01/11/2016
CÁC THÁNH NAM
NỮ.
Lễ trọng. Lễ Họ.
Cầu cho giáo dân.
* Đại lễ kính toàn thể các thánh nam nữ hôm
nay cho ta chiêm ngưỡng đám đông hằng hà sa số những người đã được Chúa Kitô cứu
chuộc, đồng thời cũng cho ta thấy trước tương lai chúng ta đang hướng tới.
Nhưng lễ này còn giúp ta ý thức mối dây liên đới giữa ta với các anh chị em đã
đi trước vào thế giới vô hình. Nay, họ đang được ở bên Thiên Chúa và đang chuyển
cầu cho chúng ta. Họ là sức mạnh nâng đỡ cuộc đời chúng ta.
Bài Ðọc I: Kh 7, 2-4, 9-14
"Tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ
thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan đã nhìn thấy một thiên thần khác từ phía mặt trời mọc
đi lên, tay cầm ấn Thiên Chúa hằng sống, và lớn tiếng kêu gọi bốn thiên thần được
lệnh tàn phá đất và biển mà rằng: "Chớ có tàn phá đất, biển và cây cối trước
khi ta đóng ấn trên trán những tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta". Và tôi đã
nghe biết số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi
chi tộc Israel.
Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được,
họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước
ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá
thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: "Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Ðấng
ngự trên ngai vàng, và Con Chiên".
Rồi tất cả các thiên thần đến đứng chung quanh ngai vàng, và các
trưởng lão cùng bốn con vật sấp mình xuống trước ngai mà thờ lạy Thiên Chúa rằng:
"Amen! Chúc tụng, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ, vinh dự, uy quyền và dũng
lực cho Thiên Chúa chúng tôi muôn đời. Amen". Rồi một trong các trưởng lão
lên tiếng hỏi rằng: "Những người mặc áo trắng này là ai vậy? Và họ từ đâu
mà đến?" Tôi đáp lại rằng: "Thưa ngài, hẳn ngài đã rõ". Và người
bảo tôi rằng: "Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và
tẩy áo trắng trong máu Con Chiên".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Ðáp: Lạy Chúa, này là dòng dõi của những kẻ tìm Chúa (c. 6a).
Xướng: 1) Trái đất và muôn loài trên mặt đất là của Chúa, hoàn cầu
và muôn vật trên địa cầu. Vì chưng Chúa đã xây dựng nền móng trái đất trên biển
cả, và Người đã tạo dựng nó trên các sông ngòi. - Ðáp.
2) Ai sẽ được trèo lên núi Chúa? Ai sẽ được dừng bước trong
thánh điện? Ðó là người có bàn tay vô tội và tâm hồn trong sạch, không để lòng
xuôi theo sự giả trá. - Ðáp.
3) Người đó sẽ hưởng phúc lành của Chúa và lượng từ bi của Chúa,
Ðấng giải thoát họ. Ðấy là dòng dõi của những kẻ tìm Người, những kẻ tìm tôn nhan
Thiên Chúa của Giacóp. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Ga 3, 1-3
"Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy".
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, các con hãy coi: Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối
với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và thực sự là
thế. Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người.
Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao
thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống
như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy. Và bất cứ ai đặt hy vọng
nơi Người, thì tự thánh hoá mình cũng như Người là Ðấng Thánh.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mc 11, 28
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Tất cả hãy đến với Ta, hỡi
những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các con". -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 5, 1-12a
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và
lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là
của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. -
Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát
điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người,
vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được
nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là
con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời
là của họ.
"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con,
và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng
hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Giặt áo mình
trong Máu Chiên Con
Việc dùng một ngày để kính nhớ chung mọi thánh đã khởi sự từ thế
kỷ IV. Dĩ nhiên thời đó người ta mới chỉ nói đến các thánh tử đạo. Thoạt đầu
người ta mừng vào ngày Chúa nhật đầu tiên sau lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống,
coi đó là kết quả của việc các Tông đồ được sai đi giảng đạo. Ở Rôma ngày lễ ấy
lúc đầu được cử hành vào ngày 13/5 - ngày cung hiến điện Pantheon, tức là điện
chư thần của dân ngoại, thành một vương cung thánh đường - Thay vào chỗ các tượng
thần của các dân tộc mà đoàn quân chiến thắng Lamã đã đem về Rôma, người ta kiệu
xương các Tử đạo về đó để tôn kính. Ðiện Pantheon, trở thành nhà thờ các Tử đạo
và ngày thay đổi ấy trở thành ngày lễ các Tử đạo. Về sau vì lý do hành hương muốn
tạo điều kiện dễ dàng cho các khách ở xa, Rôma đã dời lễ đó vào ngày 1 tháng
11. Và thay vì kính riêng các Tử đạo, người ta mừng chung tất cả các thánh nam
nữ.
Dù sao, ngày nay mừng lễ này vào khoảng cuối năm Phụng vụ cũng
là điều hợp lý: các thánh không phải là kết quả của Lịch sử ơn cứu độ sao? Kế
hoạch của Thiên Chúa khởi sự từ mùa Vọng phải đưa chúng ta tới thiên cung đầy
các thánh, để chúng ta tham dự Tiệc cưới của Chiên Con... Và như vậy, việc chọn
sách Khải huyền làm bài đọc I hôm nay cũng là điều dễ hiểu.
A. Thế Giới Của Các Thánh
Yoan được thị kiến. Ông thấy trời mở ra. Và này ông thấy bốn thần
sứ đang ở tứ phương giữa bốn luồng gió lại; chờ lệnh thả ra quét sạch mặt đất.
Nhưng rồi lại có một thần sứ khác hiện ra ở phương Ðông, tay cầm ấn ngọc của
Thiên Chúa, bảo bốn thần sứ kia rằng: không được thả gió ra cho tới khi người
đóng ấn xong vào trán các kẻ được chọn.
Bằng những lời mạc khải trên, Yoan ngụ ý muốn nói rằng: mặt đất
này có ngày sẽ bị quét sạch. Nhưng trước khi ngày ấy xảy đến, thần sứ của Chúa
sẽ làm việc để chọn những người được cứu độ. Người sẽ ghi ấn tích của Thiên
Chúa trên trán họ như ngày xưa người ta quen đóng ấn trên trán những người nô lệ.
Và như thế, những người được chọn chính là những người tôi tớ của Thiên Chúa.
Còn ấn tín kia, chúng ta có thể hiểu là ấn tín của phép Rửa làm cho người ta
thuộc về Thiên Chúa và trở nên Dân Thánh của Người. Thế nên, cho đến ngày chung
thẩm, lịch sử loài người chỉ có một nhiệm vụ: đào tạo những tôi tớ Thiên Chúa,
tập họp những kẻ được chọn hoàn thành số các thánh nam nữ ở trên trời.
Theo Yoan, con số này lớn lắm, nên phải là con số
"tròn", con số lý tưởng. Ông tựa vào số 12 chi tộc Israel ngày mới
thành lập nơi sa mạc. Ông nhân con số đó với 1,000 để bảo mỗi chi tộc kia phải
lớn thêm mãi hầu phủ đầy mặt đất. 12 chi tộc phát triển như vậy để làm thành
Dân Chúa, đến nỗi vào ngày chung thẩm, ngày có Tiệc cưới Chiên Con, không ai
còn có sức đếm được nữa. Khi ấy sẽ đủ mọi dân tộc, đủ mọi tiếng nói, đủ mọi nền
văn minh. Thế giới các thánh thật đông đúc, thật phong phú, thật ngoạn mục! Tất
cả đều mặc áo trắng dài, áo của thầy tư tế, chứng tỏ toàn Dân Thánh của Chúa là
dân tư tế, dân linh mục. Tay họ cầm cành vạn tuế. Có lẽ không phải là cành lá
chiến thắng và tử đạo đâu; nhưng là cành lá của dân Do Thái khi dự lễ "Trại".
Chúng ta biết dân Israel vẫn cử hành lễ "Trại" vào mùa
thu, khi gặt hái xong. Thoạt đầu đó là một lễ nông nghiệp. Người ta đóng trại bằng
những cành cây ở ngoài đồng nho khi nho chín để canh giữ và làm việc. Ðời sống
bất thường ấy, ở giữa một khung cảnh thiên nhiên và trong niềm hân hoan hái
trái nho chính, làm cho người ta sung sướng như trong ngày lễ. Về sau, gán cho
ngày ấy một ý nghĩa tôn giáo và cử hành trong đền thờ, người ta nhớ tới thời
Dân Chúa đã "cắm trại" nơi sa mạc... Và thế là lễ ấy trở thành
"lễ tập họp Dân"; Dân cầm lá đến, tung hô hát xướng khi kiệu nước từ
suối Siloam lên đổ trên tế vật đặt trên bàn thờ. Chính Ðức Yêsu đã tham dự lễ
này. Và Người tuyên bố mình có nước hằng sống của Thánh Thần để ban cho kẻ tin
Người. Và câu chúc tụng trong bài Khải huyền hôm nay cũng lấy lại lời tung hô
trong lễ Trại. Như vậy rõ ràng thánh Yoan muốn dùng hình ảnh lễ này để gợi lên
cộng đoàn phụng vụ các thánh ở trên trời.
Các người là Dân đông đảo của Thiên Chúa. Là dân toàn thiện,
phát xuất từ 12 chi tộc Israel nhưng sẽ bao trùm toàn thể mọi dân tộc. Ðó là
Dân đã được đóng ấn bằng phép Rửa, và là Dân tư tế. Cộng đồng Dân thánh ấy được
triệu tập đến trước tòa Chúa có Chiên Con đứng đàng trước, để cử hành phụng vụ
tạ ơn, tung hô các công cuộc kỳ diệu của Thiên Chúa và của Chiên Con.
Lập tức các thiên thần, các trưởng lão và bốn con vật đã đứng sẵn
ở chung quanh ngai tòa Thiên Chúa, liền sấp mình thờ lạy. Thánh Yoan không muốn
nói dài về các chi tiết này. Người ta có thể đưa ra những ý kiến khác nhau về
các nhân vật kia. Nhưng tất cả đều đồng ý rằng ở đây thánh Yoan chỉ muốn nói đến
thụ tạo, tức là thế giới tạo vật có thiên thần, loài người và động vật. Và ý của
người là: tuy tạo vật vẫn thờ phượng Chúa, nhưng phải chờ đến khi có phụng vụ của
các thánh và của Dân thánh Chúa, thì những lời tung hô thờ lạy của tạo vật mới
được hoàn toàn. Tạo vật đang chờ đợi ngày xuất hiện của con cái Thiên Chúa để
niềm hân hoan của chúng được trọn vẹn. "Phụng vụ tự nhiên" phải chờ đợi
phụng vụ của các thánh để được phong phú. Thế giới các thánh sẽ hoàn thành thế
giới tạo vật vậy.
Nhưng làm thế nào để có thế giới các thánh đó? Các thánh đó được
đào tạo từ đâu? Các người từ đâu đến? Thưa họ đều đến từ đau khổ lớn lao, từ mặt
đất nhiều thử thách. Họ đã giặt áo cho trắng ở trong Máu Chiên, tức là đã phải
đi qua mầu nhiệm thập giá Ðức Kitô để có áo ân sủng và tư tế. Chính cuộc sống kết
hợp với Ðức Kitô đã tôi luyện họ thành những tâm hồn trong trắng thánh thiện.
Và như vậy họ thật là các Tử đạo và là các thánh mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Phụng vụ không thể dùng đoạn Thánh Kinh nào thích hợp hơn để giúp chúng ta hiểu
về thế giới các thánh. Nhưng khi dừng lại ở điểm nói về nguồn gốc của các ngài,
phụng vụ lại muốn đưa chúng ta trở về thế giới ở mặt đất này, để xem chúng ta
phải làm gì hầu mai ngày đạt tới quê hương các thánh.
B. Tin Mừng Cho Những Người Muốn Vào Nước Trời
Chúng ta không gặp khó khăn nào khi muốn biết con đường dẫn đến
thế giới các thánh. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Ðức Yêsu đang dạy dỗ
những ai muốn vào Nước Trời. Người trèo lên núi để có thể đứng trên nơi cao nói
với tất cả các dân tộc và các thời đại. Các môn đồ ngồi ở gần Người để cho mọi
người thấy phải trở thành môn đệ. Người lên tiếng một cách trịnh trọng khi dùng
lối văn khôn ngoan của thời bấy giờ, bắt đầu bằng hai chữ "phúc thay"
hay "phúc cho", để nói rằng ai muốn được hạnh phúc trường cửu phải
nghe theo lời Người.
Rồi theo thánh Matthêô, Người kể ra tám hạng người hạnh phúc, vì
câu hạnh phúc thứ chín cũng chỉ nói về hạng người bị bắt bớ như câu thứ tám,
nhưng ở thể văn cụ thể và trực tiếp hơn. Ðứng đầu tám hạng người được phúc là
những người nghèo khó, mà Matthêô gọi là những người có lòng nghèo khó hoặc
nghèo khó thật ở trong lòng hoặc có tinh thần nghèo khó. Người muốn chúng ta hiểu
rằng: đây không phải là vấn đề nghèo khó về của cải, nhưng là nghèo khó tại
lòng mình và nơi tâm hồn, thấy mình cô thế cô phương, không biết cậy dựa vào
đâu trong cuộc đời đầy những thiếu thốn bất lực và hiểm nguy về mọi mặt, đến nỗi
chỉ còn biết trông cậy vào ơn Chúa cứu độ. Chính họ là những người khao khát
Thiên Chúa hơn hết, vì họ thấy mình nghèo nàn, hèn mọn hoàn toàn. Họ không có
gì để tựa hoặc không thấy gì đáng tựa trong cuộc đời đầy phấn đấu nên đặt tất cả
tin tưởng vào Chúa. Họ là những người nghèo khó ở trước mặt Chúa. Họ là
"dân nghèo của Yavê" như từ ngữ Kinh Thánh thường nói.
Tổ phụ của họ là Abraham, một người đã từ bỏ tất cả những sự
đáng cậy dựa ở đời này để trở thành con người vô gia cư, vô địa táng, lang
thang hết nơi này qua nơi khác, gặp rất nhiều khó khăn phấn đấu, nhưng đặt tất
cả niềm tin vào Lời Chúa và sống từng ngày, từng phút tựa vào sự quan phòng của
Chúa. Chính ông đã được hứa ban có đất làm gia nghiệp, có xứ sở làm quê hương,
thì những người nghèo khó của Yavê cũng sẽ được Nước Trời làm sản nghiệp.
Chúng ta tưởng danh từ Nước Trời không cụ thể như hứa địa đã được
dành cho Abraham. Nhưng nếu chúng ta biết rằng quan niệm Nước Trời đã bắt nguồn
từ quan niệm Hứa địa và đã được các thế hệ tiên tri làm thêm phong phú, thì
chúng ta phải hiểu rằng trong quan niệm Nước Trời có tất cả mọi lời hứa dành
cho Abraham và cho tất cả Dân Chúa trải qua mọi thời đại. Nước Trời là danh từ
tổng quát gồm hết thảy mọi sự lành mà Thiên Chúa có thể ban cho loài người và
cuối cùng là chính sự sống và hạnh phúc của Thiên Chúa. Nếu thế thì phúc thật
thứ I này đã bao hàm 7 mối phúc thật sau, khiến chúng ta có thể hiểu một cách
đơn giản như thế này:
* Con người hiền lành ở phúc thứ II là con người khó nghèo bình
tĩnh trước lối sống phù vân của người khác vì vẫn tin tưởng vào Chúa. Họ nghèo
nhưng vẫn êm ái đang khi kẻ giàu lại hay nổi nóng. Họ được hứa sẽ có đất làm cơ
nghiệp. Như vậy họ thật là người nghèo khó.
* Con người ưu phiền khóc lóc cũng vậy. Họ được hứa sẽ được an ủi,
khiến chúng ta phải khẳng định họ là thành phần những người đang chờ đợi sự
"an ủi của Israel". Ðó là những người nghèo bị bóc lột trong dân, những
người thấp cổ bé họng bị oan ức, là toàn Dân Chúa trong cảnh lưu đày, là những
người đang trông chờ ơn cứu độ. Nói tắt họ cũng là những người nghèo của Ðức
Yavê.
* Con người đói khát mà Ðức Yêsu bảo sẽ được no đầy, thoạt tiên
là con người thiếu ăn thiếu mặc. Họ sẽ được no đầy ở trong bàn tiệc Nước Trời.
Và như vậy họ cũng là những con người nghèo khó. Nhưng khi thánh Matthêô viết bản
Phúc Âm này, người thấy Chúa Yêsu đã mở tiệc trong Hội Thánh rồi. Kẻ muốn được
no đầy trong bàn tiệc của Chúa phải có sự thánh thiện, công chính. Do đó thánh
Matthêô đã thêm hai chữ "công chính" vào sau chữ "đói khát"
để hàm ý rằng người nghèo của Ðức Yavê là người phải lấy việc đói khát sự công
chính thánh thiện làm cơ sở. Nhưng dù đói khát thứ gì người ta cũng là thành phần
nghèo khó.
* Và khi có kinh nghiệm về nếp sống khó nghèo, người ta mới dễ
có lòng thương xót; và có xót thương kẻ khác người ta mới được Chúa xót thương.
Phúc thật thứ V vì thế cũng chỉ dành cho người có căn bản nghèo khó.
* Chúng ta biết Do thái giáo ngày xưa chú trọng nhiều đến vấn đề
sạch và không sạch. Nhưng ai chú trọng đến vấn đề ấy, nếu không phải là hạng
giàu sang, trưởng giả; như tục ngữ viết: phú quý sinh lễ nghĩa. Các tiên tri cực
lực phản đối thứ lễ nghĩa này và hô hào phải có sự trong sạch đạo đức trong lòng
mới được xem thấy Chúa, tức là được vào Ðền thờ để xem thấy Người, tức là được
vào Nước Chúa vậy. Do đó câu phúc thật thứ VI cũng phản đối kẻ giàu sang, và đề
cao kẻ khó nghèo.
* Người nghèo khó lại là người hay bị bóc lội, bắt bớ; nên phúc
thật thứ VIII cũng dành cho họ. Thánh Matthêô trong cả bài Tin Mừng hôm nay muốn
nhấn mạnh đến tính cách tinh thần đạo đức của người nghèo khó, nên ở đây người
cũng nói đến kẻ bị bắt bớ vì sự công chính, tức là vì Chúa, vì Ðức Kitô và giáo
lý của Người. Nhưng ai bị bóc lột một cách bất công mà không phải là nạn nhân của
sức mạnh thù địch với Thiên Chúa là Ðấng công chính? Họ trở nên nghèo khó; và
như vậy họ được hứa ban Nước Trời.
C. Nối Liền Ðất Với Trời
Chúng ta hết thảy đều là những thành phần nghèo khó. Chúa Yêsu
đã rao giảng Tin Mừng của Người cho chúng ta. Người hứa ban các phúc thật cho
chúng ta. Chúng ta cứ ngồi yên như thế này rồi sẽ được hạnh phúc sao?
Chắc chắn không thể như vậy! Thế nên thánh Matthêô đã muốn giúp
đỡ các tín hữu là những thành phần khó nghèo biết sống thân phận của mình thế
nào cho được phúc. Người thêm chữ "tinh thần" vào câu "phúc cho
người nghèo khó" và viết: "phúc cho người có tinh thần (hay có lòng)
nghèo khó" để nhấn mạnh rằng người ta phải có tinh thần những người nghèo
của Ðức Yavê. Ðó là tinh thần của những người thiếu thốn, đau khổ, bị bắt bớ mà
vẫn không mất niềm tin, không trở nên gây hấn, không bớt tình người. Ngược lại,
vì tin tưởng ở Chúa và tuân giữ Lời Người, họ luôn hòa dịu, xót thương và gieo
rắc bình an. Thái độ nhân đạo hoàn toàn của họ tựa vào niềm tin đạo đức sâu xa.
Nó đòi hỏi một nhân cách mạnh mẽ. Và vì thế nó cũng chỉ có thể gặp được ở nơi
những tâm hồn cương nghị, không bao giờ chịu khuất phục trước bất công bóc lột.
Cứ xem các tiên tri của Chúa thì rõ. Các ngài thuộc thành phần
những người nghèo của Ðức Yavê hơn ai hết. Nhưng ai mạnh mẽ chống bất công bóc
lột bằng các ngài. Ngay lúc chết, và chính cái chết của các ngài cũng còn nói
lên tinh thần ấy. Và đó là tinh thần của những người nghèo của Ðức Yavê, tinh
thần của những người đã thấm đầy Thần trí của Thiên Chúa. Cương quyết tiêu diệt
sự dữ cho đến cùng, mặc dầu biết mình yếu đuối nhưng hoàn toàn tin tưởng vào
Chúa, đó là tinh thần nghèo khó Phúc Âm. Ði vào con đường ấy là giặt áo mình
trong Máu Chiên Con, tức là phó sự sống mình trong mầu nhiệm phấn đấu của Chúa
Kitô, và như vậy sẽ đạt tới thế giới các thánh mà chúng ta mừng lễ hôm nay.
Sống cuộc đời như chúng ta vừa nói có thể không xuất sắc. Nhưng
lời thư Yoan hôm nay viết khi nào đến lúc tỏ hiện thì bấy giờ mới rõ được hết nếp
sống của con cái Chúa. Bấy giờ mới thấy hàng ngũ những người nghèo của Ðức Yavê
như là hàng ngũ những chiến sĩ vô danh. Hôm nay Hội Thánh tưởng niệm họ và kêu
gọi chúng ta hãy nối liền đất với trời bằng nếp sống theo tinh thần nghèo khó
Phúc Âm.
Chúng ta hãy tham dự thánh lễ này như được vây quanh bởi hàng
ngũ đông đảo các thánh. Các ngài không những hiện diện với chúng ta hôm nay ở
nơi bàn thờ này, nhưng còn muốn ở bên chúng ta hầu thôi thúc chúng ta hãy cùng
với các ngài tham dự vào Tiệc của Chiên Con. Các ngài đã giặt áo mình trong Máu
Chiên Con, tức là đã đi vào đường lối của Ðức Kitô tử nạn - phục sinh, thể hiện
hình ảnh người tôi tớ khó nghèo của Thiên Chúa. Các ngài khuyến khích chúng ta
luôn giữ tinh thần nghèo khó nhưng phải phấn đấu không ngừng chống sự dữ nơi đời
sống của mình. Có như vậy áo của chúng ta mới được giặt trong Máu Chiên Con và
trở nên trắng sạch hầu được nhập đoàn cùng các thánh nam nữ trong Nước Trời
vinh phúc.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi
Ngày
Lễ Các Thánh Nam Nữ
Bài đọc: Rev
7:2-4, 9-14; I Jn 3:1-3; Mt 5:1-12
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bát Phúc
là con đường nên thánh.
- Có một chú sư tử con, vì mẹ mất sớm, nên ở chung với một đàn
dê. Chú thích nghi với hòan cảnh và sinh sống như một con dê. Cho tới một hôm,
Chúa Sơn Lâm đi ngang qua cánh đồng; bầy dê bỏ chạy tán lọan, chú sư tử con
cũng cắm đầu chạy theo chúng. Chúa Sơn Lâm lấy làm lạ về hành động của chú sư tử
con, nên vội chạy theo bắt lấy. Khi bắt kịp chú, Chúa Sơn Lâm đưa chú sư tử con
ra bờ suối và bảo nó: Hãy nhìn xuống suối coi, mày cũng là con của Chúa Sơn
Lâm, tại sao mày hốt hỏang bỏ chạy như những con dê nhút nhát đó?
- Chúng ta đã được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa,
và là người nhà của tất cả các thánh chúng ta mừng hôm nay. Con nhà tông chẳng
giống lông cũng giống cánh. Đây là dịp thuận tiện để chúng ta xét mình soi
gương xem chúng ta đã nên giống hình ảnh Thiên Chúa và các thánh chưa. Các Bài
đọc hôm nay giúp chúng ta xét mình.
- Bài đọc I nhắc nhở chúng ta: Các thánh là những người trung
thành với Thiên Chúa sau khi đã trải qua những cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt
sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Bài đọc II nhắc nhở chúng ta ơn
gọi làm con Chúa mà chúng ta đã lãnh nhận trong Ngày Rửa Tội. Chúng ta đã làm
vinh danh Cha thế nào trong cuộc sống? Phúc Âm dạy chúng ta con đường chắc chắn
để nên thánh: sống theo Bát Phúc.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn
thử thách lớn lao.
1.1/ Thị kiến thứ nhất: Những người được đóng ấn. Trước
khi các thiên thần tàn phá thế giới, các tôi tớ của Thiên Chúa còn sống được
đóng ấn. Thị kiến tường thuật một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn,
thuộc mọi chi tộc con cái Israel. Đây chỉ là con số biểu tượng, không phải chỉ
có bấy nhiêu người được cứu thóat.
1.2/ Thị kiến thứ hai: Một đoàn người thật đông không tài
nào đếm nổi. Họ thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng
trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế.
Hai điều những người này tuyên xưng:
(1) Thiên Chúa Cha: "Chính Thiên Chúa chúng ta là Đấng ngự
trên ngai.”
(2) Con Chiên là Đức Giêsu Kitô: “Chính Con Chiên đã cứu độ
chúng ta.”
Tất cả các thiên thần đều đứng chung quanh ngai, chung quanh các
Kỳ-mục và bốn Con Vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy
Thiên Chúa mà tung hô rằng: "A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời
chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh,
đến muôn thuở muôn đời! A-men!"
1.3/ Các Thánh là đòan người áo trắng: Một trong
các Kỳ-mục lên tiếng hỏi tôi: "Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ
từ đâu đến?" Tôi trả lời: "Thưa Ngài, Ngài biết đó." Vị ấy bảo
tôi: "Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ
đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.” Các thánh là những người
đã sống một cuộc đời như Chúa dạy. Họ đã từ bỏ lối sống ích kỷ của bản thân, hy
sinh chấp nhận mọi gian khổ ngay cả cái chết để làm chứng cho Thiên Chúa.
2/ Bài đọc II:
(1) Ơn gọi làm con Thiên Chúa: Thiên Chúa đã yêu thương thế
gian đến nỗi đã ban Người Con Một của mình, để những ai tin vào Người Con thì
được làm con Thiên Chúa (Jn 1:13), và được ơn Cứu Độ (Jn 3:16). Chúng ta không
phải là con của thế gian: “Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế
gian đã không biết Người.”
(2) Phần thưởng của những người con Chúa: Đã là con thì cũng là
những người thừa kế gia tài. Phần thưởng cho những người con Chúa là cuộc sống
đời đời mai sau và mọi vinh quang mà Đức Kitô được thưởng từ Thiên Chúa Cha.
“Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế
nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng
ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.”
(3) Bổn phận của những người con Chúa: Nếu đã có quyền thì cũng phải
chu tòan bổn phận. Thánh Gioan tuyên bố: “Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức
Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch.”
3/ Phúc Âm: Bát Phúc là con đường nên thánh.
Chúng ta sẽ dùng Bát Phúc như tiêu chuẩn để so sánh 3 lối sống:
của Chúa Giêsu, của các thánh, và của theo thế gian.
(1) “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.”
Khi được các môn đệ hỏi: “Thưa Thầy! Thầy ở đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Cáo có
hang, chim có tổ, Con Người không có chỗ dựa đầu.” Thánh Phanxicô Khó Khăn, mặc
dù là con một thương gia giàu có ở Assissi, noi gương Chúa Giêsu, tuột quần áo
trả lại cho cha để đi theo Đức Kitô sống cuộc đời khó nghèo. Trước mắt thế gian
đó là điều dại dột, vì ai cũng muốn sống sung túc giấu có.
(2) “Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.”
Người xưa dạy: “Mắt đền mắt, răng đền răng; còn Ta, Ta dạy: Ai tát má bên này
thì đưa cả má bên kia nữa.” Trong Cuộc Thương Khó, Chúa đã trở nên như con
chiên hiền lành bị đem đi giết. Thánh Phanxicô Salêsiô, mặc dù mang bản tính
nóng như lửa trong người, đã noi gương Đức Kitô trở thành người hiền lành và
khiêm nhường. Trước mắt thế gian, hiền lành đồng nghĩa với khù khờ để người
khác lợi dụng.
(3) “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.” Trong
Vườn Cây Dầu, Đức Kitô đau buồn kêu lên: “Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết;
anh em hãy tỉnh thức cầu nguyện với Thầy.” Mẹ Thánh Augustin, Monica, cả cuộc đời
đổ bao nhiêu nước mắt khóc thương chồng và con. Sau cùng, Chúa đã cho chồng trở
lại đạo trên giường bệnh, Chúa đã cho Augustin ăn năn trở lại và làm thánh. Người
đời cho những ai muốn chịu đau khổ là điên, vì ai cũng tìm các trốn tránh các
đau khổ cả.
(4) “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được
Thiên Chúa cho thoả lòng.” Chúa Giêsu thẳng thắn tuyên bố: “Ta đến từ Trời,
không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta.” Cả cuộc đời của
Ngài là cuộc đời làm theo ý Thiên Chúa. Thánh Thomas More, khi bị bắt phải nói
dối đã khẳng khái tuyên bố: “Chết thì chết chứ không nói sai thành đúng.” Người
đời cho sống công chính là “sĩ diện hão,” vì ai cũng phải sống luồn lách quanh
co để đạt những gì mình muốn.
(5) “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót
thương.” Chúa Giêsu xót xa khi nhìn các bệnh nhân, và Ngài chữa lành họ. Ngài
thương dân thành Giêrusalem, muốn che chở họ như gà mẹ che chở đàn con dưới
cánh, nhưng họ đã khước từ tình yêu của Ngài. Thánh Martinô đã thương bệnh nhân
đến độ đem về phòng cho nằm trên giường mình mà chăm sóc. Mẹ Têrêxa thành
Calcutta đã dành cả cuộc đời để săn sóc người nghèo. Thế gian cổ võ việc phải
lo cho bản thân mình trước hết với câu chữa mình: “Tôi thương xót người rồi ai
thương tôi?”
(6) “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy
Thiên Chúa.” Chúa Giêsu đã thách thức các đối phương trong Cuộc Thương Khó: “Ai
trong các ngươi có thể buộc Ta về tội gì?” Thánh Maria Goretti đã thề chết chứ
không để người anh họ hãm hiếp. Giới trẻ hôm nay cho truyện ăn ở trước hôn nhân
là chuyện bình thường, và chế nhạo những trẻ nào giữ mình trinh khiết là
“homeboy, homegirl.” Mấy người mẹ hôm nay dám khuyên con: “Mẹ chẳng thà thấy
con chết trước mặt mẹ hơn là phạm tội trọng mất lòng Thiên Chúa!”
(7) “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con
Thiên Chúa.” Chúa Giêsu đã dùng cái chết của Ngài trên Thập Giá để hòa giải người
Do-Thái và Dân Ngọai nên một; đồng thời hòa giải con người với Thiên Chúa.
Thánh Bernadino thành Sienna cũng noi gương Chúa làm cho con người hòa giải với
nhau. Thế gian cho thái độ tha thứ thuận hòa là ngu dốt vì để người khác lợi dụng
mình; được đàng chân họ sẽ leo lên cả đầu! Hậu quả là nạn ly thân, ly dị, và
chiến tranh dưới mọi hình thức lan tràn.
(8) “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời
là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống
đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở
trên trời thật lớn lao.” Chúa đi trước vác Thập Giá lên đồi Canvê để chết thay
cho con người. Biết bao các thánh tử đạo thuộc mọi thời đại cũng anh dũng tiến
lên hy sinh vì tình yêu; trong số đó có 118 vị tử đạo của quê hương Việt-Nam
chúng ta. Thánh Anrê Phú Yên, trước khi chết, đã khuyên giáo dân: “Chúng ta phải
lấy tình yêu đáp trả lại tình yêu và lấy mạng sống đáp trả lại mạng sống.”
Trong khi đó, cũng có biết bao người phản bội và không dám đổ máu đào để làm chứng
cho Chúa. Họ vịn cớ: chỉ cần tin Chúa trong lòng là đủ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Đau khổ trong cuộc đời không thể thiếu để thanh luyện chúng ta
như lửa thử vàng. Chỉ khi nào biết chấp nhận gian khổ để làm chứng cho Thiên
Chúa, chúng ta mới chứng tỏ đức tin và tình yêu của chúng ta dành cho Ngài.
- Trở lại câu truyện chú sư tử con, chúng ta là thiên tử, là con
cái Chúa. Hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình; đừng chốn chui chốn nhủi như
những con của bóng tối, của thế gian và ma quỉ. Chúng ta được dựng nên giống
hình ảnh Thiên Chúa, và cuộc sống thánh thiện làm chúng ta càng ngày càng trở
nên giống Chúa hơn.
- Ơn gọi nên thánh là của tất cả mọi người. Bát Phúc là con đường
nên thánh tuyệt hảo. Mọi người phải cố gắng sống tất cả Bát Phúc.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
01/11/16 THỨ BA TUẦN 31
TN
Các Thánh Nam Nữ
Mt 5,1-12
Các Thánh Nam Nữ
Mt 5,1-12
Suy niệm: Người ta rất thiếu công bằng, nếu không muốn
nói có ác ý, khi chỉ thông tin một vài gương xấu của một số phần tử trong Giáo
Hội nhằm bôi xấu Giáo Hội. Nói cách khác, người ta chú ý tiếng ồn do một vài
gương xấu mà nhắm mắt làm ngơ trước sức sống đang vươn lên của toàn thể Giáo
Hội giữa thế giới thế tục này. Sách Khải Huyền cho chúng ta cái nhìn quân bình
khi loan báo con số các thánh “không thể nào đếm nổi, thuộc
mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9). Số các thánh đó
không chỉ gồm những vị được đưa vào sổ bộ, mà gồm những người thiện tâm và
những người lành bí tích Rửa Tội mọi thời, từ Cựu Ước đến Tân Ước, từ các chứng
nhân Ki-tô hữu tiên khởi và cho đến hôm nay. Đó là những vị đã “trải
qua cơn thử thách lớn lao… giặt sạch và tẩy áo mình trong máu Con Chiên”
(Kh 7,14), là những vị theo Chúa đến mức bỏ mình, vác thập giá mà theo Chúa
chẳng khác gì số phận của hạt lúa mì rơi xuống đất và thối đi, nhưng sẽ trổ
sinh nhiều bông hạt trong cánh đồng truyền giáo. Các ngài hớn hở vui mừng dám
sống như thế chỉ vì khám phá phần thưởng lớn lao các ngài lãnh nhận là chính
Thiên Chúa. Lẽ nào người ta không thấy con số đông đảo đáng khâm phục này?
Mời Bạn: Thánh
giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã khuyên nhủ chúng ta đừng sợ sống thánh. Sống
thánh là ơn gọi của chúng ta. Vậy, đời sống của bạn hôm nay thế nào?
Sống Lời Chúa: Xin
ơn sống thánh hằng ngày.
Cầu nguyện: Đọc kinh Năm Thánh Lòng Thương Xót.
NƯỚC
TRỜI LÀ CỦA HỌ
Nên thánh là thuộc trọn về Chúa và về anh em, là
để Chúa dần dần chiếm lấy mọi chỗ của đời mình.
Suy niệm:
Nếu chúng ta được lên
trời để thăm các thánh,
hẳn chúng ta sẽ không
khỏi ngỡ ngàng trước sự đa dạng.
Các thánh không phải chỉ
là những vị được tôn phong,
mà là tất cả những ai
đang hưởng hạnh phúc trên trời.
Các thánh thật khác nhau
về nhiều mặt:
giới tính, tuổi tác, màu
da, tiếng nói, nghề nghiệp,
hoàn cảnh, thời đại, bậc
sống, khả năng, tính tình...
Có người không biết viết
như thánh nữ Catarina Siêna.
Có người đậu tiến sĩ
triết hạng tối ưu như thánh Edith Stein.
Có người làm bao phép lạ
phi thường như ngôn sứ Êlia.
Có người sống âm thầm như
chị Têrêsa nhỏ.
Nói chung chẳng gì có thể
ngăn cản chúng ta nên thánh,
vì Thiên Chúa muốn mọi
người nên thánh chẳng trừ ai.
Các mối phúc là con đường
nên thánh.
Con đường này chính Ðức
Kitô đã đi và mời ta cùng đi.
Ngài mời ta có tâm hồn
nghèo khó, hiền lành,
nghĩa là hoàn toàn tín
thác vào một mình Thiên Chúa,
có lòng khát khao sự công
chính, chỉ mong làm trọn ý Ngài.
Trong tương quan với tha
nhân, Ðức Kitô mời ta
có lòng thương xót, biết
đau nỗi đau của người khác,
có tâm hồn trong sạch,
nghĩa là sống ngay thẳng, chân thành,
có tinh thần xây dựng hòa
bình và công bằng xã hội,
nghĩa là chăm lo phát
triển toàn diện từng người và mọi người.
Sống các mối phúc trên là
chấp nhận mối phúc bị bách hại.
Mỗi vị thánh đều sống nổi
bật trong một số mối phúc.
Họ đã nếm phần nào hạnh
phúc từ đời này
trước khi hưởng hạnh phúc
trọn vẹn bền vững trên trời.
Chúng ta thường nghĩ nên
thánh là chuyện cao siêu
dành cho một thiểu số hết
sức đặc biệt.
Thật ra mọi Kitô hữu đều
được mời gọi nên thánh.
“Các con hãy nên trọn
lành như Cha trên trời.”
Chỉ Thiên Chúa mới là
nguồn mọi sự thánh thiện.
Ngài mời chúng ta chia sẻ
sự thánh thiện của Ngài.
Nên thánh là đáp trả lời
mời đó.
Khi chiêm ngắm các thánh,
ta có thể hiểu nên thánh là gì.
Nên thánh là để cho tình
yêu chi phối toàn bộ cuộc sống,
là ra khỏi cái tôi hẹp
hòi của mình
để sống hết tình cho
Thiên Chúa và tha nhân.
Nên thánh là luôn lắng
nghe tiếng Chúa
và trung thành đáp lại
trong giây phút hiện tại.
Nên thánh là yêu mến cuộc
sống mà Chúa tặng trao,
là để cho Chúa yêu mình,
nắm tay mình,
dắt mình vào thế giới
riêng tư của Chúa.
Nên thánh là thuộc trọn
về Chúa và về anh em,
là để Chúa dần
dần chiếm lấy mọi chỗ của đời mình.
Chúa mời tôi nên thánh
với con người và hoàn cảnh riêng.
với sa ngã của quá khứ và
mỏng giòn của hiện tại,
với cái dằm vẫn thường
xuyên làm tôi nhức nhối.
Chúa muốn tôi nên thánh
với mặt mạnh, mặt yếu của tôi.
Ước gì đời tôi vén mở một
nét nào đó của Chúa.
Cầu nguyện:
Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.
(Chân phước Charles de Foucauld)
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm
Hồn Lên
1 THÁNG MƯỜI MỘT
Các Thánh Của Chiên Con
“Tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn” (Kh 7,14). Những
lời này trong Sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ được trích đọc trong phụng
vụ hôm nay. Ngày Lễ Các Thánh, Giáo Hội trên khắp hoàn cầu tôn vinh tất cả những
ai đã được hưởng trọn vẹn ơn cứu độ. Họ là những người – theo cách nói của Sách
Khải Huyền – ’đã tung hô lớn tiếng: “Chính Thiên Chúa chúng ta… và chính Con
Chiên đã cứu độ chúng ta” (Kh 7,10).
Quả vậy, những người này đã được đóng ấn bằng Máu Con Chiên. Họ
mang trong mình dấu ấn ơn cứu chuộc, là nguồn sự sống và sự thánh thiện: “Phàm
ai đặt hy vọng nơi Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng
thanh sạch” (1Ga 3,3).
Thiên Chúa là Đấng thánh, Đấng cực thánh, và Ngài mời gọi con
người nên thánh. Hôm nay, Giáo Hội chan hòa niềm hân hoan nơi tất cả những ai
đã đáp trả trọn vẹn tiếng gọi này, những ai đã thông dự vĩnh viễn vào sự thánh
thiện của Thiên Chúa. Vì thế, một lần nữa, lời cầu nguyện vang lên từ đáy tâm hồn
chúng ta, vang lên tới tận thiên đình trong ngày lễ trọng đại này:
“Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong ngày đại lễ hôm nay,
Chúa cho Hội Thánh được mừng công phúc và vinh quang của toàn thể chư thánh.
Xin ban cho dân Chúa, nhờ lời chuyển cầu của các thánh trên trời, được hưởng dồi
dào lòng Chúa xót thương …”
Với Kinh Truyền Tin, chúng ta đặc biệt nói với Đấng mà Giáo Hội
tôn dương là Nữ Vương Các Thánh: “Bà được chúc phúc giữa các phụ nữ”,
"Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng
trên bà” (Lc 1, 35).
Lạy Mẹ Maria,
nơi Mẹ, chúng con khát khao tôn thờ Thiên Chúa,
vì món quà thánh thiện được trao ban cho nhân loại
là Đức Giêsu Kitô.
Chúng con xin Mẹ thương
chuyển cầu cho các tín hữu đã qua đời,
nhờ đó Giáo Hội được trọn vẹn niềm vui
trong ngày đại lễ mừng kính Chư Thánh hôm nay.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong
Gia Đình
Ngày 01 – 11
Các Thánh Nam Nữ
Kh 7,2-4. 9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a.
Lời suy niệm: “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời
thật lớn lao.”
Đầu tháng 11 Giáo Hội mừng kính các Thánh Nam Nữ. Các Thánh Nam
Nữ là những người khi còn sống trên trần thế này đã sống đúng với một trong những
lời chúc phúc của Chúa Giêsu, đó là: Có tâm hồn nghèo khó, hay là sống hiền
lành, sống sầu khổ trong sự trông cậy vào ủi an của Thiên Chúa, sống trong sự
công chính, và nhất là trung tín với Chúa trước mọi sự bách hại và vu khống vì
đức tin.
Lạy Chúa Giêsu. Trong ngày mừng kính lễ các Thánh Nam Nữ, xin
cho chúng con luôn hướng về gương sống của các ngài, biết chiến đấu với chính
mình để đạt được một trong những lời chúc phúc của Chúa giúp chúng con mai ngày
được vui hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
CÁC THÁNH NAM NỮ
Trước hết đây là lễ các Thánh tử đạo. Vào đầu thế kỷ V, Đức giáo
hoàng Bonifaciô IV đã nhận từ tay hoàng đế một đền thờ ngoại giáo, đền
Panthéon. Được dựng để tôn vinh các thần. Ngài đã biến thành đền thờ dâng kính
Đức Trinh Nữ Maria và các thánh tử đạo. Xác các thánh an nghỉ trong các hang toại
đạo được chuyển về nhà thờ trong một cuộc lễ huy hoàng. Mỗi năm các tu viện đều
nhắc lại kỷ niệm này.
400 năm sau, Đức Giáo hoàng Grêgôriô IV quyết định rằng việc tôn
kính long trọng này phải hướng về các thánh nam nữ đã được tôn phong hay chưa
được biết đến vì không có sự đặc biệt nào của các Ngài chói sáng trên trần thế,
nhưng ý chí và việc làm lành thánh của các Ngài được Thiên Chúa thấu suốt cõi
lòng biết đến.
Trong thánh lễ hôm nay, Phúc âm kể ra những người chiếm hữu được
hạnh phúc chân thật, những người có tinh thần nghèo khó hiền lành biết thương
xót, có lòng trong sạch ăn ở thuận hòa, sẵn sàng bách hại vì sự công chính. Tất
cả đều vui sướng vì phần thưởng bội hậu chời đón họ trên trời. Lễ các thánh là
lễ của người muốn nên lành thánh.
* LỊCH SỬ
Lễ các thánh nam nữ đã có từ thế kỷ thứ IV. Thánh Ephraim người
Syrie và thánh Gioan Kim Khẩu đều biết đến một ngày lễ mừng các thánh tử đạo
vào ngày 13.5 hằng năm. hay rõ hơn là Chúa Nhật thứ nhất sau lễ Chúa Thánh Thần
iện xuống. Lễ này vẫn còn trong lịch sử phụng vụ của Giáo Hội Hy Lạp và được gọi
là Chúa nhật chư thánh.
Trong Giáo Hội Tây Phương cũng có một thánh lễ từ thế kỷ thứ
VII, lễ toàn thể các thánh tử đạo mừng vào ngày 13.5. Đó là ngày lễ thánh hiến
đền Panthéon của Rôma, để Kính Đức Trinh Nữ Maria và toàn thể các thánh tử đạo
vào ngày 13.5.609.
Lễ chư thánh (toàn thể các thánh, chứ không dành riêng cho các
thánh tử đạo) được mừng vào ngày 1.11 hằng năm, chỉ xuất hiện từ thế kỷ thứ
VIII do các thầy Dòng Irland, và Anh Quốc, khi sang truyền giáo ở Âu Châu đã
đem theo và trong thời gian ngắn đã phổ biến rộng khắp Âu Châu. (Lm Nguyễn văn
Trinh, Phụng vụ chư thánh)
(daminhvn.net)
01 Tháng Mười Một
Giòng Giống
Vĩ Nhân
Cách đây mười năm, một người Pháp tên là Alfred de Pierrecourt để
lại gia tài của ông là 2 triệu Mỹ kim với lời di chúc là phải sử dụng số tiền ấy
để gây giống cho những người khổng lồ. Người thi hành di chúc của ông đã trích
ra 1/4 số tiền để tìm và mang những người cao lớn vượt tầm mức về sống ở gần
thành phố Rouen, khuyến khích họ lập gia đình với nhau. Nhưng chương trình gây
giống những người khổng lồ này bị thất bại vài năm sau đó.
Cách đây non hai ngàn năm có một người cũng để lại một di chúc,
một chương trình, nhưng không phải để gây giống cho những người khổng lồ về
phương diện hình vóc mà là về phương diện tinh thần. Chương trình quen được gọi
là "8 mối phúc thật" do Chúa Giêsu biên thảo. Trải qua bao thế hệ mãi
cho đến thời đại chúng ta, vô số những tín hữu Kitô nhờ áp dụng chương trình
này mà trở thành vĩ nhân.
Mừng kính những vĩ nhân ấy trong ngày lễ các thánh nam nữ hôm
nay, chúng ta hãy noi gương các ngài đem ra thực hành mỗi mối phúc thật trong
cuộc sống, để càng sống chúng ta càng phát triển, tiến bộ trên con đường thánh
thiện mà Chúa Giêsu đã vạch ra cho mỗi người chúng ta.
(Lẽ Sống)
Lectio Divina:
Lễ Các Thánh – Mátthêu 5:1-12a
Thứ Ba, 1 Tháng 11, 2016
Tám Mối Phúc Thật
Mt 5:1-12
1. Lắng nghe Lời Chúa
a) Lời nguyện mở đầu:
Lạy Chúa, ý nghĩa của cuộc đời chúng con là đi tìm kiếm Lời
Chúa, là Lời đến với chúng con trong con người của Đức Kitô. Xin Chúa hãy
ban cho con có khả năng đón nhận những gì mới mẻ trong bài Tin Mừng của Tám Mối
Phúc Thật, để cho con có thể thay đổi đời sống mình. Con sẽ không biết gì
về Chúa nếu không nhờ vào ánh sáng những Lời được phán ra bởi Đức Giêsu, Con Một
Chúa, Đấng đã đến cho chúng con biết về những sự kỳ diệu của Chúa. Khi
con yếu đuối, nếu con đến với Người, Lời của Thiên Chúa, thì con sẽ trở nên mạnh
mẽ. Khi con hành xử cách dại khờ, sự khôn ngoan của Tin Mừng Chúa sẽ khôi
phục con để thưởng thức Thiên Chúa và tình yêu lân tuất của Người. Người
hướng dẫn con đến lối đi của đời sống. Khi một vài biến dạng xuất hiện
trong con, con suy niệm Lời Chúa thì hình ảnh về tư cách của con trở nên xinh đẹp.
Khi sự cô đơn dễ khiến cho con trở nên khô khan, thì hôn ước tâm linh của con với
Người làm cho đời sống con thăng hoa kết quả. Khi con khám phá ra nỗi buồn
hay sự đau khổ trong con, thì ý nghĩ về Chúa, là phương cách tốt đẹp duy nhất của
con dẫn đến niềm hân hoan. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu có nói rằng gom lại
tất cả những ước ao được nên thánh là sự tìm kiếm Thiên Chúa mãnh liệt và việc
lắng nghe tha nhân: “Nếu em không là gì cả, thì hãy nhớ rằng Chúa
Giêsu là tất cả. Vì vậy, em phải đánh mất điều bé nhỏ không là gì của
mình vào trong sự vô hạn của Người và không nghĩ đến một điều gì khác ngoại trừ
điều duy nhất đáng yêu hơn hết này…” (trích Những Lá Thư,
87, gửi cho chị Marie Guérin).
b) Đọc Phúc Âm
1 Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên
núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. 2 Bấy
giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
3 "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời
là của họ.
4 Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ
nghiệp.
5 Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an.
6 Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được
no thoả.
7 Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót
thương.
8 Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn
xem Thiên Chúa.
9 Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con
Thiên Chúa.
10 Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời
là của họ.
11 "Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các
con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. 12 Các
con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời;
quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước các con cũng bị người ta bách hại
như thế".
c) Giây phút thinh lặng cầu nguyện:
Điều quan trọng để có thể lắng nghe trong sự im lặng chìm lắng
là để cho Lời của Chúa Kitô có thể nói với chúng ta và do đó Ngôi Lời nhập thể
làm người có thể ngự trong lòng chúng ta và chúng ta ở trong Người. Chỉ
có sự im lặng trong lòng thì Lời Chúa mới có thể bén rễ và, trong ngày lễ Các
Thánh trọng thể này, trở thành xác thịt trong chúng ta.
2. Ánh sáng tỏa trên Lời Chúa (Suy Gẫm)
a) Bối cảnh:
Lời của Chúa Giêsu về Tám Mối Phúc Thật mà thánh Mátthêu rút ra
từ các nguồn tài liệu của mình, đã được cô đọng trong những câu ngắn và tách rời,
và Thánh Sử đã đặt chúng trong một bối cảnh rộng lớn hơn, mà các học giả Kinh
Thánh gọi là “Bài Giảng Trên Núi” (các chương 5-7). Bài
giảng này được coi như những quy luật hoặc bản Hiến Chương (Magna Carta)
mà Chúa Giêsu đã ban cho cộng đoàn như một chuẩn mực và lời ràng buộc định
nghĩa cho một Kitô hữu.
Nhiều chủ đề được chứa đựng trong bài giảng dài này không nên bị
coi như là một bộ sưu tập các lời hô hào, mà đó là một chỉ dấu rõ ràng và triệt
để về thái độ mới của các môn đệ đối với Thiên Chúa, với chính bản thân và các
anh chị em. Một số thành ngữ được xử dụng bởi Chúa Giêsu dường như có vẻ
được cường điệu, nhưng chúng được dùng để nhấn mạnh đến thực tại và do đó chúng
thực tiễn trong bối cảnh mặc dù không mang một ý nghĩa văn học như thế:
ví dụ các câu 29-30: “Nếu mắt phải của các con làm cớ cho các con sa
ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân
bị ném vào hỏa ngục. Và nếu tay phải của các con làm cớ cho các con sa
ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân
phải sa hỏa ngục”. Cách nói này cho thấy hiệu quả mong muốn có được
trong người đọc, là những người phải hiểu một cách chính xác Lời của Chúa Giêsu
mà không làm sai lệch ý nghĩa của chúng.
Vì lý do phụng vụ, sự chú tâm của chúng ta sẽ là phần đầu của “bài
giảng trên núi”, đó là phần nói về việc công bố Tám Mối Phúc Thật (Mt 5:1-12).
b) Một vài chi tiết:
Thánh Mátthêu mời gọi người đọc lắng nghe Chúa Giêsu công bố Tám
Mối Phúc Thật với một sự cô đọng phong phú về các chi tiết. Đầu tiên, tác
giả cho biết nơi Chúa Giêsu công bố bài giảng của Người: “Chúa
Giêsu đi lên núi” (5:1). Đó là lý do tại sao các nhà chú giải gọi
đây là “bài giảng trên núi”, dù rằng thánh sử Luca đặt bài giảng
này trên chỗ đất bằng (Lc 6:20-26). Vị trí địa lý của “ngọn núi” có
thể là một ám chỉ nhắc đến câu chuyện trong Cựu Ước khá giống như câu chuyện của
chúng ta: đó là, khi ông Môisen công bố Mười Điều Răn trên núi
Sinai. Có thể là thánh Mátthêu muốn giới thiệu Đức Giêsu như một Môisen mới,
Đấng công bố lề luật mới.
Một chi tiết khác làm chúng ta chú ý là tư thế của Chúa Giêsu
khi Người công bố bài giảng của mình: “khi Người ngồi xuống”.
Tư thế này hàm ý một chi tiết là Người có thẩm quyền theo ý nghĩa pháp
lý. Các môn đệ và “đám đông dân chúng” tụ tập chung quanh Người:
chi tiết này cho thấy những gì Chúa Giêsu đã phải nói là để cho tất cả mọi người
đều nghe. Chúng ta lưu ý rằng Lời của Chúa Giêsu không đưa ra những chuyện
không thể, cũng chẳng để nói riêng cho một nhóm người đặc biệt nào, cũng chẳng
có nghĩa là những lời ấy được dùng để thiết lập một quy tắc đạo đức dành riêng
cho những môn đệ thân thiết của mình. Lời đòi hỏi của Chúa Giêsu thì rành
rẽ, ràng buộc và triệt để dứt khoát.
Có người đã khắc sâu bài giảng của Chúa Giêsu như sau: “Đối
với tôi, đây là văn bản quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại. Nó được
gửi đến cho tất cả mọi người, các tín hữu và cả những người không tin, và sau
hai mươi thế kỷ nó vẫn là ánh sáng duy nhất còn tỏa sáng trong bóng tối của bạo
lực, nỗi sợ hãi và cô đơn mà Tây Phương thấy mình trong đó bởi vì niềm kiêu
hãnh và sự ích kỷ của mình” (nhà văn Gilbert Cesbron).
Từ ngữ “có phúc” (chữ Hy Lạp là makarioi)
trong bối cảnh của chúng ta không nói “cách nhẹ nhàng” mà là kêu to lên sự hạnh
phúc được tìm thấy trong toàn bộ Kinh Thánh. Ví dụ, trong Cựu Ước, những
người được gọi là “có phúc” là những người sống theo giềng mối
của sách Khôn Ngoan (Hc 25:7-10). Người cầu nguyện Thánh Vịnh định nghĩa “có
phúc” là những ai “kính sợ”, hay nói chính xác hơn những
ai yêu mến Chúa, thể hiện tình yêu này trong việc tuân giữ những giáo huấn được
chứa đựng trong Lời Chúa (Tv 1:1; 128:1).
Sự độc đáo của Tin Mừng Mátthêu nằm ở chỗ thêm vào câu thứ hai
xác định rõ mỗi mối phúc thật: ví dụ, câu khẳng định chính “phúc
thay cho ai có tâm hồn nghèo khó” được làm sáng tỏ bởi câu bổ sung “vì
Nước Trời là của họ”. Một khác biệt đối với Cựu Ước là lời của Chúa
Giêsu công bố mối phúc thật cứu rỗi ở đây, bây giờ và không có bất kỳ giới hạn
nào. Đối với Chúa Giêsu, tất cả mọi người đều có thể đạt được hạnh phúc với
điều kiện là họ tiếp tục hiệp nhất với Chúa.
c) Ba mối phúc thật đầu tiên:
i) Câu công bố đầu tiên liên quan đến người nghèo:
“phúc biết bao cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Người đọc có thể bị kích động: làm thế nào mà người nghèo khó lại có thể
hạnh phúc được? Trong Kinh Thánh, người nghèo khó là những kẻ không có gì
trong tay và hơn hết cả là từ bỏ giả định việc chính bản thân họ xây dựng hiện
tại và tương lai của họ, và vì thế để còn có thì giờ và tập trung vào công việc
nhà Chúa và Lời của Ngài. Người nghèo khó, theo nghĩa Kinh Thánh, luôn
không phải là một ai đó sống khép kín với chính mình, đau khổ, tiêu cực, mà là
một người luôn mở lòng ra mới Thiên Chúa và với tha nhân. Thiên Chúa là tất
cả kho tàng của người ấy. Chúng ta có thể nói đến thánh Têrêsa thành
Avila: Hạnh phúc là những ai có được kinh nghiệm rằng “chỉ có một
mình Thiên Chúa là quá đủ!”, có nghĩa là họ rất giàu có trong Thiên Chúa.
Một tác giả lớn về tâm linh hiện đại đã mô tả sự nghèo khó như
sau: “Khi người ta không hoàn toàn dốc sạch trái tim mình, thì
Thiên Chúa không thể đổ đầy nó với chính Ngài. Khi bạn dọn trống trái tim
mình, thì Chúa sẽ đổ đầy nó. Nghèo khó là sự trống rỗng, không chỉ ở những
gì liên quan đến tương lai mà cũng còn đến quá khứ. Không phải là một hối
tiếc cũng chẳng là một hoài niệm, không phải là một ưu tư cũng chẳng là một ước
mơ! Thiên Chúa không thuộc về quá khứ, Thiên Chúa không thuộc về tương
lai: Người ở trong hiện tại! Hãy để quá khứ của bạn lại với Thiên
Chúa, hãy dâng tương lai của bạn cho Thiên Chúa. Sự nghèo khó của bạn là
sống với hiện tại, sự Hiện Tại của Thiên Chúa thì vĩnh cửu” (Lm Divo
Barsotti).
Đây là mối phúc thật thứ nhất, không chỉ vì nó là mối phúc thật
đầu tiên trong nhiều mối phúc thật, mà bởi vì nó dường như tóm gọn tất cả những
mối phúc thật khác trong sự đa dạng của chúng.
ii) “Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi
an.” Người ta có thể than khóc vì quá đau đớn hay thống khổ. Điều
này nhấn mạnh một sự thật rằng chúng ta đang đối phó với một tình huống nghiêm
trọng mặc dù các động cơ hay lý do không được nhắc đến. Nếu chúng ta muốn
xác định ngày hôm nay “những ai đau buồn” chúng ta có thể nghĩ đến tất cả các
Kitô hữu đã gìn giữ các đòi hỏi của Nước Trời và chịu đau khổ bởi vì nhiều khía
cạnh tiêu cực trong Giáo Hội; thay vì tập trung vào sự thánh thiện, Giáo Hội lại
cho thấy những chia rẽ và bất toàn. Họ cũng có thể là những kẻ chịu đau
khổ bởi vì tội lỗi và mâu thuẫn của họ và những kẻ, trong một cách nào đó, đã
trì hoãn việc cải đổi của họ. Đối với những người này, chỉ có Thiên Chúa
mới có thể mang đến tin tức về “Đấng an ủi”.
iii) “Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất
Nước làm cơ nghiệp”. Mối phúc thật thứ ba nói về sự hiền lành.
Đây là đức tính không còn được phổ biến hiện nay. Thay vào đó, đối với
nhiều người, nó có một ý nghĩa tiêu cực và bị xem như là một sự yếu kém hoặc là
một tính điềm tĩnh biết cách kiềm chế cảm xúc của mình. Chữ “hiền lành”
trong Kinh Thánh có nghĩa là gì? Sự hiền lành được nhớ đến như những người
vui hưởng sự an lạc (Tv 37:10), vui vẻ, được Thiên Chúa chúc phúc và yêu
thương. Họ cũng tương phản với những kẻ làm ác, vô thần và tội lỗi.
Vì vậy, Cựu Ước cho chúng ta sự phong phú về ý nghĩa mà không đưa ra một định
nghĩa duy nhất nào.
Trong Tân Ước, chúng ta gặp chữ này lần đầu tiên là trong sách
Tin Mừng theo Mátthêu 11:29: “Hãy học cùng Ta vì Ta có lòng hiền
hậu và khiêm nhu”. Lần thứ hai là ở trong câu Mt 21:5, khi thánh
Mátthêu mô tả lại việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem và trích dẫn sách
tiên tri Giacaria 2:9: “Hãy bảo thiếu nữ Xion: Kìa Đức
Vua của ngươi đang đến với người hiền hậu”. Thật ra, Tin Mừng Mátthêu
có thể được coi như là Tin Mừng của sự hiền lành.
Thánh Phaolô cũng nói rằng sự hiền lành là một căn tính tốt của
người Kitô hữu. Trong thư gửi các tín hữu Côrintô 2Cr 10:1 ông khuyên các
tín hữu “tôi xin dựa vào lòng nhân từ và khoan dung của Đức Kitô mà khuyên
nhủ anh em”. Trong thư gửi các tín hữu Galát 5:22, sự hiền hòa được
coi là một trong những hoa quả của Chúa Thánh Thần trong trái tim của các tín hữu
và bao gồm việc hiền lành, tiết độ, chậm bất bình, tử tế và kiên nhẫn đối với
những người khác. Một lần nữa trong thư gửi tín hữu Êphêsô 4:32 và
Côlôssê 3:12, thái độ hiền hòa là một phần của người Kitô hữu và là dấu hiệu của
con người mới trong Đức Kitô.
Cuối cùng, một lời chứng hùng hồn trích từ thư của thánh Phêrô
1Pr 3:3-4: “Ước chi vẻ duyên dáng của chị em không hệ tại cái mã
bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc xa hoa; nhưng là con người nội
tâm thầm kín, với đồ trang sức không bao giờ hư hỏng là tính thùy mị, hiền
hòa: đó chính là điều quý giá trước mặt Thiên Chúa”.
Chúa Giêsu dùng chữ “hiền hòa” như thế nào? Một định nghĩa
làm sáng tỏ thực sự là định nghĩa về người hiền lành được đưa ra bởi Đức Hồng Y
Carlo Maria Martini “người hiền lành, theo ý nghĩa của các mối phúc thật,
là người mà mặc dù trước sự nhiệt thành của các cảm xúc của mình, vẫn giữ được
sự bình tĩnh và nhu mì, không chiếm hữu, nội tâm thảnh thơi, luôn rất tôn trọng
mầu niệm của sự tự do, bắt chước Thiên Chúa trong khía cạnh này, Đấng làm tất cả
mọi việc liên quan đến người khác và khuyên người ta vâng lời mà không bao giờ
dùng bạo lực. Tính hiền lành thì trái ngược lại với tất cả các hình thức
kiêu căng về luân lý hay vật chất, nó sẽ chiến thắng bằng hòa bình thay vì chiến
tranh, bằng đối thoại thay vì áp đặt”.
Đối với lời giải thích khôn ngoan này, chúng ta thêm vào lời của
một nhà chú giải nổi tiếng khác: “Sự hiền lành được nói đến trong
các mối phúc thật thì không có gì khác hơn là khía cạnh của sự khiêm nhu mà tự
nó thể hiện trong sự niềm nở hòa nhã cách thực tế trong việc người ấy cư xử với
tha nhân. Sự hiền lành như thể tìm thấy được trong hình ảnh và tấm gương
hoàn hảo trong con người của Đức Giêsu, hiền lành và khiêm nhường trong
lòng. Quả thật, sự hiền lành như thế đối với chúng ta dường như giống như
một hình thức từ thiện, kiên nhẫn và chu đáo tế nhị đối với người khác” (Jacques
Dupont).
3. Suy niệm để Lời Chúa soi sáng chúng ta
a) Tôi có thể chấp nhận những dấu hiệu về sự nghèo khó nhỏ
bé trong đời sống của tôi không? Ví dụ, khi sức khỏe yếu kém và khi hơi
se mình? Tôi có tạo ra những đòi hỏi quá đáng không?
b) Tôi có thể chấp nhận an phận về sự nghèo nàn và mỏng dòn
của tôi không?
c) Tôi có cầu nguyện như một người nghèo khó, như một người
cầu xin ân sủng của Thiên Chúa với lòng khiêm nhường, cầu xin lòng thương xót
và tha thứ của Người không?
d) Được linh ứng từ sứ điệp của Chúa Giêsu về sự hiền lành,
tôi có từ bỏ bạo lực, sự trả thù và ý tưởng báo thù không?
e) Tôi có khuyến khích, trong gia đình và nơi làm việc, một
tinh thần nhân ái, dịu dàng và hòa hoãn không?
f) Tôi có trả thù với ác ý, bóng gió hoặc ám chỉ gây hấn
với ác ý không?
g) Tôi có chăm sóc đến người yếu đuối nhất, những kẻ không
thể tự vệ không? Tôi có kiên nhẫn với người già cả không? Tôi có
đón tiếp khách lạ bơ vơ, những kẻ thường bị bóc lột nơi làm việc không?
4. Cầu nguyện
a) Thánh Vịnh 23:
Bài Thánh Vịnh dường như xoay quanh đề tài “Chúa là mục tử của
tôi”. Các thánh là hình ảnh đoàn chiên trên đường đi: họ được chăn
dắt bởi lòng nhân từ và trung kiên của Thiên Chúa, cho đến khi cuối cùng họ đến
được nhà Chúa Cha (L. Alonso Schökel, Thánh Vịnh Tín Thác, sách
Dehoniana, Bologna 2006, 54)
CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính
vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u
con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm,
ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA
ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người
những ngày tháng, những năm dài triền miên.
b) Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ cho chúng con con đường của các mối
phúc thật để chúng con có thể đến với niềm hạnh phúc đó là sự viên mãn của đời
sống và vì thế thánh thiện. Tất cả chúng con đều được kêu gọi nên thánh,
nhưng kho báu duy nhất của các thánh là Thiên Chúa. Lạy Chúa, Lời của
Chúa, lời kêu gọi nên thánh đến với tất cả những ai trong phép rửa đã được chọn
bởi tình yêu của Chúa Cha, để nên giống Đức Giêsu Kitô. Chúng con cảm tạ
Chúa, vì các thánh Chúa đã đặt trên đường đi của chúng con và những người thể
hiện tình yêu của Chúa. Chúng con xin lòng tha thứ của Chúa nếu chúng con
đã làm hoen ố khuôn mặt Chúa trong chúng con và đã từ chối lời kêu gọi trở nên
thánh của chúng con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét