi kể chuyện người phú hộ và Lazarô ăn mày, Chúa đã có ý kêu gọi
thính giả của Người là người Do Thái, phải trở lại. Chúa cũng đã muốn thúc giục
họ tin vào Môsê và các tiên tri vì các ông này vẫn làm chứng về Người. Nhưng chắc
chắn khi Chúa nói: dẫu có ai sống lại từ cõi chết chúng cũng chẳng ngã lẽ đâu,
người nghe lúc bấy giờ chưa hiểu một cách thấm thía như tác giả Luca sẽ hiểu
sau này và như chúng ta vừa trình bày ở trên.
Dù
sao ý tưởng chính của tác giả vẫn là muốn kêu gọi người ta trở lại và thay đổi
nếp sống chỉ biết có cái bụng của mình mà không nghĩ đến ai. Thực ra đó cũng là
ý của Amos khi ông dùng hình phạt lưu đày để đe dọa những kẻ sống đầy đủ mà ích
kỷ. Chỉ có điều ông chưa nghĩ đến đời sau và bình diện Nước Trời một cách sâu sắc
như tác giả Luca. Nhưng có như vậy Tân Ước mới hoàn tất Cựu Ước!... Tuy nhiên
Tân Ước nơi các sách Tin Mừng, tức là giáo huấn đầy đủ của Chúa Giêsu cũng còn
cần phải được triển khai. Và hôm nay tác giả thư Timôthê giúp chúng ta thi hành
giáo huấn của Chúa.
3. Nếp
Sống Và Ðịnh Mệnh Của Chúng Ta
Tác
giả đi từ chỗ nhất trí với Amos và Luca, tức là người của Thiên Chúa thì phải
lánh xa nếp sống của những kẻ tham lam tiền của và giàu có dư dật (xem
6,7-11a). Thay vào đó hãy theo đuổi công chính và đạo đức. Và cho được như vậy
phải sống ba nhân đức: tin, cậy, mến. Riêng Timôthê, tuổi còn trẻ và đang đứng
đầu giáo đoàn, hãy bắt chước lòng từ tâm của Chúa Giêsu và đó là tư cách Phúc
Âm của những người giữ trọng trách trong Hội Thánh.
Nếp sống
đạo đức như vậy chính là nếp sống đức tin, một nếp sống đòi phải phấn đấu rất
nhiều. Nhưng có nhiều lý do có thể trở thành động lực thúc đẩy người của Thiên
Chúa trong cuộc chiến chính nghĩa này. Nào là sự sống đời đời đang chờ họ ở
trên bình diện Nước Trời; nào là lời hứa đáp trả tiếng Chúa gọi mà họ đã tuyên
xưng trước mặt Chúa và ở giữa cộng đồng các thánh. Nhưng nhất là gương sáng của
Ðức Giêsu Kitô đã tuyên chứng trước mặt Philatô. Chính Người sẽ lại xuất hiện
trong ngày sau hết để làm sáng tỏ giá trị của hết mọi người.
Những
lý lẽ này là những đề tài để suy niệm không cùng. Nhưng tất cả đều qui về Ðức
Giêsu Kitô. Tác giả bài thư Timôthê bảo chúng ta cứ chiêm ngưỡng Người thì thấy
phải đổi mới đời sống như thế nào...
Chúng
ta sắp thể hiện mầu nhiệm của Người trên bàn thờ. Ðặc biệt chúng ta sẽ nhờ đến
cuộc tuyên chứng của Người trước mặt Philatô, tức là cuộc tử nạn vinh hiển của
Người. Người đã can đảm quảng đại "vượt qua" như thế nào để chúng ta
bắt chước mà từ bỏ đời sống cũ và mặc lấy tinh thần mới. Nếu trước đây chúng ta
còn ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình ở đời này, thì từ nay chúng ta cố gắng
hơn vừa vươn lên bình diện Nước Trời và hướng về đời sau, vừa phải quảng đại và
bác ái nghĩ đến tha nhân và xã hội. Ðó là những mặt không thể thiếu trong nếp sống
mới và các bài Kinh Thánh hôm nay muốn chúng ta đem thực hành nhờ ơn Chúa.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 26 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Amo 6:1a, 4-7; 1 Tim 6:11-16; Lk
16:19-31.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết quản lý của cải Thiên Chúa
ban.
Bài học
giáo dục về việc xử dụng tiền của đúng chỗ và đúng mức rất cần cho cuộc sống,
vì đại đa số con người qua bao thời đại đều không biết bài học này. Hậu quả là
không biết bao nhiêu người rơi vào cám dỗ của bẫy tiền mà quỉ thần đã khôn khéo
giăng ra, để rồi phải chịu những hậu quả tai hại cho bản thân, cho gia đình,
cho xã hội và Giáo Hội, cả đời này và đời sau.
Các
bài đọc hôm nay rất cần thiết để các tín hữu chúng ta học hỏi và suy xét, để rồi
rút ra những bài học cụ thể cho chính mình trong cách xử dụng tiền của và giáo
dục những người chúng ta có trách nhiệm.
Trong
bài đọc I, ngôn sứ Amos cảnh cáo vua chúa và những nhà lãnh đạo trong cả hai
vương quốc Israel và Judah, đã lạm dụng chức quyền để lãng phí tiền của vào những
cuộc vui chơi trác táng, mà không chịu hoàn thành sứ vụ được trao là lo cho dân
hiểu biết Thiên Chúa và mưu cầu cơm no áo ấm cho mọi người trong nước. Trong
bài đọc II, thánh Phaolô khuyên môn đệ của mình hãy tránh xa mọi cám dỗ bất
chính do lòng ham mê tiền của gây ra, và biết dùng thời giờ để luyện tập nhân đức
để giành cho được cuộc sống đời đời mà Thiên Chúa đã hứa cho các tín hữu trong
ngày Đức Kitô quang lâm. Trong Phúc Âm, thánh Lucas đưa ra câu truyện của hai
nhân vật: ông đại phú và anh dân nghèo Lazarô, để nhắc nhở mọi người hãy biết sống
làm sao để đạt hạnh phúc đời đời, vì cuộc sống đời sau là phản ngược của cuộc sống
đời này.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Khốn cho những ai chẳng
biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ!
1.1/ Người
giầu làm những việc vô nghĩa.
Ngôn
sứ Amos viết những lời khiển trách nặng nề này tại vương quốc Israel cho cả vua
chúa và các nhà lãnh đạo tại hai vương quốc Judah và Israel, khi cả hai vương
quốc này chưa bị thất thủ và lưu đày: “Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Sion,
và sống an nhiên tự tại trên núi Samaria.” Sion là thủ đô của vương quốc Judah
và Samaria là thủ đô của vương quốc Israel. Những nhà lãnh đạo tại Sion nghĩ họ
đã có Đền Thờ Jerusalem, nơi Thiên Chúa ngự trị; vì thế, sẽ không có quyền lực
nào có thể phá nổi Nhà của Đức Chúa. Những nhà lãnh đạo của Samaria cũng nghĩ
tương tự như thế, vì chính Thiên Chúa đã ra lệnh tách quốc gia ra làm đôi, và họ
cũng có đền thờ của Đức Chúa tại Bethel bảo vệ. Họ nghĩ là quốc gia cứ an vui
như vậy mãi để họ tiếp tục hưởng thụ của cải họ đang có. Hai điều mà ngôn sứ
Amos liệt kê:
(1)
Giầu có làm con người tốn của vào những việc vô ích: Giường là chỗ để nghỉ ngơi
dưỡng sức, con người chỉ cần một khung giường và một tấm phản, hay một tấm nệm
cho những ai sợ đau lưng; chứ con người không cần một giường làm bằng ngà voi,
hay gỗ quí, hay cẩn xà cừ. Tất cả những thứ phụ thuộc đó chỉ là để phô trương sự
giàu có của mình. Theo phong tục Do-thái, giết chiên non hay bê béo thường là để
làm của lễ hy sinh hay tiếp đón khách quí; chứ không phải là điều làm thường
xuyên hay mỗi ngày.
(2) Giầu có làm con người tốn thời gian cho việc hưởng thụ: Phú quí sinh lễ nghĩa hay ăn no rồi rửng mỡ. Thay vì phải dùng thời giờ cho những việc dạy dỗ và quản trị dân chúng, sau khi đã no say, họ lại quay qua đàn hát để giải trí. Họ sáng chế nhạc cụ để ca hát những bài ca đã nghe được trong cung điện các nơi, như để biểu lộ sự giàu sang hưởng thụ của triều đại mình.
(2) Giầu có làm con người tốn thời gian cho việc hưởng thụ: Phú quí sinh lễ nghĩa hay ăn no rồi rửng mỡ. Thay vì phải dùng thời giờ cho những việc dạy dỗ và quản trị dân chúng, sau khi đã no say, họ lại quay qua đàn hát để giải trí. Họ sáng chế nhạc cụ để ca hát những bài ca đã nghe được trong cung điện các nơi, như để biểu lộ sự giàu sang hưởng thụ của triều đại mình.
1.2/ Họ
chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ: Nhà Giuse mà ngôn sứ Amos dùng ở đây ám chỉ sự sắp sụp đổ
của cả hai vương quốc. Theo ông, hai tội to lớn mà vua chúa và toàn dân đã xúc
phạm đến Thiên Chúa:
(1) Bỏ
quên Thiên Chúa: Vua chúa và các nhà lãnh đạo đã chạy theo tiền của và bỏ quên
Thiên Chúa. Họ không còn nghĩ đến những lời dạy bảo của Thiên Chúa; vì nếu nghĩ
tới, họ sẽ không dám làm như vậy.
(2) Bất
công xã hội: Giầu có thường liên quan đến bất công xã hội. Một số những bất
công ngôn sứ Amos đã liệt kê trong những chương trước như: thâm lạm công quĩ,
ăn của hối lộ, lấy của người nghèo, mua bán gian lận...
Hậu
quả là cả hai vương quốc sẽ bị quân thù phương Bắc san phẳng và đem đi lưu đày.
Vua chúa và những nhà lãnh đạo sẽ là những người dẫn đầu trong cuộc lưu đày và
họ sẽ nhận ra tội lỗi của họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa. Những lời tiên báo của
ngôn sư Amos đã trở thành hiện thực khi vương quốc miền bắc bị thất thủ năm 721
BC bởi Assyria, và vương quốc miền Nam bị thất thủ năm 587 BC. bởi tay vua
Babylon.
2/ Bài
đọc II: Hãy tuân giữ điều
răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách.
2.1/
Cách sống của người môn đệ Chúa: Phaolô gọi Timothy, môn đệ của mình, với một danh xưng cao trọng
là “người của Thiên Chúa.” Trong Cựu Ước, Moses và các ngôn sứ được gọi là người
của Thiên Chúa. Mục đích của Phaolô là khuyên Timothy phải sống đúng với danh
xưng này, người của Thiên Chúa phải sống khác với người của thế gian. Phaolô liệt
kê những điều Timothy phải làm:
(1)
Hãy tránh xa những cám dỗ mà giầu có mang lại: Dựa vào những gì Phaolô đã nói
trước trình thuật hôm nay, “những điều đó” chỉ lòng lo lắng những sự đời này và
bỏ quên Thiên Chúa để chạy theo những cám dỗ của tiền bạc mang lại.
(2)
Hãy cố gắng luyện tập nhân đức: để trở nên người công chính, đạo đức, giàu lòng
tin và lòng mến, hãy gắng sống nhẫn nại và hiền hoà. Khi không chịu ảnh hưởng của
tiền của, các tín hữu sẽ có khôn ngoan và nhiều thời gian để học hỏi và luyện tập
nhân đức theo những đòi hỏi của Thiên Chúa.
(3)
Hãy giành cho được sự sống đời đời: Đây là lý do cao trọng và trên hết mà các
tín hữu phải luôn nhớ mình được kêu gọi để đạt tới. Thánh Phaolô có lẽ nhắc lại
lời tuyên xưng của Timothy khi chịu phép Rửa Tội là bỏ tà thần và mọi quyến rũ
bất chính của nó, đồng thời tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa và cuộc sống đời
đời. Thánh Phaolô cũng cho Timothy một mẫu gương để Timothy noi theo là gương của
Đức Kitô. Ngài đã can đảm tuyên nhận mình là “Vua dân Do-thái;” cho dẫu lời
tuyên xưng này đem lại bản án tử hình cho Ngài.
(4)
Hãy tuân giữ điều răn của Chúa mà sống cho tinh tuyền, không chi đáng trách.
2.2/ Đức
Kitô sẽ xuất hiện và ban phần thưởng là cuộc sống đời đời. Thánh Phaolô cũng nhắc lại hai điều cốt
cán của đức tin: (1) Đức Kitô sẽ trở lại để phán xét con người: Con người sẽ phải
trả lời với Ngài và chịu trách nhiệm cho những gì họ đã làm trên trần gian. (2)
Thiên Chúa là Đấng duy nhất mà mọi người phải hướng về, chứ không phải là của cải
thế gian hay bất kỳ điều gì khác.
3/
Phúc Âm: Hậu quả của hai lối
sống trái ngược nhau
3.1/ Cuộc
sống đời này
(1) Lối
sống vô tâm của phú gia: Quần áo chỉ là vật dùng để che thân, trong khi người
nghèo không có quần áo đủ để mặc, ông nhà giàu mặc “toàn lụa là gấm vóc.” Lương
thực giúp cho con người có đủ dinh dưỡng để sinh sống, trong khi người nghèo
không có một bữa ăn no, ông nhà giàu “yến tiệc linh đình hằng ngày.”
(2)
Cuộc sống đau khổ nhưng tin tưởng nơi Thiên Chúa của Lazarô: Lazarô không những
nghèo còn mang bệnh tật đau đớn trên mình. Ông nằm trước cổng ông nhà giàu,
thèm được ăn những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm
mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Chúng
ta không thể suy tán những gì trình thuật không đề cập tới, chúng ta chỉ có thể
chú trọng đến hai tội của ông nhà giàu: (1) Ông không quan tâm gì đến nhu cầu của
tha nhân: Lazarô nằm trước cửa nhà ông, khi ra vào lui tới ông đều gặp; nhưng
ông đã quá hững hờ, vô tâm, vô cảm trước sự thiếu thốn và nỗi đau của đồng loại.
(2) Ông không nghĩ gì đến cuộc sống đời sau hay kể gì đến lời dạy của Thiên
Chúa; nếu ông nghĩ, ông sẽ không làm như thế.
Thế rồi
người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu
cũng chết, và người ta đem chôn.
3.2/ Cuộc
sống đời sau: là ngược hẳn
lại những gì của cuộc sống đời này.
(1) Của
ông nhà giàu: Ông không một chút quan tâm gì đến sự nghèo đói và đau đớn vì ghẻ
lở của Lazarô, chưa bao giờ ông bố thí cho Lazarô một mẩu bánh; thế mà giờ đây
ông lại xin: "Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Lazarô
nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa
thiêu đốt khổ lắm!” Chúa Giêsu đã từng nói: Anh dùng đấu nào đong cho tha nhân
Thiên Chúa cũng dùng đấu ấy đong lại cho anh.
(2) Của
Lazarô: Tên tiếng Do-thái là Eleazar, có nghĩa: Thiên Chúa là nguồn hy vọng của
con. Tổ phụ Abraham cắt nghĩa rõ ràng về hậu quả của hai lối sống cho ông nhà
giàu và cho Lazarô: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần
phước của con rồi; còn Lazarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ,
Lazarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng
ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con
cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.”
3.3/ Làm
sao trị bệnh vô tâm, hờ hững? Ông
nhà giàu vẫn còn thương nhớ đến tình ruột thịt nên nài nỉ tổ phụ Abraham:
"Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì con
hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa
vào chốn cực hình này!” Tổ phụ Abraham đáp: "Chúng đã có Moses và các Ngôn
Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.”
Đây
là lời cảnh tỉnh cho những người vô tâm, hờ hững. Không phải khi thấy phép lạ xảy
ra hay người chết hiện về là một người thay đổi lối sống. Họ phải chịu khó bỏ
giờ học hỏi và nghiên cứu những lời dạy của Moses và các ngôn sứ, để hiểu rõ và
sau đó mang ra áp dụng trong cuộc sống hằng ngày. Bệnh vô tâm hững hờ không trị
liệu bằng các phép lạ; nhưng là bắt đầu bằng việc biết sự thật và sống theo sự
thật.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Của
cải Thiên Chúa ban là của chung cho mọi người được hưởng. Con người không được
ích kỷ để chỉ biết tiêu xài cho mình, mà không biết quan tâm đến những người
nghèo khổ chung quanh. Chúng ta hãy có tinh thần tương thân tương ái để giúp đỡ
những anh chị em túng nghèo. Giúp đỡ họ được kể là giúp đỡ chính Thiên Chúa.
- Hãy
luyện tập để có trái tim biết rung động và dạy cho con cái có lòng thương xót
người nghèo. Nếu không, trái tim dần sẽ trở thành chai đá không còn biết cảm
thương đồng loại nữa. Một trái tim như thế sẽ gây nhiều khổ đau cho chính mình
và cho tha nhân.
-
Thiên Chúa không luận phạt sự giầu có, Ngài cũng không biểu dương sự nghèo đói;
điều Ngài muốn nhấn mạnh là phải biết quản lý khôn khéo sự giầu có Ngài ban cho
để mưu cầu lợi ích cho bản thân ở đời này và nhất là cho cuộc sống đời đời mai
sau.
Linh
mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
25/09/16 CHÚA NHẬT TUẦN
26 TN – C
Lc 16,19-31
Lc 16,19-31
Suy
niệm: Dụ ngôn Chúa kể hôm nay đầy những
chi tiết tương phản đến độ gây sốc: ông nhà giàu – người nghèo ăn xin; ông
nhà giàu mặc lụa là gấm vóc – người ăn xin mụn nhọt đầy mình; ông ta yến tiệc
linh đình – người nghèo La-da-rô thèm ăn những thứ rớt xuống từ bàn ăn… Thế
rồi giàu hay nghèo cùng có một kết cục chung: cái chết. Đến đây, tình thế lại
đảo ngược: từ dưới âm phủ, ông nhà giàu “ngước mắt lên” để van xin được
một giọt nước từ đầu ngón tay của anh La-da-rô. Không biết lúc đó, ông có nhớ
lại nhiều lần anh La-da-rô cũng có cử chỉ đó với ông? Khi còn sống, chắc hẳn
không chỉ một lần ông đã bắt gặp ánh mắt nài xin, bàn tay chìa ra để xin sự
giúp đỡ của ông. Rất tiếc, ánh mắt và bàn tay ấy đã không chạm được vào trái
tim khép kín của lòng ông.
Mời bạn: “Lòng thương xót là một lộ trình khởi hành từ con tim
tới đôi tay, nghĩa là tới các công việc của lòng thương xót” (ĐGH Phanxicô).
Những hình ảnh tương phản trong dụ ngôn vẫn còn mang tính thời sự trong xã
hội hôm nay. Trái với người phú hộ, bạn có trái tim và đôi bàn tay để yêu thương
và trao ban. Xin được một chút nhạy cảm và hào phóng trước nỗi khổ đau của
đồng loại, để như một lời đáp trả, chuẩn bị cho cuộc sống mai sau.
Sống Lời Chúa: Hãy làm một việc cụ
thể cho người đang cần sự giúp đỡ của bạn: lời cầu nguyện, sự sẻ chia vật
chất hay tinh thần.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa, tạ ơn Chúa
vì chúng con luôn giàu có và nghèo nàn về một mặt nào đó. Xin cho chúng con
biết quảng đại chia sẻ cho nhau, cũng như biết khiêm tốn đón nhận sự sẻ chia
của những người chung quanh con. Amen.
|
CÓ MỘT VỰC THẲM
Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.
Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm: Tích trữ, tham lam, hà tiện,
khép kín, tự mãn, hưởng thụ,
Suy niệm:
Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới
còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất.
Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu
cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh
cho cả thế giới trong một thời gian dài.
còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất.
Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu
cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh
cho cả thế giới trong một thời gian dài.
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và
Ladarô,
chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị,
giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực.
Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc.
Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày,
vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.
Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô,
nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời.
Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín.
Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng.
Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.
Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em.
Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.
Hỏa ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được.
Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.
Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau
là do chính con người đã tạo ra từ đời này.
chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị,
giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực.
Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc.
Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày,
vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.
Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô,
nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời.
Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín.
Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không gian riêng.
Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.
Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em.
Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.
Hỏa ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được.
Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.
Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau
là do chính con người đã tạo ra từ đời này.
Ông nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã
bóc lột ai,
nhưng vì ông không bị sốc chút nào
trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.
Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo,
nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.
Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công,
và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.
Ông nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều,
nhưng vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.
Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.
Có bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm:
Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ,
bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
nhưng vì ông không bị sốc chút nào
trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.
Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo,
nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.
Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công,
và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.
Ông nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều,
nhưng vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.
Giàu không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.
Có bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm:
Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ,
bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu
có về các mặt khác:
giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng,
giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.
Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.
Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải,
để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô
nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm...
Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta
cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.
giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng,
giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.
Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.
Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải,
để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô
nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm...
Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta
cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.
Cầu nguyện:
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng
tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,
chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi,
tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,
có bao điều con lãng phí
bên cạnh những Ladarô túng quẫn,
có bao điều con hưởng lợi
dựa trên nỗi đau của người khác,
có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu trách nhiệm
về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó
là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo
là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu,
nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
25
THÁNG CHÍN
Tiếng
Gọi Làm Môn Đệ Chúa
Chúng
ta đã tìm hiểu những chân lý mà Giáo Hội tuyên xưng và rao giảng. Những chân lý
này thiết lập nên nền tảng của Giao Ước Mới với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.
Chúng
ta đã nắm hiểu mục đích của việc giáo dục Kitô giáo. Ngay từ những năm đầu đời
của chúng ta tại gia đình và giáo xứ, chúng ta đã nghe lời mời gọi trở thành
môn đệ Đức Giêsu Kitô. Đây là mục tiêu của lời cầu nguyện chúng ta. Lời cầu
nguyện của chúng ta cùng với gia đình và cộng đoàn xứ đạo của mình đã đưa chúng
ta đến gần hơn bao giờ hết mầu nhiệm về sự hiện diện của Đức Kitô.
Đó là
mục tiêu của việc giáo dục Kitô giáo. Nhờ Phép Rửa, chúng ta trở thành con cái
của Thiên Chúa. Giờ đây chúng ta lại trở nên những môn đệ của Đức Giêsu Kitô.
Các
con, và cả Cha nữa, chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa về cha mẹ và về các cha xứ
của chúng ta. Chúng ta phải cảm tạ Thiên Chúa về tất cả những ai đã giúp chúng
ta nhận hiểu chân lý được Thiên Chúa mạc khải qua Đức Giêsu Kitô và được Hội
Thánh truyền giảng.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày
25 – 9
Chúa
Nhật XXVI Thường Niên
Am
6,1a.4-7; 1Tm 6, 11-16; Lc 16, 19-31.
Lời
Suy niệm: “Con ơi hãy nhớ lại: suốt đời, con đã nhận
phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây
giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa
chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên
các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.”
Cái vực
thẳm lớn đã ngăn cách bên này và bên kia không còn có thể qua lại được, đó là
thái độ dững dưng trước hoàn cảnh của người đồng loại đang chịu những bất hạnh.
Đã tạo cho con người thiếu tình thương và sự quan tâm đến người khác và các tạo
vật chung quanh mình, chỉ biết có mình.
Lạy
Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành phần trong Giáo Hội hôm nay đừng dững dưng những
lời giáo huấn của Đức Thánh Cha Phanxicô.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
NGÀY
25-09 THÁNH GIUSE CALASANZ - LINH MỤC (1557 - 1648)
Thánh
Giuse Calasanz sinh năm 1557 tại Peralta de la Sal miền Aragonia. Cha mẹ Ngài
là những một giàu có trong miền, nhưng đã dày công dạy cho con biết yêu Chúa
thiết tha, ham thích cầu nguyện và gớm ghét tội lỗi. Chính Giuse ngay từ niên
thiếu đã tỏ dấu có lòng bác ác đặc biệt với trẻ nhỏ và ưu tư giáo dục chúng.
Ngài thường tụ họp các bạn trẻ lại để dạy cho chúng biết các mầu nhiệm đức tin
và biết cách cầu nguyện.
Lớn
lên, Giuse được gởi học văn phạm và các môn cổ điển tại Estadilla. 15 tuổi Ngài
đã hoàn tất chương trình trung học. Cha mẹ Ngài đặt rất nhiều hy vọng vào tương
lai của con. Giuse lại mong chờ một sứ mệnh cao cả hơn. Ngài xin theo học một
chương trình sống rất nghiêm khắc để đề phòng những dục vọng bất chính. Ngài
còn nhiệt thành dạy giáo lý cho người dốt nát, thăm viếng giúp đỡ các bệnh nhân
và những người nghèo khổ. Dầu vậy Ngài đã thành công mỹ mãn và được phép cha
cho ở lại để học dân luật và giáo luật.
Ngày
11 tháng 4 năm 1575, Ngài chịu phép cắt tóc gia nhập hàng giáp sĩ.
Sau
khi đậu tiến sĩ giáo luật và dân luật, Giuse tiếp tục học thần học tại Valence.
Nơi hoa lệ này, quỉ đã ra sức tấn công đức trinh khiết của Giuse. Nhưng quyết
hiến thân cho Chúa, Giuse đã chiến thắng vẻ vang. Từ đó Ngài bỏ Valence để tiếp
tục theo học tại Alcada.
Tuy
nhiên một hung tin làm xáo trộn cuộc đời Ngài. Người anh của Giuse, một sĩ quan
trong quân đội từ trần mà chưa có con nối dõi tông đường. Giuse trở về quê nhà
vâng lời cha mẹ nhưng vẫn nuôi ước vọng làm linh mục. Ngài ra sức cầu nguyện và
được nhậm lời. Ngài bị lâm trọng bệnh và các y sĩ đều bó tay. Người cha của
Giuse hứa sẽ cho Ngài làm linh mục nếu được chữa lành. Giuse đã lành bệnh.
Ngày
17 tháng 12 năm 1583, Giuse được thụ phong linh mục. Từ đó cha Giuse lao mình
vào công việc chấn hưng đạo đức. Ngài đã thành công đến nỗi 35 tuổi đã được đặt
làm bề trên địa phận Urgel. Dầu vậy, Ngài cảm thấy sức thúc đẩy đến Roma. Ngài
lên đường và suốt năm năm. Ngài đã sống tại giáo đô như là một khách hành hương
khiêm tốn. Trong thời gian này, thánh nhân đã thấy tận mắt sự khốn cùng và những
tật xấu của đám dân nghèo. Ngài xác tín rằng tình trạng này gây nên bởi sự thiếu
hiểu biết về đạo.
Hiện
đang sở hữu tài sản lớn lao do người cha từ trần để lại, Ngài liền thiết lập những
trường miễn phí cho dân nghèo. Nhiều người đến cộng tác với Ngài, phần lớn là
các giáo sĩ. Dần dần họ họp thành một dòng giáo sĩ triều được đặt dưới sự bảo
trợ của Mẹ Thiên Chúa. Năm 1622 cha Giuse đã đặt làm bề trên tiên khởi. Các trường
dưới sự hướng dẫn của Ngài ngày càng thêm nhiều, công cuộc của Ngài lan rộng
sang Đức, Bohemia và Ba Lan.
Về
già, cha Giuse trở thành nạn nhân của một âm mưu nhằm truất phế Ngài xuống. Mầm
mống chia rẽ vì ghen tỵ mọc lên trong dòng, khiến Đức Innocentê X hạ dòng xuống
thành hội đạo đức mà thôi. Cha Giuse vẫn vui vẻ chấp nhận. Tuy nhiên Chúa lại
thưởng công cho Ngài và nhiều phép lạ, nhất là được thấy Đức Mẹ ẵm Chúa Giêsu đến
xem các học trò của Ngài lần hạt và ban phép lành cho họ. Ngài còn được ơn nói
tiên tri, cho biết 10 năm sau dòng sẽ phục hồi và bành trướng mạnh mẽ.
Ngày
25 tháng năm 1648, thánh Giuse từ trần vì một cơn sốt, thọ 92 tuổi, năm 1767
Ngài được tuyên thánh. Năm 1948 Ngài được đặt làm vị tông đồ việc giáo dục và
làm đấng bảo trợ các trường công giáo.
(daminhvn.net)
25
Tháng Chín
"Con Người Bất Hạnh Nhất Trần
Gian"
Cuộc
đời của nhạc sĩ Beethoven, ngay cả khi đạt đến đỉnh cao của danh vọng, cũng
không phải là một cuộc đời hạnh phúc. Tất cả những người viết tiểu sử của nhạc
sĩ đều ghi nhận rằng ông đã qua một thời tuổi thơ khốn khổ. Cha ông đã xem kỳ
tài âm nhạc của ông như một cơ hội để làm tiền. Thần đồng âm nhạc đã phải ngồi
vào đàn Piano từ sáng tới chiều, đến độ ông đâm chán cả âm nhạc. Chỉ có mẹ ông
mới là nguồn an ủi duy nhất của ông trong lúc tuổi thơ, nhưng bà đã mất năm ông
mới 17 tuổi.
Năm
28 tuổi, Beethoven bắt đầu bị điếc. Ông cảm thấy thất vọng hoàn toàn. Và tai họa
đã tiếp diễn cho đến cuối đời ông.
Tuy
nhiên, con người "bất hạnh nhất trần gian ấy" như ông thường nói về
mình đã sáng tác những dòng nhạc bất hủ nhất ở cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ
thứ 19.
Kho
tàng ẩn dấu trong ta chỉ có thể được khám phá và đem ra thi thố với thế giới nếu
ta biết chiến đấu. Ðiều đó đòi hỏi những năm tháng dài, tuy nhiên, trở ngại cuối
cùng mà ta có thể vượt qua sẽ làm ló rạng kho tàng ẩn dấu trong ta. Thánh
Basiliô đã nói: vĩ nhân không phải là người chỉ đọ sức với những điều cả thể,
nhưng chính là biết làm cho những việc tầm thường trở thành cao cả bằng chính sức
mạnh của mình.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét