30/10/2016
Chúa Nhật
tuần 31 thường niên năm C
(phần I)
Bài Ðọc I: Kn 11, 23 - 12, 2
"Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa yêu thương mọi tạo vật".
Trích sách Khôn Ngoan.
Lạy Chúa, trước mặt Chúa, cả vũ trụ ví như hạt gạo trên đĩa cân,
và như hạt sương sa trên mặt đất trước lúc rạng đông. Nhưng Chúa thương xót mọi
loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người
để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật
gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo
nó.
Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được? Hoặc
vật gì Chúa không kêu gọi, thì làm sao nó duy trì được? Nhưng Chúa dung thứ hết
mọi loài: vì chúng thuộc về Chúa. Lạy Chúa, Chúa yêu thương các linh hồn.
Ôi lạy Chúa, thần trí của Chúa tốt lành và hiền hậu đối với mọi
loài là dường nào! Vì thế, lạy Chúa, Chúa từ từ sửa phạt những kẻ lầm lạc,
khuyên răn và dạy bảo những kẻ phạm lỗi, để họ từ bỏ tội ác mà tin theo Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 1-2. 8-9. 10-11. 13cd-14
Ðáp: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới
muôn đời
(x. c. 1).
Xướng: 1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và
con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con
sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. - Ðáp.
2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo
tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các
thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước
Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.- Ðáp.
4) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện
trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ
khòm lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Tx 1, 11 - 2, 2
"Danh Chúa được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh
hiển trong Người".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu
Thêxalônica.
Anh em thân mến, chúng tôi hằng cầu nguyện cho anh em: Thiên
Chúa chúng ta đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng ơn Chúa kêu gọi anh em,
và xin Người dùng quyền phép mà kiện toàn những ý định ngay lành do lòng tốt của
anh em và công việc của lòng tin anh em, để danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta,
được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người, do ân sủng của
Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô.
Anh em thân mến, nhân về ngày trở lại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, và về sự chúng ta tập họp bên cạnh Người, chúng tôi nài xin anh em chớ
vội để mình bị giao động tinh thần, và đừng hoảng sợ bởi có ai nói tiên tri, hoặc
bởi lời rao giảng hay bởi thư từ nào được coi như do chúng tôi gởi đến, mà nói
như thể ngày Chúa gần đến.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật
và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19, 1-10
"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa,
có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu
có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được,
vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một
cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.
Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên
Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại
tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người
thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi".
Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin
bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều
gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà
này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến
tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Nhờ lòng thương của Ðức Giêsu
Sắp hết năm Phụng vụ, chúng ta đọc thư Thessalonica để bắt đầu
suy nghĩ về thế mạt. Ðừng tưởng làm như vậy sẽ cản trở sinh hoạt hiện nay. Ngược
lại suy nghĩ về thế mạt theo Kitô giáo có thể giúp chúng ta đổi mới được các
sinh hoạt hiện tại, làm cho đời sống thêm tích cực và phấn khởi hơn. Bởi vì thế
mạt theo Kitô giáo không phải là làm cho thế giới này tan biến đi và đi đến chỗ
mạt vận; nhưng là thế giới này sẽ chuyển biến và thay đổi hoàn toàn để giũ bỏ hết
mọi hư ảo và mặc lấy các đặc tính trường sinh.
Thế mạt như vậy cũng có nghĩa là đổi đời. Và quan niệm này luôn
luôn là một cám dỗ. Con người không bằng lòng với hiện tại và muốn đổi khác. Tựu
trung chúng ta muốn đổi những gì để được hạnh phúc hơn? Ðiều quan trọng nhất,
há chẳng phải là chúng ta không muốn thấy sự dữ và kẻ dữ ở đời này nữa sao?
Nhưng làm thế nào? Chúng ta hãy nghe câu trả lời của các bài đọc Kinh Thánh hôm
nay.
1. Thiên Chúa Yêu Thương Mọi Loài
Bài sách Khôn Ngoan lập tức như muốn đi ngược lại khuynh hướng
và suy nghĩ tự nhiên của loài người chúng ta. Luôn luôn chúng ta nghĩ rằng thế
giới này xấu vì có những kẻ dữ. Làm cho bọn này biến đi, chúng ta được hạnh
phúc. Âm thầm chúng ta đã tự đặt mình sang phía những kẻ lành, và ước ao phía kẻ
dữ không còn bóng dáng một tên nào nữa... và chúng ta thường ấm ức vì không hiểu
sao Thiên Chúa cứ để bọn này sống ngang nhiên như vậy?
Tác giả Khôn Ngoan đọc thấy cái tâm lý này trong suy nghĩ của
con cái Israel ở bên Ai Cập. Họ ghét cay ghét đắng những người cai thầu và đốc
công, tay sai của Pharaon. Họ sung sướng khi thấy một chàng thanh niên có tên
là Môsê thẳng tay hạ sát một tên Ai Cập để bênh vực một người Do Thái. Câu chuyện
đó đã xảy ra lâu rồi... nhưng đột nhiên bây giờ Môsê lại xuất hiện. Ông nói với
con cái Israel hãy chuẩn bị ra khỏi xứ nô lệ này. Và ông đi đi lại lại đến với
vua Pharaon để thương lượng việc giải phóng dân ông, vừa phấn khởi nhưng cũng vừa
ấm ức... Tại sao chậm chạp như vậy? Tại sao không dùng các biện pháp mạnh và
quyết liệt? Chúa của Môsê dường như không dứt khoát đủ? Sao Người không cho quyền
Môsê làm những dấu lạ điềm thiêng mau lẹ đi? Sao Người còn nương tay với
Pharaon và bè lũ?
Con cái Israel đã nóng ruột. Chúng ta thường cũng nóng ruột, chỉ
muốn đổi đời tức khắc, chỉ muốn kẻ dữ phải chết tươi, ăn năn tội chẳng kịp.
Nhưng Chúa thì lại khác. Tác giả sách Khôn Ngoan hôm nay mạc khải cho chúng ta
thấy tâm tư của Người. Không phải Người yếu đâu, vì toàn thể vũ trụ trước mặt
Người như hạt sương rơi trên đất. Nào ai cự được cánh tay của Người. Nhưng
chính vì toàn năng phép tắc mà Người lại thương xót người ta vô cùng. Chỉ có
người yếu mới sốt ruột thủ tiêu người mình không ưa, không thích. Còn người có
khả năng thì dễ dàng làm lơ chờ đợi chúng hối cải.
Tuy nhiên đó chỉ là một lý. Còn một lẽ nữa, có thể quan trọng
hơn. Thiên Chúa là tạo hóa, Người dựng lên mọi sự vì yêu mến. Chính tình thương
của Người ban cho mọi loài được hiện hữu và bảo tồn mọi loài trong hiện hữu...
Không gì xuất hiện và tồn tại được nếu Người không muốn và không thương. Thế
nên kẻ dữ còn đó là vì tình thương của Thiên Chúa. Người không muốn ghét bỏ những
gì Người đã nắn ra. Người yêu sự sống chứ không thích sự chết. Làm cho mọi vật
sống là bản tính tự nhiên của Người. Còn tiêu diệt vật nào là việc Người chẳng
thích. Bởi vậy, thái độ của Người có vẻ thong thả. Dần dà Người muốn sửa dạy mọi
kẻ sa ngã để chúng trở lại mà được sống.
Tác giả sách Khôn Ngoan không những đã lý luận như thế. Ông còn
chấp nhận luận lý ấy đến nỗi muốn chia sẻ tâm tư của Thiên Chúa. Ông đã không
lý luận như chúng ta vừa làm; nhưng đã cầu nguyện để hiểu ý Chúa và muốn như
Người... Tức là ông cũng muốn chúng ta, thay vì nhìn vào kẻ dữ như những cái
gai trước mắt và như nguyên nhân cản trở hạnh phúc của chúng ta, hãy nhìn vào
Thiên Chúa và thờ lạy cầu xin Người. Chúng ta sẽ hiểu Người hơn và chia sẻ tâm
tư của Người. Người toàn năng nên không coi thái độ của kẻ dữ là quan trọng. Ưu
vị của Người làm ngơ đi trước tội của họ, chờ đợi họ trở lại. Nhất là Người đầy
tình thương. Người đã dựng nên vạn vật vì yêu mến. Người không nỡ ghét bỏ loài
người đã tác thành. Hơn nữa, thần trí của Người đang làm việc nơi vạn vật. Hãy
để cho sức mạnh thánh hóa của thần trí sửa dạy kẻ sa ngã và đưa họ về đường
ngay...
Tác giả sách Khôn Ngoan không thể nói rõ hơn vì ông chưa được thấy
kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa tỏ hiện. Nhưng tâm tư của ông đã vượt xa cảm
nghĩ của nhiều người đã nhìn thấy ơn cứu độ. Ðiều này thật đáng suy nghĩ. Và vì
thế chúng ta cần tìm hiểu hơn về cách Chúa cứu độ để sửa sai nhiều thái độ hiện
nay của mình. Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe có khả năng giúp đỡ chúng ta làm
việc này.
2. Thiên Chúa Cứu Ðộ Tội Nhân
Câu chuyện ông Zakkhê, ai mà không biết. Tác giả Luca đặt câu
chuyện này vào ngay sau lúc Ðức Giêsu nói với các môn đệ: "Này chúng ta
lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho con người mọi điều các tiên tri đã viết".
Như vậy câu chuyện muốn nói lên mục đích của cuộc hành trình, tức cũng là việc
Ðức Giêsu lên Giêrusalem để chịu chết. Người đi chịu nạn để chuộc tội cứu thế.
Câu chuyện ông Zakkhê làm chứng điều này.
Quả vậy, trước mặt người Do Thái, Zakkhê là một kẻ tội lỗi.
Không tội lỗi như bọn phóng túng đâu; nhưng đây còn là một tội nhân nguy hiểm.
Zakkhê là ty trưởng quan thuế ở một dân tộc bị ngoại bang thống trị. Và điều
này có thể làm sống lại một số kinh nghiệm cũ của chúng ta. Những người thu thuế
cho hạng ngoại bang làm sao không bị coi là những tên hại dân hại nước! Huống nữa
Zakkhê là ty trưởng quan thuế.
Và chế độ thuế má ở Giêricô bấy giờ mới thật đáng ghét! Ðể thu
được nhiều tiền, nhà cầm quyền Rôma cho đấu thầu việc thu thuế. Và dĩ nhiên những
kẻ giàu có mới có khả năng đấu thầu. Và đấu thầu được, họ tha hồ bắt dân phải
chịu sưu cao thuế nặng. Có như vậy họ mới gỡ được vốn và mới có thể làm giàu
thêm. Dân không thể nào không coi những ông bao thầu này bất nhân được. Nhất là
ở Israel; làm tay sai cho ngoại bang không những là hại dân hại nước, mà còn là
hại đạo nữa. Kẻ bất nhân trong việc thu thuế vừa bán nước vừa là giáo gian. Ðó
là tội nhân công khai, trắng trợn và nguy hiểm.
Zakkhê có thật sự như vậy không? Ðiều đó không cần biết. Chỉ có
điều chắc chắn là người Do Thái nào cũng coi ông như vậy. Hay ít ra trước mặt
công luận, ông bị coi như thế.
Hôm ấy Zakkhê nghe tin Ðức Giêsu đi ngang qua Giêricô. Tò mò ông
muốn thấy Người... nhưng ông lại nhỏ con chẳng sao nhìn được Người vì thiên hạ bu
đầy xung quanh Người. Chỉ còn một cách: Phải tìm chỗ đứng trên cao nhìn xuống...
Chẳng có nhà lầu nào ở gần. Hơn nữa, trèo lên một thân cây có lẽ đỡ phiền phức
hơn. Zakkhê đã làm như thế. Nhưng này Chúa đã gọi ông: "Zakkhê, xuống mau,
vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi".
Làm sao có thể xảy ra như thế? Người mà lại vào ngụ nhờ nhà một
người tội lỗi sao? Thiên hạ thì kinh ngạc; còn Zakkhê thì chỉ biết vui mừng.
Ông về dọn nhà, dọn bàn... và nhất là dọn những câu nói chân thật nhất để diễn
tả lòng cảm mến đối với một ơn bất ngờ như vậy: "Này, ông nói, nửa phần của
cải, thưa Ngài, tôi xin bố thí cho kẻ khó và nếu tôi đã gian lận gì của ai, tôi
xin đền lại gấp bốn".
Ðó là phản ứng của một con người quyết tâm đổi đời. Trước đây
ông muốn vơ vén nhiều của, bây giờ ông muốn tung ra; trước đây ông có gian lận,
thì bây giờ ông xin đền bù quá mức pháp luật đòi hỏi. Quả thật ông đã nhận được
ơn cứu độ. Và Ðức Giêsu chỉ còn cần phải tuyên bố: "người này cũng là con
cái của Abraham". Nghĩa là không ai còn được kỳ thị, gạt bỏ một con người
như thế nữa. Không còn được coi người ấy như lương dân hay như tay sai của ngoại
bang nữa. Người ấy không còn là tội nhân, nhưng đã trở thành con cái của
Abraham, con cái của Lời Hứa, con cái của Nước Trời. Và sở dĩ như vậy vì Con
Người đến để tìm cứu sự đã hư đi.
Ðã đành, Zakkhê cũng có công... ông đã muốn xem thấy Chúa và đã
trèo lên cây cao, và nhất là ông đã thành tâm trở lại. Nhưng nếu Chúa đã không
nhìn và gọi ông, nếu Người không đoái ngụ lại nhà ông, thì đã chẳng có câu chuyện
hôm nay. Tất cả đều do Chúa, nhờ lòng thương của Người và bởi sáng kiến của Người.
Ðó mới thật là ý tưởng mà tác giả Luca muốn trình bày với chúng ta.
Ðức Giêsu đã đến để tìm cứu kẻ có tội: Người là ơn cứu độ Thiên
Chúa gửi đến cho loài người. Người thực hiện những điều mà sách Khôn Ngoan đã
viết. Tác giả sách này chỉ biết rằng: Thiên Chúa vì toàn năng và nhân ái sẽ làm
cho tội nhân trở lại. Nhưng thế nào và nhờ ai, thì chúng ta phải chờ đến khi thấy
Ðức Giêsu xuất hiện và cương quyết đi lên Giêrusalem để làm công việc cứu thế...
Hôm nay Người đã làm cho Zakkhê trở lại đang khi Người lên Giêrusalem để chúng
ta thấy trước mục đích của việc Người sẽ chịu nạn và sống lại.
Chúng ta ngày nay đã có đức tin và tuyên xưng Ðức Giêsu là cứu
thế. Chúng ta phải làm gì để ơn cứu độ của Người có ảnh hưởng đổi đời một cách
sâu rộng? Vì như đã nói trên, muốn đổi đời không phải là muốn tiêu diệt kẻ dữ,
nhưng phải mong họ trở lại ngay chính nhờ lòng thương của Thiên Chúa và hành động
của Ðức Giêsu Kitô. Bài thư Thessalonica hôm nay có thể giúp chúng ta nhiều ánh
sáng quý báu.
3. Ðức Giêsu Phải Ðược Hiển Vinh Nơi Chúng Ta
Xét theo một khía cạnh, giáo đoàn Thessalonia thời bấy giờ đã cảm
nghĩ như chúng ta ngày nay trong nhiều lúc. Họ thấy đời không đáng sống bao
nhiêu. Quá nhiều buồn chán. Và nhất là quá nhiều bất công. Họ ước ao ngày của
Chúa đến để phân biệt lành dữ phải trái. Nhiều người đã lợi dụng cái tâm lý ấy...
Họ tuyên truyền và làm cho người ta tưởng: ngày của Chúa đã đến!
Phaolô phải viết thư để tín hữu của Người khỏi bị phỉnh gạt. Những
lời cuối cùng trong đoạn trích hôm nay gạt bỏ ý tưởng cho rằng ngày của Chúa đã
đến. Ðôi khi chúng ta cũng nên đọc kỹ lại những lời này để khỏi bị giao động vì
những tin có mạc khải ở chỗ này, có lời sấm ở chỗ kia về ngày tận thế. Ngày ấy
đến lúc nào, đến Con Người cũng không biết, thì đừng ai phỏng đoán làm gì.
Nhưng có một điều chắc chắn, chúng ta phải cố gắng để được hạnh
phúc trong ngày ấy. Và cho được như vậy, thánh Phaolô bảo phải cầu nguyện, xin
Thiên Chúa khấng làm cho chúng ta được xứng đáng với ơn Thiên triệu... Chỉ có
Người mới cứu độ được chúng ta, nhờ Ðức Giêsu Kitô như hai bài Kinh Thánh trên
đây đã làm chứng. Nhưng về phía mình, ít ra chúng ta cũng phải có những nỗ lực
nào đó như Zakkhê. Và ở đây thánh Phaolô nói, chúng ta phải làm cho Danh Ðức
Giêsu được hiển vinh nơi chúng ta và chúng ta ở nơi Người.
Chúng ta hãy mượn lại câu chuyện Zakkhê để làm sáng tỏ lời
khuyên của thánh Tông đồ. Nhờ việc Ðức Giêsu đến ngụ nhờ nhà ông, mà ông đã đổi
đời. Ông đã nhiệt tình tiếp rước Người, nên ông đã lấy lại được danh tiếng. Ông
được vinh hiển ở nơi Người vì ông đã muốn Người vinh hiển nơi nhà ông. Nhà ông
đón nhận ơn cứu độ, nên ông đã trở thành con cái của Abraham.
Như vậy chúng ta phải tôn vinh Ðức Giêsu ở nơi chúng ta để chúng
ta được tôn vinh ở nơi Người. Và muốn thế, thánh Phaolô nói chúng ta phải nhờ
ơn Chúa làm cho viên thành ý chí ngay lành và công việc của lòng tin. Chúng ta
phải cầu xin quyền năng của Thiên Chúa giúp mình thi hành các tư tưởng tốt và
làm tốt các việc của đời sống đức tin. Khi ấy đời sống chúng ta sẽ xứng đáng là
đời sống của người Kitô hữu. Ðức Kitô được hiển vinh nơi chúng ta, thì đồng thời
và lập tức chúng ta được hiển vinh ở nơi Người. Người ta sẽ thấy chúng ta là
môn đệ Người. Và khi ấy dù giờ vinh hiển cánh chung chưa đến, nhưng chúng ta
cũng đã mang trong mình đời sống vinh hiển của Thiên Chúa rồi.
Và nếu chúng ta không những coi mình như con chiên của Chúa mà
còn ý thức tất cả chúng ta là dân riêng của Người để chúng ta cố gắng làm cho
Người được vinh hiển nơi cộng đoàn giáo xứ và Giáo hội chúng ta, thì xã hội
loài người sẽ nhận thấy Hội Thánh qua thật là thành trì của Thiên Chúa và là hạnh
phúc bình an của các dân tộc.
Chúng ta có tất cả những yếu tố đó trong thánh lễ này. Ðức Giêsu
sẽ đến và mang ơn cứu độ đến cho nhà này là giáo đoàn chúng ta và linh hồn mỗi
người. Chúng ta hãy đón nhận Người như ông Zakkhê. Chúng ta hãy bắt chước ông
quyết tâm đổi đời làm vinh danh Chúa ở nơi chúng ta. Không những Chúa sẽ tuyên
bố chúng ta là con cái của Abraham và là dân thánh của Người; nhưng chính xã hội
cũng sẽ nhận ra đời sống mới nơi chúng ta để ca tụng Thiên Chúa và tin vào ơn cứu
độ của Người.
Xin cho chúng ta và cộng đoàn chúng ta hôm nay được những ơn như
thế.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 31 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Wis 11:22-12:2; 2 Thes 1:11-2:2; Lk
19:1-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tình thương tha thứ của Thiên Chúa
Rất nhiều người trong chúng ta không hiểu tại sao Giáo Hội không
cho phép: ngừa thai nhân tạo; phá thai cho dù thai nhi mang bệnh tật; giết người
già hay người bệnh dù họ phải chịu những chứng bệnh nan y; án tử hình dù tù
nhân đã phạm những tội tày đình hay giết người... Lý do đơn giản là Giáo Hội nhận
ra quyền cho sống là quyền của Thiên Chúa, chứ không phải quyền của con người.
Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự, Ngài yêu thương và muốn bảo trì muôn loài, con
người chỉ là tạo vật, không ai có quyền hủy diệt loài người Thiên Chúa dựng
nên.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật tình thương Thiên Chúa dành cho
muôn loài, đặc biệt tình thương tha thứ Ngài dành cho con người. Trong bài đọc
I, tác giả Sách Khôn Ngoan nêu lên một chân lý quan trọng: “Của đau, con xót.”
Vì Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài, nên Ngài yêu thương và lo lắng bảo vệ tất
cả. Ngài không muốn cho bất cứ ai phải hư đi; nhưng muốn họ ăn năn xám hối để
được sống. Trong bài đọc II, lẽ ra con người phải hư mất vì không biết xử dụng
tự do của mình; nhưng Thiên Chúa đã ban cho con người Đức Kitô để Ngài chuộc tội
cho con người. Vì thế, con người không nên lo lắng về Ngày Quang Lâm sẽ đến, vì
đó là Ngày con người sẽ được vinh quang cùng với Đức Kitô. Trong Phúc Âm, giữa
một đám đông to lớn và hỗn độn, Chúa Giêsu vẫn nhận ra một người thu thuế thấp
bé và tội lỗi là Giakêu đang đứng trên cây sung. Ngài muốn ở trọ tại nhà và
mang ơn cứu độ cho ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa yêu thương mọi loài Ngài đã dựng nên.
1.1/ Thiên Chúa tạo dựng nên hết mọi loài: Tác giả
Sách Khôn Ngoan muốn nêu bật những sự thật quan trọng mà con người cần biết:
(1) Uy quyền của Thiên Chúa: Vũ trụ tuy to lớn đối với con người
như thế; nhưng chỉ là “hạt cát trên bàn cân” hay “tựa giọt sương mai rơi trên mặt
đất.” Uy quyền của Thiên Chúa còn vượt xa những gì con người có thể thấy, vì
còn những thứ con người chưa thấy như những sự trên Trời và những sự trong đáy
vực sâu.
(2) Lòng yêu thương của Thiên Chúa cho mọi loài: Thiên Chúa yêu
thương mọi loài hiện hữu và không ghê tởm bất cứ loài nào Chúa đã làm ra. Nếu
Thiên Chúa ghét loài nào, thì Ngài đã chẳng dựng nên nó.
(3) Sự quan phòng của Thiên Chúa: Không những Thiên Chúa tạo dựng,
Ngài còn duy trì sự hiện hữu của muôn loài bằng cách bảo vệ chúng nữa. Nếu Ngài
không bảo vệ, làm sao một vật tồn tại nổi? Nếu Ngài không cho hiện hữu, làm sao
nó có thể được duy trì?
1.2/ Thiên Chúa cho kẻ có tội cơ hội được ăn năn trở lại: Đối với
cha mẹ loài người, con nào cũng là con; đứa con nào càng mỏng giòn yếu đuối,
cha mẹ càng phải săn sóc và bảo vệ nhiều hơn. Nếu điều này đã đúng cho con người,
nó càng biểu tỏ cách rõ ràng hơn với Thiên Chúa. Ngài đã nhiều lần tuyên bố rất
rõ qua các ngôn sứ của Cựu Ước: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn
nó ăn năn xám hối để được sống,” hay qua chính Người Con của Ngài, “Người mạnh
khỏe không cần đến thầy thuốc, nhưng chỉ những kẻ đau yếu mới cần.
Nhiều người không kiên nhẫn khi thấy những kẻ gian ác cứ sống
phây phây trên sự khốn khổ của người công chính, nên cầu xin Thiên Chúa sớm
tiêu diệt bọn ác nhân đó. Họ không hiểu tại sao Ngài để những kẻ gian ác ấy còn
sống trên đời? Tác giả Sách Khôn Ngoan trả lời: Đó là vì “Chúa nhắm mắt làm
ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ biết ăn năn hối cải.”
Vẫn có những người nghi ngờ làm sao những kẻ gian ác ấy có thể
ăn năn trở lại. Họ quên rằng chẳng có gì là không thể đối với Thiên Chúa. Tác
giả Sách Khôn Ngoan mặc khải một điều quan trọng là “sinh khí bất diệt của
Thiên Chúa đã ở trong muôn loài muôn vật.” Vì thế, “những ai sa ngã, Chúa sửa dạy
từ từ. Chúa cảnh cáo họ, nhắc cho họ nhớ họ đã phạm tội gì, để họ bỏ điều ác mà
tin vào Chúa.” Một điều nữa chúng ta cần nhấn mạnh: tiến trình đưa con người về
nẻo chính đường ngay cũng bắt nguồn từ Thiên Chúa, chứ không bắt đầu với con
người.
2/ Bài đọc II: Danh của Chúa chúng ta là Đức Giêsu, sẽ được tôn
vinh nơi anh em, và anh em được tôn vinh nơi Người.
2.1/ Hãy sống xứng đáng với tình yêu Thiên Chúa.
Nếu chúng ta chịu khó ngồi xuống để suy gẫm về tình yêu Thiên
Chúa và ơn gọi làm con của Ngài, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa đã chuẩn bị cho
chúng ta mọi sự cần thiết để đạt đến vinh quang Ngài đã tiền định: giao ước, Lề
Luật, các nhà lãnh đạo, các ngôn sứ... Món quà cao trọng hơn hết Thiên Chúa đã
ban cho con người là Đức Kitô, Người Con Một của Ngài, đã hy sinh chết vì tội lỗi
của chúng ta để chúng ta được cứu độ. Qua Đức Kitô, chúng ta còn được dồi dào
ân sủng qua các bí tích, sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, và sự chỉ dạy của
Giáo Hội.
Thánh Phaolô cầu nguyện và kêu gọi các tín hữu Thessalonica hãy
sống xứng đáng với ơn gọi của mình; để danh Thiên Chúa và danh của Đức Kitô được
tôn vinh và các tín hữu cũng được tôn vinh nơi Người.
2.2/ Đừng hoảng hốt về Ngày của Thiên Chúa đến.
Trong Thư I Thessalonica, thánh Phaolô nghĩ Ngày Quang Lâm của
Thiên Chúa sắp đến, nên Ngài kêu gọi các tín hữu hãy chuẩn bị khẩn trương cho
Ngày ấy. Trong Thư II Thessalonica, ngài sửa chữa quan điểm về Ngày Quang Lâm của
Thiên Chúa. Ngài khuyên các tín hữu đừng tin vào những tin đồn và cũng đừng hoảng
sợ về Ngày này, vì có nhiều tín hữu có những thái độ sai lầm trong khi chuẩn bị
Ngày đó. Có những người không làm lụng chi hết chỉ ngồi chờ Ngày đó đến, có những
người lại lợi dụng thời cơ để kiếm lợi lộc.
Theo thánh Phaolô, Ngày này phải là Ngày vui mừng, vì chúng ta sẽ
được gặp Thiên Chúa và Đức Kitô. Những người đã chuẩn bị sẵn sàng sẽ không sợ
hãi gì khi Ngày này đến.
3/ Phúc Âm: Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.
3.1/ Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và ông Giakêu: Ông được
mô tả bởi thánh sử Lucas không phải chỉ là người thu thuế như Matthew, mà còn
là người đứng đầu những người thu thuế tại Jericho, một vùng rất trù phú của xứ
Judah, rất gần thành Jerusalem. Tên của ông chứng tỏ ông là người Do-thái hành
nghề thu thuế. Đối với người Do-thái, những người thu thuế được xếp ngang hàng
với đĩ điếm, vì đã chạy theo đế quốc Rôma để bóc lột mồ hôi nước mắt của đồng
bào. Tất nhiên, ông là người giàu có.
Vì tò mò, ông tìm cách để xem cho biết Đức Giêsu là ai, nhưng
không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Những người lùn thường
khôn vặt, ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu,
vì Người sắp đi qua đó. Tại thành phố Jericho hiện nay vẫn còn một cây sung rất
to lớn, được vây quanh kỹ lưỡng cho khách hành hương đến thăm viếng. Họ gọi đây
là cây sung mà ông Giakêu đã trèo lên để gặp Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã nhận ra ông giữa bao nhiêu người trong đám đông.
Người đi bước trước để bắt đầu tiến trình hòa giải với ông: "Này ông
Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!"
3.2/ Ba phản ứng khác nhau của cuộc gặp gỡ:
(1) Đám đông: Họ xầm xì với nhau, "Nhà người tội lỗi mà ông
ấy cũng vào trọ!" Đối với người Do-thái, những người thu thuế và gái điếm
được coi như là những người tội lỗi công khai. Ai giao tiếp hay làm bạn với họ,
cũng được coi là tội lỗi, huống hồ đây là một thủ lãnh của những kẻ thu thuế! Họ
quan niệm người thánh thiện không thể làm bạn với hay vào nhà những người tội lỗi,
phải tránh xa họ kẻo bị lây nhiễm hay bị mang tiếng.
(2) Ông Giakêu: Ông không ngờ Chúa Giêsu không những chú ý tới
ông giữa bao nhiêu người, Ngài còn gọi đích danh ông, và ngỏ ý muốn đến nhà
ông. Từ trước đến nay, mọi người Do-thái đều nhìn ông với cặp mắt khinh bỉ, thế
mà hôm nay, trước mặt bao nhiêu người, Chúa Giêsu đã không đối xử với ông như
thế, Ngài coi ông như một người bạn và muốn đến nhà ông, điều không người
Do-thái nào muốn làm. Vì thế, ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.
Khi nghe mọi người xầm xì và biết rõ mình là người tội lỗi, ông
thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Ngài, phân nửa tài sản của tôi, tôi cho
người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn."
Ông hứa phân phát ngay phân nửa tài sản (động từ dùng ở thời hiện tại). Lề Luật
chỉ buộc phải đền trả của lấy bất công, nhưng ông xin đền trả gấp bốn.
Niềm vui vì được Chúa tiếp nhận đã biến ông thành một con người
mới: Từ trước tới nay, ông chỉ lo tìm mọi cách để vơ vét của cải từ người khác;
hôm nay, ông rộng lượng vung tay phân phát của cải mình đã gom góp bấy lâu. Khi
chấp nhận trở về, ông can đảm từ giã nếp sống cũ và bắt đầu cuộc sống mới theo
tiêu chuẩn của Tin Mừng. Việc làm của ông có thể lấy đi tất cả những gì ông
đang có; nhưng không thể so sánh với niềm vui được Chúa Giêsu tha thứ và đến viếng
thăm nhà ông.
(3) Chúa Giêsu: Ngài nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ
đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham. Vì Con Người
đến để tìm và cứu những gì đã mất."
Chúa Giêsu đến để đem ơn cứu độ cho tất cả mọi người, chứ không
chỉ cho một số người được tuyển chọn. Tuy Chúa Giêsu nghe biết những lời dị nghị
nhưng Ngài không quan tâm tới. Chỉ một điều Ngài quan tâm là ông Giakêu và Ngài
muốn đưa ông trở về với Thiên Chúa.
Ngài thương yêu tha thứ cho ông Giakêu trước khi ông làm những
việc tốt, lý do của sự tha thứ là vì mọi người đều là con cái của Ngài và là
con cháu của tổ phụ Abraham. Nhận ra tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, ông
Giakêu được thúc đẩy để đáp trả.
Mục đích của Chúa Giêsu đến trần gian là để tìm và cứu những gì
đã mất. Ngài đến không để cứu những người công chính, vì họ không cần cứu;
nhưng để cứu chữa các tội nhân, họ là những con bệnh đang cần đến Ngài. Đúng
ra, chẳng có ai là công chính, mọi người đều là những tội nhân và đang cần ơn
tha thứ của Thiên Chúa. Những ai tự xưng là công chính, họ đang bị đánh lừa và
mất đi cơ hội được Thiên Chúa tha thứ và ban ơn cứu độ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có bổn phận gìn giữ và bảo vệ muôn loài Thiên Chúa đã
dựng nên. Ngài dựng nên tất cả cho con người xử dụng, chứ không phải để phá hủy
và tiêu diệt cách bừa bãi.
- Chúng ta phải trân quí ơn cứu độ được mang đến cho con người
qua Đức Kitô, và cố gắng để đạt được và mang ơn cứu độ đến cho muôn người qua
việc rao giảng Tin Mừng.
- Noi gương Đức Kitô, chúng ta cũng phải có thái độ bao dung với
các người tội lỗi và tìm dịp đưa họ trở về, chứ không ghét bỏ, xua đuổi, hay kết
án.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
30/10/16 CHÚA NHẬT 31
TN – C
Lc 19,1-10
Lc 19,1-10
Suy niệm: Từ
xa xưa cho tới thời Chúa Giê-su, Giê-ri-khô vẫn luôn là một thành phố lớn, nhờ
vị trí nằm trên tuyến giao thông huyết mạch từ Giê-ru-sa-lem đi qua đồng bằng
sông Gio-đan trù phú, nối với vùng bên kia sông, nơi tập trung mọi con đường
buôn bán của toàn thế giới cận đông thời ấy. Giê-ri-khô, thành phố giàu có,
buôn bán sầm uất mà sử gia Joseph Flavius mô tả là “mập béo nhất miền
Pa-lét-tin”. Chúa Giê-su đang đi ngang đó, giữa một đám đông cuồng nhiệt xô bồ.
Thế mà Chúa vẫn biết đấy! Chúa biết “có một người tên là Da-kêu”,
đang vắt vẻo trên một cành cây chờ Ngài đi ngang qua, chỉ để nhìn thấy Ngài một
chút xíu… Ngài đã gọi đúng tên ông, và còn lưu lại nhà ông nữa chứ. Thế là Ngài
đã tìm lại được những gì đã mất.
Mời Bạn: Ngày
nay, tình trạng đô thị hoá đang nở rộ với tốc độ phi mã. Đồng ruộng trước đây,
nay trở thành phố xá. Càng ngày sẽ càng hiếm cảnh “nhà nàng ở cạnh nhà tôi; cách nhau cái dậu
mùng tơi xanh rờn”! Thay vào đó là những ngôi nhà kín cổng cao tường. Ngay trong các
chung cư, từ căn hộ này sang căn hộ kia có khi là cả một thế giới khác biệt.
Da-kêu đại diện cho những người đang bị chìm mất trong khung cảnh đô thị ngày
nay: những người đi học xa, những người ở quê nhập cư lên thành phố làm việc…
Bạn có nhận ra họ không? Họ cần được nhận biết, cảm thông, hội nhập…
Sống Lời Chúa: Bạn
có người quen lên thành phố làm việc? Bên cạnh bạn có người láng giềng ở quê
mới lên? Bạn làm một việc gì đó tốt đẹp cho họ đi chứ.
Cầu nguyện: Đọc một kinh Lạy Cha cầu nguyện cho những
người nhập cư.
Con Người đến để tìm và cứu
Suy niệm:
Giakêu là một người thu thuế giàu có.
Tuy không thiếu gì, nhưng lòng ông vẫn khắc khoải không yên.
Ông vẫn tìm kiếm một Ai đó có thể nâng đỡ ông dậy.
Hẳn ông đã nghe người ta bàn tán về Ðức Giêsu.
Ngài chẳng sợ làm bạn với những người bị khinh như ông.
Giakêu mong có ngày thấy Ðức Giêsu.
Dịp may đã tới, ông đi với đám đông theo sau Ngài,
nhưng vẫn không sao thấy được Ngài,
vì dân chúng thì đông, còn ông lại thấp bé.
Giakêu không thất vọng.
Lòng khát mong đích thực chẳng bao giờ chịu bó tay.
Ông chạy trước đám đông và leo lên một cây sung.
Ông hí hửng với sáng kiến khôn ngoan của mình,
và tin chắc mình sẽ toại nguyện.
Tuy không thiếu gì, nhưng lòng ông vẫn khắc khoải không yên.
Ông vẫn tìm kiếm một Ai đó có thể nâng đỡ ông dậy.
Hẳn ông đã nghe người ta bàn tán về Ðức Giêsu.
Ngài chẳng sợ làm bạn với những người bị khinh như ông.
Giakêu mong có ngày thấy Ðức Giêsu.
Dịp may đã tới, ông đi với đám đông theo sau Ngài,
nhưng vẫn không sao thấy được Ngài,
vì dân chúng thì đông, còn ông lại thấp bé.
Giakêu không thất vọng.
Lòng khát mong đích thực chẳng bao giờ chịu bó tay.
Ông chạy trước đám đông và leo lên một cây sung.
Ông hí hửng với sáng kiến khôn ngoan của mình,
và tin chắc mình sẽ toại nguyện.
Giakêu núp ở trên cây, tưởng không ai trông thấy.
Nào ngờ Ðức Giêsu ngừng lại, nhìn lên và gọi tên ông.
Ngài thấy ông trước khi ông thấy Ngài.
Ánh mắt Ngài làm ông luống cuống,
nhưng lời của Ngài lại làm ông sung sướng, ngỡ ngàng:
Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông.
Niềm hạnh phúc bất ngờ làm ông ngây ngất.
Ðường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không rõ,
nhưng chắc chắn đó là đường đầy ắp niềm vui.
Giakêu thấy mình mất đi những mặc cảm thấp kém.
Ông như lấy lại được danh dự trước đám đông,
bởi lẽ Ðức Giêsu sắp đến thăm nhà ông,
bất chấp những lời xầm xì phản đối.
Ông chỉ ao ước thấy mặt Ngài,
còn Ngài lại muốn bày tỏ cả bề sâu của lòng mình:
dịu dàng, tha thứ, yêu thương, tế nhị.
Nào ngờ Ðức Giêsu ngừng lại, nhìn lên và gọi tên ông.
Ngài thấy ông trước khi ông thấy Ngài.
Ánh mắt Ngài làm ông luống cuống,
nhưng lời của Ngài lại làm ông sung sướng, ngỡ ngàng:
Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông.
Niềm hạnh phúc bất ngờ làm ông ngây ngất.
Ðường từ gốc sung về nhà ông bao xa, ta không rõ,
nhưng chắc chắn đó là đường đầy ắp niềm vui.
Giakêu thấy mình mất đi những mặc cảm thấp kém.
Ông như lấy lại được danh dự trước đám đông,
bởi lẽ Ðức Giêsu sắp đến thăm nhà ông,
bất chấp những lời xầm xì phản đối.
Ông chỉ ao ước thấy mặt Ngài,
còn Ngài lại muốn bày tỏ cả bề sâu của lòng mình:
dịu dàng, tha thứ, yêu thương, tế nhị.
Hoán cải là kết quả của một cảm nhận về Tình Yêu.
Ánh mắt, lời nói, thái độ của Ðức Giêsu
đã thổi bùng lên ngọn lửa leo lét nơi Giakêu,
và khiến lòng ông tan chảy.
Bỗng chốc Giakêu thấy mình được tự do thanh thoát.
Những gì xưa nay trói buộc ông, làm ông say mê,
bây giờ trở nên vô vị.
Một cách hồn nhiên, ông dâng nửa gia sản cho người nghèo,
và xin đền gấp bốn những gì đã lường gạt.
Ánh mắt, lời nói, thái độ của Ðức Giêsu
đã thổi bùng lên ngọn lửa leo lét nơi Giakêu,
và khiến lòng ông tan chảy.
Bỗng chốc Giakêu thấy mình được tự do thanh thoát.
Những gì xưa nay trói buộc ông, làm ông say mê,
bây giờ trở nên vô vị.
Một cách hồn nhiên, ông dâng nửa gia sản cho người nghèo,
và xin đền gấp bốn những gì đã lường gạt.
Giakêu sẽ trở nên nghèo hơn trước,
nhưng ông hạnh phúc hơn xưa nhiều,
vì ông cũng là con cháu tổ phụ Apraham.
Ước gì chúng ta bao dung như Ðức Giêsu
và quảng đại như Giakêu.
nhưng ông hạnh phúc hơn xưa nhiều,
vì ông cũng là con cháu tổ phụ Apraham.
Ước gì chúng ta bao dung như Ðức Giêsu
và quảng đại như Giakêu.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, khi đến với chúng con
Chúa thường đến như một người hành khất.
Chúa thường đến như một người hành khất.
Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari.
Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá,
Chúa cần nhà ông Giakêu để nghỉ chân.
Chúa khiêm tốn cúi xuống xin chúng con,
để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.
Chúa cần năm chiếc bánh và hai con cá,
Chúa cần nhà ông Giakêu để nghỉ chân.
Chúa khiêm tốn cúi xuống xin chúng con,
để rồi tuôn đổ trên chúng con nhiều gấp bội.
Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người,
và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện
vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi.
và khám phá ra đốm lửa nhỏ của sự thiện
vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi.
Ước gì chúng con nhìn tha nhân
bằng ánh mắt của Chúa,
dám hy vọng không ngơi
vào lòng tốt của mỗi người,
và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ,
nhờ đó thế giới của chúng con
trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.
bằng ánh mắt của Chúa,
dám hy vọng không ngơi
vào lòng tốt của mỗi người,
và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ,
nhờ đó thế giới của chúng con
trở nên nhân bản hơn và thần linh hơn.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
30 Tháng Mười
Viên Ðá
Quý
Edith Stein, đó là tên của một người đàn bà mà chúng ta thường
nghe nhắc đến nhiều lần nhân chuyến viếng thăm lần thứ hai của Ðức Thánh Cha
Gioan Phaolô II tại Tây Ðức năm 1987.
Stein theo tiếng Ðức có nghĩa là đá. Ðây không phải là một viên
đá tầm thường, nhưng là một viên ngọc quý đã được tôi luyện giữa lò lửa của hận
thù, chiến tranh. Viên ngọc quý Stein đã được gọt đẽo và nung nấu trước tiên
trong sự dửng dưng vô tôn giáo của những trào lưu tục hóa sau đệ nhất thế chiến.
Lên 14 tuổi, Edith Stein đã mất hòa toàn niềm tin vào Thiên Chúa
của tổ phụ Arbaham. Nhưng cho dù con người có chối bỏ Thiên Chúa, Thiên Chúa vẫn
tiếp tục theo đuổi con người. Cuộc săn đuổi kỳ diệu ấy đã đưa con người đến ngõ
cụt của cuộc sống. Nhưng chính khi đứng trước bức tường tưởng chừng như khôg thể
vượt qua được, Thiên Chúa đã đưa cánh tay của Ngài ra để nâng con người lên. Ðó
là điều đã xảy ra cho Edith Stein khi cô chứng kiến gương kiên nhẫn của một người
thiếu phụ Công Giáo. Chiến tranh đã cướp đi người chồng thân yêu, người đàn bà ấy
vẫn lấy Ðức Tin vào Chúa Kitô để vượt thắng mọi đau khổ, thử thách... Edith
Stein thú nhận: Thập giá của Ðức Kitô đã đem lại sức mạnh kiên hùng cho người
phụ nữ và do đó, cũng phá vỡ bức tường cứng lòng tin của cô.
Trong ánh sáng của thập giá Ðức Kitô, Edith Stein đã tìm lại được
niềm tin vào chính Thiên Chúa của người Do Thái... Nhưng ánh sáng đó đã gắn liền
với cả cuộc đời còn lại của cô như một định mệnh: Giữa những đổ vỡ và tàn ác của
chiến tranh, Edith đã tìm lại được định hướng cho cuộc đời. Thánh giá đã được gắn
liền với tên cô từ đó: Têrêxa Benedicta Della Croce, Têrêxa được thập giá chúc
lành.
Thập giá của Ðức Kitô mà cô đã vác lấy qua cái chết đau đớn
trong lò hơi ngạt tại trại tập trung Auschwitz đã biến cô trở thành một viên ngọc
quý có giá trị cứu rỗi cho cả một dân tộc mà cô hằng yêu mến.
Ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá. Ðã mang tiếng khóc vào
đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá... Tại
sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ
không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ. Chúa Giêsu không bao giờ
đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề.
Trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá và khi sống lại, Ngài
cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. "Hãy vác lấy
thập giá và theo Ta", đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với
tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống.
Mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy Tình Yêu mạnh hơn sự chết. Mang lấy thập
giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét