Trang

Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2016

23-10-2016 : (phần II) CHÚA NHẬT XXX THƯỜNG NIÊN năm C

23/10/2016
Chúa Nhật tuần 30 thường niên năm C
KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 30 thường niên - Năm C
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN C
(Hc 35,12-14.16-18; 2Tm 4,6-8.16-18; Lc18,9-14)
CHỦ ĐỀ:
THIÊN CHÚA NHẬM LỜI CẦU NGUYỆN
CỦA NGƯỜI KHIÊM NHƯỜNG
“Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13)
Thái độ khiêm nhường và việc chấp nhận những giới hạn của con người làm đẹp lòng Thiên Chúa, và Người sẽ lắng nghe tiếng họ kêu cầu. Nếu chúng ta thực sự nhận ra khiếm khuyết của bản thân, và nếu chúng ta nhận rằng mình cần sự trợ giúp của Thiên Chúa trong đời sống, thì Thiên Chúa sẽ nhận lời chúng ta.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. BÀI ĐỌC I (Hc 35,12-14.16-18)
Thiên Chúa luôn lắng nghe lời cầu xin của người nghèo khổ và bị áp bức. Sách Huấn Ca đã viết: “Lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm”. Nói cách cụ thể, lời cầu nguyện của người nghèo thấu đến Thiên Chúa. Chúng ta thấy rất nhiều lần Kinh Thánh đề cập đến việc Thiên Chúa bảo vệ, bênh vực những người nghèo khổ. Những ai gây ra tội ác chống lại người nghèo, Thiên Chúa sẽ không dung tha cho họ: “Người chẳng thiên vị ai. Người không vị nể mà làm hại kẻ nghèo hèn, nhưng nghe lời kêu xin của người bị áp bức. Người không coi thường lời khấn nguyện của kẻ mồ côi, hay tiếng than của người góa bụa”. Trong truyền thống Cựu Ước, người nghèo không chỉ là kẻ thiếu thốn vật chất mà còn sống trong tình trạng thiếu thốn của “người hành khất”. Họ có thể thuộc nhóm “anawim” (người nghèo) của YHWH, là những kẻ nghèo khó về vật chất nhưng được Cựu Ước đề cao họ về phương diện tinh thần. Họ là những người trung thành với Thiên Chúa, khiêm nhường và phụ thuộc vào sự che chở của Thiên Chúa và được Thiên Chúa nhân từ quan tâm cách đặc biệt: cho đón nhận Tin Mừng (Xh 22,25-27; 23,11; Lv 19,9-10;Đnl 15,7-11; Tv 9,19; 40,18; nhất là: Is 61,1). Họ không tự hào về chính mình, nhưng luôn cậy dựa vào Thiên Chúa là sức mạnh của mình. Vì thế, Thiên Chúa nhận lời cầu xin của họ.
2. BÀI ĐỌC II (2Tm 4,6-8.16-18)
Phaolô đang bị cầm tù, Người viết thư để khích lệ Timôthê, người môn đệ của mình. Đoạn thư này cho thấy thánh Phaolô đã khiêm nhường tín thác vào Chúa, ngay cả trong tình trạng khốn khổ nhất. Cuộc sống của Phaolô đang gặp khó khăn, nhưng Người vẫn vững tin vào Thiên Chúa: “Thiên Chúa sẽ giải thoát tôi khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu rỗi và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời”. Dù đối diện với những khó khăn bởi việc rao giảng Tin Mừng, ngay cả bị nhiều người bỏ mặc, Phaolô vẫn kiên tâm tiếp tục sứ vụ rao giảng của mình, vì biết rằng sức mạnh của Thiên Chúa luôn ở với Phaolô: “Nhưng có Thiên Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành và các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng”. Một người có thể thốt ra được những lời như thế, chắc chắn là một người có tâm hồn cầu nguyện trong tín thác.
3. BÀI TIN MỪNG (Lc 18,9-14)
Tuần trước, chúng ta đã nghe Đức Giêsu nói về việc cần thiết cầu nguyện không ngừng qua dụ ngôn “Ông quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy”; còn tuần này chúng ta nghe Người tiếp tục dạy các môn đệ bài học về lòng khiêm nhường khi cầu nguyện qua dụ ngôn về “Hai người lên đền thờ cầu nguyện”. Hai người cùng cầu nguyện, nhưng thái độ cầu nguyện của họ thật khác xa nhau. Người Pharisêu thì tự hào về đời sống “chuẩn mực” của mình. Vì thế, ông tự đề cao chính mình và dễ dàng xét đoán người khác: “Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: trộm cắp, bất chính, ngoại tình hoặc như tên thu thuế kia’”. Ông kể những công trạng của mình với Thiên Chúa: “Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”.
Trong khi đó, người thu thuế khiêm nhường nhận ra con người yếu đuối và tội lỗi của mình trước mặt Thiên Chúa: “Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, chẳng dám ngước mắt lên trời, vừa đấm ngực vừa thưa rằng…”. Ông đã thốt lên lời thú tội từ cõi lòng sám hối chân thành với Thiên Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. Kết thúc dụ ngôn Đức Giêsu ca ngợi thái độ khiêm nhường của người thu thuế. Thiên Chúa yêu thích người khiêm nhường và đón nhận lời cầu nguyện của họ.
Thêm vào đó, dụ ngôn này diễn tả cách nào đó về một chủ đề quan trọng trong Tin Mừng: những đối tượng bị người ta xem là không xứng đáng hưởng phần thưởng Nước Trời, thì vẫn được Thiên Chúa ân thưởng. Trong chương trình của Thiên Chúa và mầu nhiệm Nước Trời, những đối tượng này thậm chí còn được ưu tiên hơn. Chính Đức Giêsu đã xác nhận: “tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,13).
Dụ ngôn này trước hết nhắc nhở rằng chúng ta được mời gọi sống khiêm nhường thực sự trước mặt Thiên Chúa và người khác. Đừng xét đoán tha nhân bởi vì chúng ta không hoàn hảo hơn ai. Kế đến, dụ ngôn cảnh bảo rằng nếu con người chỉ căn cứ vào “việc làm” của bản thân, thì cũng giống với người Pharisêu kia. Họ tự cao khi xem mình có nhiều công trạng, nên chắc chắn được hưởng phần thưởng. Công trạng của con người chẳng đáng là gì trước mặt Thiên Chúa, không thể nào cân xứng với phần thưởng và ân huệ vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa dành cho mọi người. Thiên Chúa không bỏ qua bất cứ nỗ lực của con người mà không ban thưởng xứng đáng. Tuy nhiên, phần thưởng mà mỗi người nhận được không hoàn toàn tùy thuộc vào công trạng của mình, nhưng tùy thuộc vào lòng quảng đại đầy thương xót của Thiên Chúa.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Lời cầu nguyện của người nghèo vượt ngàn mây thẳm”. Chúng ta có đến với Thiên Chúa với tâm hồn đơn sơ trong cầu nguyện? Chúng ta có thái độ khiêm nhường và phụ thuộc vào sự che chở của Thiên Chúa hay không?
2. “Nhưng có Thiên Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành và các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng”. Chúng ta có cảm nhận sự hiện diện và đồng hành của Thiên Chúa trong đời sống của mình? Chúng ta có sợ hãi khi nói về Thiên Chúa cho người khác? Chúng ta có biết kín múc sức mạnh nội tâm trong cầu nguyện không?
3. “Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, chẳng dám ngước mắt lên trời, vừa đấm ngực vừa thưa rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’”. Tôi có thực sự can đảm chấp nhận con người yếu đuối và đầy giới hạn của mình để mở ra đón nhận hồng ân của Thiên Chúa? Tôi có ý thức rằng Thiên Chúa luôn ân thưởng xứng đáng cho mọi nỗ lực của con người, nhưng phần thưởng mà mỗi người nhận được không hoàn toàn tùy thuộc vào công trạng của mình, nhưng tùy thuộc vào lòng quảng đại đầy thương xót của Thiên Chúa?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa hằng lắng nghe và đáp lại lời cầu xin chân thành của những người khiêm tốn. Trong ngày cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo hôm nay, với thao thức chia sẻ niềm vui đức tin đã lãnh nhận cho nhiều người chưa nhận biết Chúa, chúng ta cùng tha thiết cầu xin:
1. Người thu thuế cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh, biết ý thức thân phận con người tội lỗi để không ngừng sám hối và hoán cải bản thân; đồng thời luôn nỗ lực trở nên dấu chỉ lòng thương xót của Chúa cho thế giới hôm nay.
2. Thánh Phaolô khẳng định chính Chúa đã phù hộ và ban sức mạnh để ngài hoàn tất việc rao giảng. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi Kitô hữu biết ý thức trách nhiệm truyền giáo, tích cực cộng tác với ơn Chúa trong việc tuyên xưng và thông truyền đức tin, hầu giúp cho nhiều người tin nhận Chúa Kitô là Đấng cứu độ duy nhất.
3. Biết bao người đang phải gánh chịu hậu quả nặng nề do lũ lụt gây ra tại các tỉnh miền Trung. Chúng ta cùng cầu nguyện cho họ nhận được sự quan tâm kịp thời của các cấp chính quyền, cùng với sự đồng cảm chia sẻ cả tinh thần lẫn vật chất của mọi người xa gần, để sớm khắc phục thiệt hại và mau chóng ổn định đời sống.
4. “Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta biết tránh xa lối sống giả hình, luôn chân thành khiêm tốn đối với Chúa và với nhau, tích cực cộng tác để xây dựng cộng đoàn trong tinh thần yêu thương hợp nhất.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, xin thương nhậm lời chúng con cầu nguyện và gửi Thần Khí Chúa đến biến đổi mỗi người chúng con nên khí cụ hữu hiệu mở mang nước Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

SCĐ CHÚA NHỰT XXX TN C
Chủ đề :
Chúa đón nhận lời cầu nguyện khiêm nhường của người nghèo khổ

Người biệt phái và người thu thuế cầu nguyện  (Lc 18,9-14)

Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Lời cầu nguyện của kẻ nghèo khổ
- Đáp ca : Kêu gọi những người nghèo khổ hãy cậy trông vào Chúa vì Ngài sẽ nhậm lời họ cầu xin.
- Tin Mừng : Chúa không màng lời cầu nguyện kiêu căng của người biệt phái, nhưng ưa thích lời cầu nguyện khiêm tốn của người thu thuế.
Minh họa
- Mille images 80 E
- Người biệt phái và người thu thuế cầu nguyện (Lc 18,9-14)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể có hai người lên đền thờ cầu nguyện : Chúa nhậm lời cầu nguyện của người biệt phái nhưng nhậm lời cầu nguyện của người thu thuế.
Hôm nay chúng ta cũng lên đền thờ cầu nguyện. Chúng ta đừng đến với Chúa với lòng tự phụ như người biệt phái, nhưng hãy đến với Ngài với tâm tình khiêm nhường thống hối như người thu thuế.
Trước hết, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi mình và xin Chúa thứ tha.
II. Gợi ý sám hối
- Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tự hào về những việc lành mình làm được.
- Như người biệt phái, nhiều khi chúng ta tỏ ra khinh miệt những người yếu đuối lỡ sa phạm tội.
- Như người thu thuế, chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận tội lỗi mình và xin Chúa thương xót.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Hc 35,12-14.16-18)
"Chúa nhậm lời kêu xin của kẻ nghèo hèn". Đây là chủ đề chính của đoạn sách Huấn ca này và cũng là của toàn bộ Thánh Kinh : Trong Cựu Ước, Thiên Chúa luôn bênh vực những người nghèo hèn yếu đuối ; trong Tân Ước, Chúa Giêsu tỏ ra yêu thương đặc biệt những người bị xã hội coi khinh.
2. Đáp ca (Tv 33)
Kêu gọi những người nghèo khổ hãy cậy trông vào Chúa vì Ngài sẽ nhậm lời họ cầu xin.
3. Tin Mừng (Lc 18,9-14)
Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho hai thái độ sống :
Người biệt phái : anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác ("tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia") ; thứ hai là anh cũng không yêu Chúa : anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
- Người thu thuế : anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa ("Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội")
4. Bài đọc II (2 Tm 4,6-8.16-18) (Chủ đề phụ)
Những suy nghĩ và tâm tình của Phaolô khi đang ngồi tù và biết mình sắp chết :
- Nhìn lại cuộc sống đã qua, Phaolô an tâm vì thấy mình giống như một vận động viên đã kiên trì chạy hết đường đua và sắp về tới đích.
- Nghĩ tới những người đã làm khổ mình, Phaolô xin Chúa đừng chấp tội họ. Ông cũng cảm tạ Chúa đã ban sức mạnh cho ông vượt qua mọi gian khổ ấy.
- Nghĩ tới cái chết, Phaolô coi đó là một lễ tế dâng lên cho Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Tội và thân phận tội lỗi
Công bình mà xét thì người biệt phái ít tội hơn người thu thuế.
Nhưng điểm đáng chú ý là người biệt phái lại nói về tội lỗi nhiều hơn người thu thuế : hắn đã kể ra những tội tham lam, bất chính, ngoại tình v.v. Tuy nhiên tất cả đều là… tội của người khác ! Còn người thu thuế thì trái lại, tuy anh rất nhiều tội, nhưng anh lại không kể các tội đó ra. Điều duy nhất anh kể ra là "Con là kẻ tội lỗi. Lạy Chúa xin thương xót con"
Thực ra người biệt phái cũng có tội : tội tự mãn, tội kiêu căng, tội khinh miệt người khác… Nhưng hắn không ý thức các tội đó. Hắn không nhìn nhận mình là người tội lỗi. Hắn không biết thân phận tội lỗi của mình.
Chúa Giêsu phê phán người biệt phái vì : a/ Hắn chỉ nhìn thấy tội ; b/ chỉ nhìn thấy tội của người khác ; c/ hoàn toàn không thấy thân phận tội lỗi của mình ; d/ hoàn toàn không thấy lòng thương xót của Chúa.
Chúa Giêsu đề cao người thu thuế vì : a/ Anh không những thấy tội mà còn thấy thân phận tội lỗi của mình ; b/ Anh còn thấy được lòng thương xót của Chúa nữa.
Cả hai người trên đều có thể thành bài học cho chúng ta.
Trước hết, chúng ta cũng giống người biệt phái. Chúng ta rất ý thức về tội lỗi của người khác nhưng lại không ý thức về tội lỗi của chính mình. Chúng ta nói về tội của người khác nhiều hơn về tội của mình. Điều này thật nguy hiểm, vì nó ngăn cản không cho chúng ta nhìn thấy tội lỗi của mình.
Chúng ta cũng có thể học nơi người thu thuế. Anh dạy chúng ta can đảm xưng thú những tội lỗi của mình. Anh chỉ cho chúng ta thấy chúng ta là kẻ tội lỗi, kẻ mang thân phận tội lỗi.
Nhiều người đến tòa cáo giải với một bảng liệt kê các tội đã phạm. Hầu hết các tội trong bảng liệt kê ấy đều không khác nhau mấy từ lần xưng tội này đến lần xưng tội khác. Xưng xong rồi ra về và mọi sự đều trở lại y như cũ. Việc xưng tội không giúp chúng ta cải thiện con người bao nhiêu. Tại sao ? Vì chúng ta quá chú ý đến các thứ tội mà không chú ý bao nhiêu đến thân phận tội lỗi của mình.
Tội không chỉ là những việc làm xấu, mà chủ yếu là tình trạng xấu ta đang sống. Vì thế điều cần thiết hơn không phải chỉ là xin Chúa tha tội cho mình, mà là xin Chúa thương xót cứu vớt mình khỏi tình trạng xấu ấy.
"Một người tội lỗi ý thức thân phận tội lỗi của mình còn tốt hơn một vị thánh ý thức mình là thánh" (Yiddish).
* 2. Một tấm lòng tan nát khiêm cung
Trong xã hội do thái, ai cũng coi những người thu thuế là những kẻ tội lỗi. Trong dụ ngôn này chính Chúa Giêsu cũng coi như thế, và chính người thu thuế cũng tự coi như thế.
Nhưng người thu thuế này đã lên đền thờ cầu nguyện, nghĩa là anh có thiện chí, anh muốn từ bỏ tội lỗi, anh muốn được tha.
Tuy nhiên khi xét lại quãng đời tội lỗi đã qua, anh biết rằng anh không thể nào được tha : theo luật, một người lỗi đức công bình nếu muốn được tha thì phải trả hết tiền, còn bồi thường thêm 1/5 nữa. Anh làm sao nhớ hết những kẻ mà anh làm hại, có nhớ cũng không có tiền để trả, huống chi lại thường thêm 1/5...
Lòng anh tan nát. Nhưng anh không tuyệt vọng : nếu theo luật, anh không thể được tha thì anh sẽ kêu xin đến lòng thương xót của Chúa. Thế là anh thốt lên : "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi".
Điểm đáng ta chú ý là anh thu thuế này đã trích những tiếng đầu của Thánh vịnh 50 ("Lạy Chúa xin xót thương con theo lòng nhân hậu Chúa"). Mà trong Thánh vịnh này cũng có câu "Chúa gần gũi những tấm lòng tan nát khiêm cung". Thiên Chúa đúng là như thế. Người thu thuế đã kêu đến chính nơi phải kêu, chạm tới chính chỗ phải chạm. Vì vậy Chúa đã thương xót anh, tha thứ tất cả cho anh, như lời Chúa Giêsu nói : "Ta nói cho các ông biết : người này khi trở về thì đã nên công chính rồi".
* 3. Lòng trí hướng về ai ?
Người biệt phái và người thu thuế đều lên đền thờ và đều cầu nguyện. Nhưng lòng trí của mỗi người hướng đến những hướng khác nhau.
Lòng trí của người biệt phái hướng về ai ?
- Trước hết là hướng về người khác : "Lạy Chúa, con không như bao kẻ khác, tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia"
- Đồng thời lúc đó cũng hướng về bản thân mình : "Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con"
- Nơi quan trọng nhất phải hướng về là Thiên Chúa thì hắn lại bỏ qua !
Còn lòng trí người thu thuế thì hướng thẳng về Thiên Chúa : "Lạy Thiên Chúa xin thương xót con là kẻ tội lỗi".
Chúng ta dễ phạm lại sai lầm của người biệt phái : khi cầu nguyện, lòng trí chúng ta hướng về những nhu cầu ích kỷ của bản thân và than phiền về những điều khó chịu người khác gây cho mình.
Hãy học cầu nguyện như người thu thuế là hướng về Chúa. Có nghĩ về mình là để ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi càng hướng về Chúa nhiều hơn.
* 4. Ai là người công chính ?
Ngày kia, Khổng tử dẫn học trò từ nước Lỗ sang nước Tề. Trong đám học trò có Nhan Hồi và Tử Lộ là hai môn sinh được Khổng Tử sủng ái nhất. Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi khiến dân chúng lâm cảnh lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói cầm hơi.
Ngày đầu tiên khi đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người giàu có biếu cho một ít gạo. Khổng Tử liền phân công : Tử Lộ và một số môn sinh khác vào rừng kiếm rau, còn Nhan Hồi đảm nhận việc nấu cơm.
Đang khi nằm đọc sách ở nhà trên, Khổng Tử bỗng nghe tiếng động ở nhà bếp, nhìn xuống, người bắt gặp Nhan hồi đang mở vung xới cơm cho vào tay nắm lại từng nắm nhỏ rồi từ từ đưa vào miệng. Thấy cảnh học trò đang ăn vụng, Khổng Tử nhìn lên trời than thở : "Người học trò tín cẩn nhất của ta lại là kẻ ăn vụng ?" Khi tử Lộ và các môn sinh khác trở về thì nồi cơm cũng vừa chín. Khổng Tử cho tập họp tất cả lại và nói :
- Bữa cơm đầu tiên này trên đất Tề làm cho thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương. Thầy nhớ đến cha mẹ, cho nên muốn xới một bát cơm để cúng cha mẹ, các con nghĩ có nên không ? Nhưng liệu nồi cơm này có sạch chăng ?
Nhan Hồi liền chắp tay thưa :
- Dạ thưa Thầy, nồi cơm này không được sạch. Khi cơm vừa chín, con mở vung ra xem thử, chẳng may một cơn gió tràn vào, bồ hóng bụi trần rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm, con đã nhanh tay đậy nồi cơm lại nhưng không kịp. Sau đó, con định xới lớp cơm bẩn vất di, nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em lại đông, nên con đã ăn phần cơm ấy. Thưa Thầy, như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.
Nghe Nhan Hồi nói xong, Khổng Tử lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng :
- Chao ôi ! Thế ra trên đời này có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa Khổng Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ !
*
Cho dù là bậc hiền triết như đức Khổng Tử thế mà suýt nữa đã trở thành kẻ hồ đồ, suýt nữa đã phê phán người học trò rất mực chân thật và khiêm tốn, sẵn sàng chịu thiệt về phần mình để được lợi cho anh em. Đó cũng là cám do rất thường gặp nơi những người được xem là đạo đức thánh thiện, những người đã đắc thủ được một số nhân đức nào đó, đã làm được nhiều việc lớn lao, đã leo lên được chức vụ cao trong xã hội, đã đạt được một số thành tích trong đạo ngoài đời. Họ dễ tự mãn và khinh rẻ người khác lắm, nếu chẳng công khai thì cũng ngấm ngầm, lúc thì giấu được khi thì lộ ra. Chuyện ấy thường tình lắm nên Chúa Giêsu mới nhắc nhở chúng ta qua dụ ngôn : "Người Pharisêu công chính và người thu thuế tội lỗi".
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện nhưng thực ra là để khoe khoang thành tích. Ông thưa chuyện với Chúa nhưng thực ra là ông đang độc thoại một mình. Ông "tạ ơn Chúa" nhưng thực ra là ông muốn Chúa hãy biết ơn ông.
Quả thật, bảng liệt kê công trạng của ông không có gì sai. Những điều luật cấm ông không dám làm, những điều luật buộc thì ông còn làm hơn mức qui định. Ông thật là con người đúng mực, một con người hoàn hảo, không có gì để chê trách, một tín đồ trung thành với lề luật, một mẫu gương tuyệt vời. Chỉ tiếc có một điều là ông quá tự mãn tự kiêu nên bao việc lành phúc đức của ông theo "cái tôi" bọt bèo của mình mà trôi ra sông ra biển hết. Cái tôi của ông quá to, đến nỗi ông chỉ nhìn thấy mình mà không thấy Chúa ; công trạng của ông quá nhiều đến nỗi ông chỉ nhìn thấy nó là đức độ của ông chứ không phải là do ơn Chúa ; cái tự mãn của ông quá lớn, cho nên ông thẳng thừng khinh miệt anh em.
Sai lầm trầm trọng của ông Pharisêu bắt đầu từ câu này : "Vì con không như bao kẻ khác : tham lam, bất chính, ngoại tình hoặc, như tên thu thuế kia" (Lc, 8,11). Giá như ông đừng so sánh cuộc sống của ông với người khác, mà biết đem cuộc sống của mình đối chiếu với cuộc sống thánh thiện của Đức Kitô, thì ông sẽ nhận ra mình còn thiếu sót biết là bao nhiêu, mình còn bất toàn biết là dường nào. Chính khi đó, ông mới cần đến lòng nhân từ xót thương của Chúa, cần đến sự tha thứ và khoan dung của Người. Chính lúc đó, ông mới biết cầu nguyện bằng những lời lẽ chân thành và khiêm tốn của người thu thuế : "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi" (Lc 18,13).
Sai lầm căn bản của người Pharisêu còn ở chỗ ông đã không nhận ra sự công chính là một ân huệ Chúa ban (Pl 3,9) chứ không phải tự ông mà có, tự ông tuân giữ hoàn hảo các lề luật được. Chính khi tự mãn thiếu khiêm tốn, và nhận sự công chính ấy là của riêng mình thì ngay lúc đó ông đã mất ơn nghĩa với Chúa và không còn công chính nữa.
Người thu thuế nhận mình lầm rỗi, ông biết rõ tội mình vô phương cứu chữa, chẳng dám ngước mắt nhìn lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn và kêu xin lòng thương xót Chúa. Ông bất lực hoàn toàn, chỉ phó thác cho lòng Chúa khoan dung. Ngay lúc đó, ông đã trở nên công chính bên trong. Chính tâm tình ấy mà Chúa đã nhìn xuống và làm cho ông nên công chính.
Như thế, những kẻ cho mình là thánh thiện, là đầy đủ, thì sẽ trở về con số không ; còn những kẻ nhận mình là không thì sẽ đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng. Vì phàm "Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên" (Lc 18,14).
*
Lạy Chúa, chúng con có là gì mà chẳng do lòng Chúa thương ban. Xin cho chúng con biết khiêm tốn nhận mình thiếu sót lỗi lầm, để được Chúa xót thương tha thứ.
Xin cho cuộc sống chúng con luôn biết rập theo khuôn mẫu thánh thiện của Đức Ki tô là Đấng Công Chính tuyệt đối. Amen. (TP)
5. Mảnh suy tư
Nếu người biệt phái có quyền thì chắc hẳn hắn đã không cho người thu thuế vào đền thờ.
Nhiều người trong chúng ta cũng nghĩ rằng những kẻ tội lỗi không được đến nhà thờ : tội lỗi mà đến nhà thờ làm chi ? Chỉ là giả hình ! Nhà thờ là nơi dành cho những người đạo đức thánh thiện.
Nếu như thế thì nhà thờ sẽ rất nhỏ hẹp.
Tưởng tượng xem một tiệm sửa giày mà chỉ nhận những đôi giày còn tốt thì có còn là tiệm sửa giày không ! Một bệnh viện mà chỉ nhận những người khoẻ mạnh thì có còn là bệnh viện không !
Chúng ta đến nhà thờ không phải vì chúng ta xứng đáng mà vì chúng ta cần. Chúng ta cần được lòng thương xót Chúa chữa trị, và chúng ta cũng cần sự nâng đỡ của anh chị em trong cộng đoàn. (FM)
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, trước mặt Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, tất cả chúng ta đều là kẻ có tội, cần đến lòng thương xót và sự tha thứ của Chúa. Tin tưởng vào lòng từ bi của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1. Hội thánh luôn mời gọi con cái mình tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / biết đặt trọn niềm tin tưởng vào Chúa là Đấng hay thương xót và thứ tha.
2. Hiện nay / nạn kỳ thị chủng tộc / khinh dể những sắc tộc yếu kém hơn mình / thanh lọc sắc tộc bằng các cuộc chiến tranh diệt chủng / vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho đức bác ái của Chúa Kitô / thấm nhập và tác động đến mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết yêu thương và tôn trọng nhau hơn.
3. Tự cho mình là thánh thiện và coi thường người khác / là thái độ kiêu căng đáng ghét / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết ý thức thân phận tội lỗi của mình / để đừng bao giờ kết án hay khinh khi anh chị em của mình.
4. Cầu nguyện trong khiêm tốn là điều mà mỗi Kitô hữu cần ghi lòng tạc dạ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thân thưa cùng Chúa / Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa thương người khiêm tốn và ghét kẻ kiêu căng. Xin Chúa cho tất cả chúng con biết noi gương Chúa Giêsu, Con Chúa là Đấng có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Tất cả chúng ta đều có tội. Hơn nữa tất cả chúng ta đều mang thân phận yếu đuối tội lỗi. Chúng ta hãy xin Chúa là Cha tha tội cho chúng ta và hãy hứa với Ngài là chúng ta cũng tha thứ cho anh em chúng ta.
VII. Giải tán
Là những kẻ tội lỗi đã được Chúa thương xót thứ tha, anh chị em hãy ra về và làm chứng cho mọi người biết lòng thương xót Chúa.
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật XXX Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 23 Tháng 10, 2016

Dụ ngôn người Biệt Phái và người Thu Thuế
Sự yên ổn của tôi dựa vào đâu?
Lc 18:1–14 


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.  Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của mình.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

2.  Bài Đọc
a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc: 

Bài Phúc Âm của Chúa Nhật tuần này đặt chúng ta trước dụ ngôn về người Biệt Phái và người Thu Thuế (Lc 18:9-14).  Chúng tôi đã thêm vào dụ ngôn bà góa và vị thẩm phán (Lc 18:1-8), bởi vì cả hai tạo thành một sự thống nhất nhỏ, mục đích là để giúp chúng ta khám phá ra chúng ta phải có thái độ cầu nguyện như thế nào trước Thiên Chúa.  Hai dụ ngôn cho chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu đã có một phương cách khác để nhìn thấy những sự việc của đời sống và cầu nguyện.  Chúa đã thành công để cảm nhận sự mặc khải của Thiên Chúa ở nơi mà những người khác chỉ nhìn thấy những sự hoang tàn.  Người thấy có điều gì đó tích cực nơi người thu thuế, kẻ mà ai ai cũng nói:  “Hắn ta không biết cách cầu nguyện!”  Và nơi bà góa nghèo, người mà xã hội đã nói:  “Bà ta làm phiền và quấy nhiễu cả đến quan tòa!”  Chúa Giêsu đã sống rất hiệp nhất với Chúa Cha qua lời cầu nguyện, đối với Người mọi việc đã trở nên một biểu lộ của lời cầu nguyện.
Ngày nay, những người bình dị mộc mạc của phố chợ nói rằng họ không biết làm thế nào để cầu nguyện, nhưng biết cách để thưa chuyện với Chúa Giêsu, họ trò chuyện với Thiên Chúa mỗi ngày.  Bạn có biết người nào như vậy không?  Người ta có nhiều cách để bày tỏ lòng thành tâm và lời cầu nguyện của họ.
Trong lúc đọc bài đọc, chúng ta hãy cố gắng chú ý đến hai điều sau đây:  Đâu là mục tiêu và ai là người mà hai dụ ngôn nhắm đến?  Đâu là thái độ của những nhân vật được đề cập đến trong các dụ ngôn?

b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:

Lc 18:1:  Mục tiêu của dụ ngôn đầu tiên  
Lc 18:2:  Mô tả thái độ của vị thẩm phán
Lc 18:3:  Thái độ của bà góa trước vị thẩm phán   
Lc 18:4-5:  Phản ứng của vị thẩm phán trước bà góa   
Lc 18:6-8:  Chúa Giêsu áp dụng dụ ngôn
Lc 18:9:  Những người mà dụ ngôn thứ hai nhắm tới
Lc 18:10:  Lời giới thiệu về chủ đề của dụ ngôn
Lc 18:11-12:  Mô tả cách cầu nguyện của người Biệt Phái như thế nào
Lc 18:13:  Mô tả cách người thu thuế cầu nguyện như thế nào
Lc 18:14:  Chúa Giêsu cho biết quan điểm của Người về cả hai  

c)  Phúc Âm:
 1 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông cần phải cầu nguyện luôn và đừng ngã lòng:  2 “Trong thành kia có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa cũng không kiêng nể người ta.  3 Trong thành đó lại có một bà góa đến thưa cùng ông rằng:  ‘Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù!’  4 Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng:  ‘Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, 5 nhưng vì bá góa này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc.’ ”  6Rồi Chúa phán:  “Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương đó nói gì?”  7 Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Chúa tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày mà khoan giãn với họ mãi sao?  8 Thầy bảo các con:  Chúa sẽ kíp giải oan cho họ.  Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa không?”  9 Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác:  10 “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người Biệt Phái, một người thu thuế.  11 Người Biệt Phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng:  “Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác:  tham lam, bất công, ngoại tình như những người khác, hay là như tên thu thuế kia.  12 Tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả hoa lợi của tôi.”  13 Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mặt lên trời; nhưng đấm ngực và nguyện rằng:  “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ có tội.”  14 Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không.  Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên.”

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để Lời của Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

a)  Bạn hài lòng điều nào nhất trong cả hai dụ ngôn này?  Tại sao?    
b)  Bà góa và vị thẩm phán có thái độ ra sao? Điều gì đánh động chúng ta nhất trong thái độ của mỗi nhân vật?  Tại sao?    
c)  Người Biệt Phái và người thu thuế có những thái độ như thế nào?  Điều gì đánh động chúng ta nhất trong thái độ của mỗi người?  Tại sao?
d)  Chúa Giêsu áp dụng dụ ngôn này như thế nào?     
e)  Hai bài dụ ngôn này dạy chúng ta phải làm gì liên quan đến việc cầu nguyện?  

5.  Phần chú giải


Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề

a)  Bối cảnh hôm qua và hôm nay:

Bối cảnh vào thời của Chúa Giêsu và của thánh Luca được diễn đạt trong hai câu giới thiệu nói về “cần phải cầu nguyện liên tục và đừng ngã lòng” (Lc 18:1) và “một số người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác” (Lc 18:9).  Bối cảnh của ngày nay tiếp tục giống như xưa kia, bởi vì ngày nay cũng cần phải cầu nguyện luôn luôn và ngày nay cũng có những người tự hào là người công chính và khinh bỉ kẻ khác.

b)  Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:

Lc 18:1:  Mục tiêu của dụ ngôn đầu tiên
Thánh Luca giới thiệu dụ ngôn này với câu:  “sự cần thiết phải luôn luôn cầu nguyện và đừng bao giờ ngã lòng”.  Trong các đoạn Tin Mừng khác, ông khẳng định trong cùng một cách về sự kiên trì trong cầu nguyện và về sự cần thiết tin rằng Thiên Chúa nghe lời cầu nguyện của chúng ta và đáp ứng những lời cầu xin của chúng ta.  Niềm tin vào Thiên Chúa đáp ứng lời khẩn cầu của chúng ta là sợi chỉ đỏ tràn ngập khắp toàn bộ Kinh Thánh, nơi mà, từ cuộc xuất hành khỏi đất Ai Cập nó đã không ngừng lặp đi lặp lại rằng “Hãy nghe tiếng than van của Dân Người” (Xh 2:24; 3:7).

Lc 18:2:  Mô tả thái độ của vị thẩm phán
Chúa Giêsu muốn làm sáng tỏ cho những ai lắng nghe lời Người, đó là thái độ của Thiên Chúa trước lời cầu nguyện của chúng ta.  Vì lý do này, khi nói về người thẩm phán, Người nghĩ đến Thiên Chúa Cha, Đấng là cùng đích của việc so sánh mà Người đang làm.  Nếu đó không phải là Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không có đủ can đảm để so sánh Thiên Chúa với vị thẩm phán “người không kính sợ Thiên Chúa cũng không kiêng nể người ta”.  Việc so sánh táo bạo này, được thực hiện bởi Chúa Giêsu, một mặt tăng cường tầm quan trọng của sự kiên trì trong cầu nguyện và, mặt khác, sự chắc chắn sẽ được Đức Chúa Cha nhậm lời.

Lc 18:3:  Thái độ của bà góa trước vị thẩm phán
Trong thái độ của bà góa trước vị thẩm phán, chúng ta biết được tình cảnh của người nghèo khó trong xã hội thời Chúa Giêsu bấy giờ.  Các góa phụ và cô nhi không có ai bênh vực và quyền lợi của họ không được tôn trọng.  Sự việc mà Chúa Giêsu so sánh thái độ của chúng ta với thái độ của bà góa nghèo khổ, không ai bênh vực bà, là người tìm cách để đòi lại quyền lợi của bà trước một vị thẩm phán không có lòng thương người, cho thấy sự đồng cảm của Chúa Giêsu đối với những người nghèo, những người quyết chí đấu tranh để dành lại quyền lợi của họ.

Lc 18:4-5:  Phản ứng của vị thẩm phán trước bà góa
Vị thẩm phán cuối cùng cũng chịu thua trước sự kiên gan bền chí của người góa phụ.  Ông ta chịu xét xử cho bà ấy không phải vì lòng yêu chuộng công lý, mà để tránh cho mình khỏi bị bà góa liên tục quấy rầy mãi.

Lc 18:6-8:  Chúa Giêsu áp dụng dụ ngôn
Chúa Giêsu rút ra một kết luận:  Nếu một người thẩm phán vô thần và bất lương phải quan tâm đến một bà góa là kẻ kiên trì trong sự kêu nài của bà; thì Thiên Chúa, Đức Chúa Cha, sẽ lắng nghe những người mà ngày đêm cầu xin Người nhiều hơn nữa, ngay cả khi Người bắt họ phải chờ đợi.  Đây là tâm điểm của dụ ngôn, được xác nhận bởi câu hỏi cuối cùng của Chúa Giêsu:  “Khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”  Có nghĩa là, liệu đức tin của chúng ta có sẽ được bền bỉ như của bà góa, người nhất định không nản lòng, cho đến khi bà ta có được sự đáp ứng của Thiên Chúa chăng?  Bởi vì như sách Giảng Viên đã chép:  “Thật là khó mà chống lại được sự kỳ vọng của Thiên Chúa!”   

Lc 18:9:  Những người mà dụ ngôn thứ hai nhắm tới
Bài dụ ngôn thứ hai này về người Biệt Phái và người thu thuế được giới thiệu trong câu thứ hai:  “Người nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác!”  Câu mà thánh Luca đề cập cùng một lúc, vào thời điểm của Chúa Giêsu và vào thời điểm của Luca.  Kế đến, trong các cộng đoàn của thập niên 80, những người mà Luca muốn nhắm đến khi viết sách Phúc Âm của ông, có một số người cố bám víu vào truyền thống cổ xưa của Do Thái giáo mà xem thường những dân ngoại (Cv 15:1-5).  

Lc 18:10:  Lời giới thiệu về chủ đề của dụ ngôn
Có hai người lên Đền Thờ cầu nguyện:  một là người Biệt Phái và người kia là một người thu thuế.  Không thể có một sự tương phản nào rõ ràng hơn sự tương phản giữa hai người này.  Theo quan điểm của người ta thời bấy giờ, người thu thuế thì bất xứng và không thể thưa gửi cùng Thiên Chúa, bởi vì anh ta là kẻ ô uế, khi nào người ấy còn là người thu thuế, trong khi người Biệt Phái là người đáng kính trọng và rất sùng đạo.

Lc 18:11-12:  Mô tả cách cầu nguyện của người Biệt Phái như thế nào
Người Biệt Phái đứng thẳng cầu nguyện và cảm tạ Thiên Chúa bởi vì ông ta không giống như những người khác:  tham lam, bất trung, ngoại tình.  Lời cầu nguyện của ông ta không có gì khác hơn là tự ca ngợi mình và những việc ông ta làm:  ăn chay và đóng một phần mười trên tổng số hoa lợi của mình.  Đây là một sự tán dương các việc làm tốt lành của ông ta và khinh miệt việc làm của những kẻ khác, những người mà ông ta đã sỉ nhục, đặc biệt là người thu thuế, người đang cùng đứng với ông trong cùng một nơi chốn.  Ông ta không coi người đó là anh em mình.

Lc 18:13:  Mô tả cách người thu thuế cầu nguyện như thế nào
Người thu thuế không dám ngước mắt lên, nhưng lại đấm ngực và nguyện rằng:  “Lạy Chúa, xin thương xót tôi là kẻ tội lỗi!”  Anh ta không xứng đứng trước mặt Chúa.

Lc 18:14:  Chúa Giêsu cho biết quan điểm của Người về cả hai dụ ngôn
Nếu Chúa Giêsu đã hỏi dân chúng, ai là người ra về được khỏi tội, thì có lẽ tất cả sẽ trả lời:  “Người Biệt Phái!”  Nhưng Chúa Giêsu lại nghĩ khác.  Người ra về được khỏi tội (trong một mối quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa) không phải là người Biệt Phái, mà là người thu thuế.  Một lần nữa, Đức Giêsu đã đảo ngược mọi chuyện.  Có lẽ sự áp dụng này của Chúa Giêsu trong dụ ngôn đã không làm hài lòng nhiều người.

c)  Phần phụ chú:

i)  Những Kitô hữu tiên khởi giới thiệu với chúng ta hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện, Đấng sống trong sự hiệp nhất vĩnh cửu với Đức Chúa Cha.  Hơi thở cuộc sống của Chúa Giêsu là làm theo thánh ý của Thiên Chúa (Ga 5:19).  Chúa Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều và đã khẳng định để cho người ta và các môn đệ của Chúa cũng phải cầu nguyện.  Bởi vì trong mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa thì sự thật hiện lên và người ta sẽ tìm thấy mình trong tất cả sự thực và lòng khiêm nhường.

ii)  Hai bài dụ ngôn mặc khải điều gì đó về thái độ cầu nguyện của Chúa Giêsu trước mặt Đức Chúa Cha.  Chúng mặc khải rằng ngay cả đối với Chúa Giêsu, cầu nguyện cũng không phải luôn luôn dễ dàng.  Giống như người đàn bà góa, các bạn phải hằng kiên tâm cầu nguyện, cũng như được trông thấy trong sự cầu nguyện tại Vườn Cây Dầu (Lc 22:41-42).  Người dâng lời khẩn nguyện cho đến khi chết, Người đã không ngã lòng và Người đã được nhậm lời (Dt 5:7).  Hai dụ ngôn cũng mặc khải kinh nghiệm và sự thân thiết của Người với Thiên Chúa là Chúa Cha, Đấng đã chấp nhận tất cả, và tình yêu của Người có sự thưởng công như một dấu ấn trọng tâm.  Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta không tùy thuộc vào những gì chúng ta làm cho Người.  Chúa đã yêu chúng ta trước tiên.  Người chấp nhận người thu thế. 

iii)  Thánh Luca, Thánh Sử, là người cho chúng ta biết thêm về đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu.  Ông cho thấy Chúa Giêsu trong sự cầu nguyện liên tục.  Sau đây là một vài thời điểm trong đó Chúa Giêsu xuất hiện với sự cầu nguyện trong Tin Mừng theo Luca:
  • Khi Chúa Giêsu được mười hai tuổi, Người đi lên Đền Thờ, đến nhà Chúa Cha (Lc 2:46-50).
  • Đang khi chịu phép rửa và lúc nhận lãnh sứ vụ, Người cầu nguyện (Lc 3:21).
  • Khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, Người đã cầu nguyện bốn mươi ngày trong hoang địa (Lc 4:1-2).
  • Khi Đức Giêsu bị cám dỗ, Người phải đối diện với quỷ như trong lời Kinh Thánh (Lc 4:3-12).
  • Chúa Giêsu luôn tham dự trong các giờ cầu nguyện trong Hội Đường vào ngày Thứ Bảy (Lc 4:16).
  • Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện (Lc 5:16; 9:18).
  • Trước khi chọn mười hai Tông Đồ, Người đã thức suốt đêm cầu nguyện (Lc 6:12).
  • Người cầu nguyện trước các bữa ăn (Lc 9:16; 24:30).
  • Đức Giêsu cầu nguyện trước khi tiên báo về cuộc thương khó của Người (Lc 9:18).
  • Trong lúc bối rối, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện và Người đã hiển dung trong lúc cầu nguyện (Lc 9:28).
  • Khi mặc khải Tin Mừng cho những người bé mọn, Người nói:  “Lạy Cha, con xin cảm tạ Cha!” (Lc 10:21).
  • Khi cầu nguyện, Chúa Giêsu linh ứng cho các Tông Đồ ước muốn cầu nguyện (Lc 11:1).
  • Chúa Giêsu cầu nguyện cho Phêrô để ông khỏi mất lòng tin (Lc 22:32).
  • Chúa mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ (Lc 22:7-14).
  • Trong Vườn Cây Dầu, Chúa cầu nguyện, và mồ hôi máy chảy ra từng giọt (Lc 22:41-42).
  • Khi lâm cơn xao xuyến bồi hồi, Chúa bảo các môn đệ cùng cầu nguyện với Người (Lc 22:40-46).
  • Khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá, Người cầu nguyện xin tha cho những kẻ hành hạ Người vì họ không biết những việc họ đang làm (Lc 23:34).
  • Vào phút lâm chung, Đức Giêsu kêu lớn tiếng:  “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha!”  (Lc 23:46; Tv 31:6)

iv)  Danh sách dài các lời trích dẫn này cho thấy tất cả mọi việc theo sau chúng.  Đối với Chúa Giêsu, cầu nguyện là được hiệp nhất một cách mật thiết với đời sống, với những sự kiện cụ thể, với những quyết định Người phải làm.  Để được trung tín với kế hoạch của Chúa Cha, Đức Giêsu đã cố gắng để được sống riêng tư với Chúa Cha.  Chúa lắng nghe lời Người.  Trong những lúc khó khăn và quyết định của cuộc đời, Chúa Giêsu đã cầu nguyện bằng các bài Thánh Vịnh.  Cũng giống như bất kỳ người Do Thái sùng đạo nào, Chúa thuộc lòng những bài này.  Nhưng đọc lên những bài Thánh Vịnh đã không làm mất đi sự sáng tạo của Người.  Thay vào đó, Chúa Giêsu đã tự sáng tác một bài Thánh Vịnh mà Người đã truyền dạy cho chúng ta.  Đó là Kinh Lạy Cha.  Đời sống của Người là một lời cầu nguyện liên tục:  “Ta luôn sẽ làm những gì Chúa Cha muốn Ta làm!” (Ga 5:19-30).  Đối với Người, đã ứng nghiệm với điều Thánh Vịnh nói:  “Con chỉ biết cầu nguyện!” (Tv 109:4).

6.  Cầu Nguyện cùng Thánh Vịnh: 
Thánh Vịnh 146 (145):  Hình ảnh của Thiên Chúa chúng ta

Allêluia!  Ca tụng CHÚA đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng CHÚA,
sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.

Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ
và cậy trông CHÚA, Thiên Chúa họ thờ.
Người là Đấng tạo thành trời đất với biển khơi
cùng muôn loài trong đó.
Người là Đấng giữ lòng trung tín mãi muôn đời,
xử công minh cho người bị áp bức,
ban lương thực cho kẻ đói ăn.
CHÚA giải phóng những ai tù tội,

CHÚA mở mắt cho kẻ mù loà.
CHÚA cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,
CHÚA phù trợ những khách ngoại kiều,
Người nâng đỡ cô nhi quả phụ.

CHÚA yêu chuộng những người công chính,
nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân.
CHÚA nắm giữ vương quyền muôn muôn thuở,
Xi-on hỡi, Chúa Trời ngươi hiển trị ngàn đời.

7.  Lời nguyện kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét