27/11/2016
Chúa Nhật tuần 1 Mùa Vọng năm A.
(phần
II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật
1 Mùa Vọng, năm A
CHÚA
NHẬT I MÙA VỌNG
(Is
2,1-5; Rm 13,11-14; Mt 24,37-44)
TỈNH
THỨC ĐÓN ĐỢI Ý CHÚA
“Anh
em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ Con Người sẽ đến” (Mt 24,44)
Mùa vọng là mùa của sự chờ đợi: chúng ta chờ đợi ngày
trở lại của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ngài sẽ trở lại với chúng ta trong Lễ
Giáng sinh; và Ngài sẽ trở lại với chúng ta trong ngày Quang lâm. Vì thế, chúng
ta được mời gọi chuẩn bị cho cả hai lần trở lại của Ngài.
I. CÁC BÀI ĐỌC
1.
Bài đọc I
Bài đọc 1 trình bày cho chúng ta một thị kiến của tiên
tri Isaia vào những ngày sau hết. Đó là khung cảnh của một nền thái bình thịnh
trị và hướng vọng tới thánh ý của Thiên Chúa, một thánh ý của những điều tốt đẹp.
Đây cũng là cái nhìn của mỗi người chúng ta luôn cần có hôm nay mỗi khi đối diện
trước những khó khăn, thách đố của cuộc sống, trước những tai ương, hoạn nạn,
hay chiến tranh và hận thù.
Tiên tri Isaia đã thấy rằng “vào những ngày sau hết,
núi Nhà ĐỨC CHÚA đứng kiên cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi
ngọn đồi và dân dân lũ lượt đưa nhau tới”. Thành thánh Giêrusalem được xem như điểm
quy tụ muôn dân muôn nước, tất cả cùng tề tựu để học biết thánh ý của Thiên Chúa.
Và muôn dân đồng loạt lên tiếng: “Đến đây, ta cùng lên núi ĐỨC CHÚA, lên Nhà
Thiên Chúa của Giacóp, để Ngài dạy ta biết lối của Ngài,và để ta bước theo đường
Ngài chỉ vẽ”.
Đây là một thị kiến rất tuyệt vời. Tất cả dân nước đều
đang đói khát sự công chính, và điều này chỉ có thể được tìm thấy nơi bước đường
của Thiên Chúa. Sự dữ trên trái đất này xuất hiện khi mỗi người chúng ta chọn một
con đường riêng của mình, và những nẻo đường riêng ích kỷ đó không có khả năng đóng
góp cho thế giới này một nền thái bình thịnh trị, nhưng chỉ là xung đột và chiến
tranh. Nhưng nếu như mỗi người chúng ta đều biết tìm kiếm nẻo đường chính trực
nơi Thiên Chúa, thì sẽ có sự hòa bình giữa tất cả chúng ta.
Và khởi đầu mùa vọng này, thị kiến của tiên tri
Isaia như là một lời hứa của Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta trong những ngày
sau hết, và lời hứa ấy với chúng ta hôm nay như một lời mời gọi thiết thực, luôn
biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày.
2.
Bài đọc II
Trong bài đọc II thánh Phaolô cũng dạy cho chúng ta
một điều tương tự. Ngài nói với các tín hữu Rôma: “Đã đến thời chúng ta phải thức
dậy, vì giờ đây ơn cứu độ của chúng ta đã gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo”.
Việc canh thức luôn là điều khẩn thiết, dĩ nhiên không theo ý nghĩa thể lý, mà
là theo ý nghĩa thiêng liêng. Khởi đầu mùa vọng, Giáo hội muốn chúng ta nhận ra
sự cấp thiết của việc canh thức thiêng liêng này. Chúng ta không được để mình bị
chi phối bởi những lo lắng vật chất, nhưng hãy quan tâm đến những sự cao siêu
trên trời. Dĩ nhiên, lo lắng về vật chất luôn cần thiết và chính đáng cho đời sống
chúng ta, nhưng chúng ta đừng để bị chúng thống trị lên chúng ta. Thay vào đó,
chúng phải là công cụ phục vụ cho những hoạch định trọng yếu của đời ta, đó là
kết hiệp với Đức Giêsu Kitô và kiện toàn những công việc của Ngài trong ơn thánh.
Nếu như trong bài đọc I, tiên tri Isaia mời gọi “chúng
ta cùng bước đi trong ánh sáng của Chúa”, thì với cách thức tương tự, thánh
Phaolô cũng khuyên nhủ chúng ta mặc lấy “khí giới của sự sáng”. Với chúng ta, điều
này có nghĩa là mặc lấy Đức Kitô, Chúa chúng ta, và không bước theo tính xác thịt
và những dục vọng thấp hèn của riêng mình.
Thánh Phaolô tông đồ đã dùng hình ảnh ẩn dụ của ngày
và đêm để khuyên nhủ chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến”. Những việc làm ẩn dấu
trong bóng tối sẽ không sinh lợi, đôi khi còn gây ra những thiệt hại nặng nề.
Trái lại, những việc làm tỏ bày trước ban ngày, với vũ khí của sự sáng, chúng
ta bước đi trong con đường của Sự thật, của Thần Khí, và Thần Khí này sẽ luôn hướng
chúng ta đến sự công chính, thái bình và yêu thương.
3.
Bài Tin Mừng
Bài Tin Mừng theo thánh Mátthêu đặt chúng ta vào
trong bối cảnh phải canh thức trước Thánh ý của Chúa và mời gọi chúng ta hãy sẵn
sàng cho ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em
không biết ngày nào Chúa anh em đến”.
Đức Giêsu đã giải thích rằng vào thời ông Noê, người
ta ăn uống, cưới vợ, gả chồng mà không lưu tâm đến những dấu chỉ của thời đại,
cũng không thật sự mở lòng để nhận biết và thực thi thánh ý của Thiên Chúa: “Họ
không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con
Người quang lâm cũng sẽ như vậy”. Chính vì thế Đức Giêsu mới cảnh báo chúng ta:
“hãy canh thức”, nghĩa là chúng ta không được mê ngủ, nhưng tỉnh thức và luôn hướng
lòng về đường lối chính trực, biết tìm kiếm những gì là tốt đẹp cho chúng ta,
và cũng là những điều tốt đẹp cho những người khác.
Thái độ canh thức ở đây không có nghĩa là mở to con
mắt thể lý, nhưng luôn có một tinh thần biết hướng về những điều đáng quan tâm,
đặc biệt là tìm cách làm thăng tiến những giá trị hòa bình và an vui trong thế
giới này. Ai canh thức theo cách thức này sẽ không bị bất ngờ khi Đức Giêsu
quay trở lại. Điều này thật ra luôn xảy ra trong cuộc sống của chúng ta. Nhưng
nếu chúng ta không để ý, chúng ta thường để ơn thánh trôi qua cách vô ích.
Đức Giêsu còn trở lại với chúng ta trong giây phút lâm
chung. Vì thế, nếu chúng ta không canh thức, chúng ta cũng sẽ lâm vào cảnh bất
ngờ với những hệ quả tiêu cực.
Mùa vọng là thời khắc khát khao chờ đợi Đức Giêsu. Nếu
chúng ta yêu mến Ngài, chúng ta hãy chờ đợi với tâm tình sống động. Còn nếu chúng
ta chỉ yêu bản thân và chỉ lo cho bản thân mình, chúng ta sẽ đi theo một con đường
đối nghịch, và như thế cuộc sống của chúng ta không những không sinh hoa kết trái,
mà còn nguy hại cho chúng ta và cho cả người khác.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. “Ngài sẽ dạy chúng ta biết lối của Ngài và
chúng ta sẽ đi theo ý định của Ngài”. Mùa vọng nhắc nhở về lời hứa của Thiên
Chúa và sự trở lại trong vinh quang của Đức Giêsu trong ngày sau hết.Vậy một
khi tôi ý thức và xác tín điều này, tôi phải sửa soạn lại cuộc sống của tôi như
thế nào để đón đợi Ngài đến? Tôi có dũng cảm bỏ lại sau lưng những lối sống không
phù hợp và những con đường riêng tư để mặc lấy Đức Giêsu Kitô và bước đi trên
con đường Ngài chỉ vẽ không?
2. “Hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa” và
“hãy “cầm lấy khí giới của sự sáng”. Nhìn lại cuộc sống của tôi và quanh tôi,
đâu là những khí cụ, đâu là những phương thế để có thể giúp tôi và đưa tôi đến
cung đường mang đầy ánh sáng của Chúa?
3. “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh
em không ngờ Con Người sẽ đến”. Chúa đến trong đời, Chúa đến với tôi
và thăm viếng tôi qua nhiều cách thức, trong nhiều bối cảnh và giây phút khác
nhau. Liệu tôi có nhận ra và sẵn sàng mở lòng đón đợi trước những lần Ngài ghé
thăm tôi qua ơn thánh của Ngài không?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ
tế: Anh chị em thân
mến! Bước vào một chu kỳ phụng vụ mới, Giáo Hội mời gọi chúng ta phải luôn tỉnh
thức sẵn sàng chờ đợi Chúa đến. Đó chính là tâm tình để sống Mùa Vọng, là thời
gian chuẩn bị mừng đại lễ Giáng Sinh và hướng về ngày Chúa quang lâm. Với tâm tình
hân hoan chào đón Chúa, chúng ta cùng hiệp ý cầu nguyện:
1. Hội Thánh có sứ mạng mời gọi mọi người “bước đi
trong ánh sáng của Chúa.” Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội
Thánh luôn tích cực sống và làm chứng cho Tin Mừng, giúp con người thời đại tin
nhận Đức Giêsu Kitô là ánh sáng thế gian.
2. Thiên Chúa sẽ quy tụ các dân tộc trong nước Người,
để hưởng bình an đời đời. Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho những người đang hoang
mang lạc hướng vì thiếu niềm tin trong cuộc sống, được ơn nhận biết chỉ có Thiên
Chúa mới đem lại ý nghĩa cho đời người.
3. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu hãy từ bỏ những
hành vi đen tối và mang lấy khí giới sự sáng. Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho mọi
Kitô hữu biết hướng về ngày Chúa quang lâm bằng một thái độ tích cực: tránh xa
tội lỗi và canh tân đời sống theo tinh thần Phúc Âm.
4. Chúa Giêsu nói: “Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ
nào Chúa các con sẽ đến.” Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn
chúng ta luôn sống tinh thần tỉnh thức, bằng việc siêng năng tham dự thánh lễ,
lãnh nhận các bí tích, và tích cực làm việc lành.
Chủ
tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân từ, xin thương nhận những ý nguyện của cộng đoàn
chúng con, và ban ơn Thánh Thần giúp chúng con luôn vững lòng tin cậy nơi Chúa
trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
HÃY SẴN SÀNG
CHO MỘT TƯƠNG LAI TỐT ĐẸP
CHO MỘT TƯƠNG LAI TỐT ĐẸP
"Anh em hãy sẵn sàng" (Mt
24,44)
Sợi
chỉ đỏ :
- Tương
lai tốt đẹp được khơi lên bởi ngôn sứ Isaia (Bài đọc I)
-
Nghĩ đến nó, tác giả Tv 121 hân hoan hát mừng Thiên Chúa (Đáp ca)
- Đức
Giêsu khuyên hãy tỉnh thức sẵn sàng chờ đón nó (Bài Tin Mừng)
-
Thánh Phaolô giải thích thế nào là tỉnh thức sẵn sàng (Bài đọc II)
Hôm
nay Giáo Hội bước vào Mùa Vọng. Vọng là chờ, là mong. Nhưng chúng ta chờ mong điều
gì ? Phải chăng là mong chờ Lễ Giáng sinh ? Thưa không, chúng ta không
mong chờ một lễ vui, mà mong chờ chính Chúa sẽ đến với chúng ta. Khi Ngài đến,
Ngài sẽ mang cho chúng ta bình an, hạnh phúc. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng
những ơn lành ấy chỉ đến với những ai đã chuẩn bị lòng mình sẵn sàng. Vậy kể từ
hôm nay, mỗi người chúng ta hãy tích cực chuẩn bị tâm hồn, vì ơn cứu độ của Chúa
đã đến gần.
- Một
năm phụng vụ đã trôi qua, hôm nay bắt đầu một năm phụng vụ mới. Phải chăng
trong năm phụng vụ vừa qua chúng ta đã có phần thờ ơ, ươn lười, nhiều lầm lỗi ?
- Xã
hội ngày nay đầy dẫy sự xấu. Phải chăng chúng ta cũng có phần tạo nên tình trạng
ấy ?
-
Chúng ta cũng mong rằng thế giới sẽ tốt hơn, con người sẽ thương yêu nhau hơn.
Nhưng chúng ta có làm gì cho tương lai ấy mau đến không ?
Vào hậu
bán thế kỷ VIII trước công nguyên, vương quốc Giuđa khá thịnh vượng về mặt vật
chất, nhưng lại rất suy đồi về mặt đạo đức. Trước tình trạng ấy, ngôn sứ Isaia
một mặt thẳng thắn vạch tội dân và kêu gọi họ ăn năn sám hối, mặt khác loan báo
rằng nếu dân trở lại thì Thiên Chúa sẽ ban cho họ một tương lai tốt đẹp.
Tương
lai ấy được Isaia diễn tả bằng những hình ảnh thi vị :
- Đó
sẽ là thời dân Thiên Chúa được tôn vinh : "Núi Nhà Chúa sẽ được xây
trên đỉnh các núi". Mà dân Thiên Chúa được tôn vinh cũng có nghĩa là Thiên
Chúa được tôn vinh, vì chính nhờ đức tin của họ mà các dân tộc trên mặt đất sẽ
biết tới Chúa và tôn thờ Ngài : "Nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng :
Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Chúa và lên nhà của Giacóp".
- Khi
mọi người đã biết tôn thờ Chúa thì đó cũng sẽ là một thời thái bình :
"Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước
này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa".
Tâm
tình đầy lạc quan hy vọng của Isaia được diễn tả qua Tv 121 : "Ôi tôi
sung sướng biết bao khi nghe nói : Chúng ta sẽ về nhà Chúa"
Đức
Giêsu cho biết Ngày tốt đẹp ấy sắp đến. Nhưng Ngài đặc biệt lưu ý ba điều :
a/
Ngày ấy sẽ đến một cách không ai ngờ cũng như chuyện Hồng thuỷ thời Nôe :
thiên hạ cứ mải mê với những chuyện thế tục "Người ta ăn uống, dựng vợ gả
chồng, mãi đến chính ngày ông Nôe vào tàu mà người ta cũng không ngờ".
b/
Trong Ngày ấy, số phận loài người sẽ phân thành hai hạng khác nhau : có người
sẽ "được đem đi" (được tiếp nhận), nghĩa là được nhận vào hưởng tương
lai hạnh phúc với Chúa, nhưng có người sẽ "bị bỏ lại", nghĩa là không
được hưởng hạnh phúc ấy (Chú ý : một số bản Việt ngữ đã dịch ngược nghĩa
là "bị đem đi" và "được để lại").
c/ Được
tiếp nhận hay bị bỏ rơi là do người ta có chuẩn bị sẵn sàng hay không. Vì thế Đức
Giêsu kết luận : "Vậy các con phải sẵn sàng"
Thánh
Phaolô nói rằng Ngày tươi sáng đó rất gần rồi : "Giờ đây phần rỗi của
chúng ta gần đến… Đêm sắp tàn, ngày gần đến". Và Ngài giải thích thế nào là
tỉnh thức sẵn sàng :
a/ Trước
hết, tỉnh thức sẵn sàng là "từ bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí
của sự sáng để chiến đấu". Nghĩa là phải tích cực chiến đấu để loại trừ sự
dữ và cổ vũ cho sự thiện.
b/ Kế
đó, tỉnh thức sẵn sàng là thay đổi cách sống : Hãy bỏ nếp sống cũ theo xác
thịt, thể hiện trong việc ăn uống say sưa, chơi bời dâm đãng, tranh chấp ganh tị,
lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt ; thay vào đó bằng một cuộc sống
mới theo gương Đức Giêsu Kitô.
Alan
Platon là một nhà văn Nam Phi, tác giả một quyển sách nhan đề Cry the
Beloved Country trong đó ông mô tả hoàn cảnh khốn khổ của nước Nam Phi
dưới chế độ phân biệt chủng tộc apartheid. Platon có một giấc mơ :
ông mơ có một ngày mà mọi người dân trong đất nước của ông đều được đối xử công
bình và bình đẳng. Và để thực hiện giấc mơ ấy, ông đã lao mình vào chính trị, đấu
tranh suốt mấy mươi năm để xoá bỏ chế độ apartheid ấy. Nhiều người cho rằng mơ ước
và việc làm của Platon là không thể nào thực hiện được. Nhưng ông vẫn kiên trì
vì tin rằng ngày mơ ước ấy sẽ đến. Chỉ tiếc là ông đã chết trước khi thấy được
ngày đó, nhưng lịch sử chứng minh rằng ông đã đúng.
Ngôn
sứ Isaia còn có một giấc mơ táo bạo hơn nữa : Ông mơ tới ngày các nước sẽ
không còn tuốt gươm chém giết lẫn nhau nữa, người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi
cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm, và mọi người sẽ bước đi trong ánh sáng của Chúa.
Thật là một giấc mơ tuyệt vời ! Có người cho rằng giấc mơ ấy sẽ đến khi Đấng
Messia đến. Người khác cho rằng nó chỉ sẽ đến khi Đấng Messia lại đến lần thứ
hai. Có kẻ nói nó sẽ chẳng bao giờ đến, đó chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Nhưng vẫn
có người tin rằng thế nào nó cũng đến nên miệt mài theo đuổi như Alan Platon
trong chuyện trên.
Một
chuyện khác : Một người thợ săn nghe nói tới một con chim đặc biệt có đôi
cánh rộng màu trắng rực rỡ. Đó là con chim đẹp nhất trong các loài chim trên mặt
đất. Vì thế người thợ săn không quản ngại đường xa, trèo đồi vượt suối đi tìm nó
hết ngày này sang ngày khác, tháng này đến tháng nọ, năm này đến năm kia. Một lần
anh đã may mắn thấy được bóng dáng nó ở một khoảng cách rất xa. Nhưng chỉ thoáng
thấy là nó bay đi mất. Anh vẫn kiên trì đi tìm. Một ngày kia anh nhặt được một
cọng lông trắng của nó. Rồi anh chết đi mà không bao giờ bắt được con chim mơ ước
của mình.
Cuộc
săn tìm của người thợ săn là hình ảnh của loài người tìm kiếm hòa bình. Giấc mơ
toàn thế giới vui hưởng thái bình của Isaia có thể không thực hiện được nhưng nó
không chỉ đơn thuần là nằm mơ giữa ban ngày, mà giống như một ngọn núi mà ta mơ
có ngày sẽ đứng trên đó. Dĩ nhiên muốn thế thì ta không thể cứ ngồi một chỗ mà
mơ, hoặc ước chi nó từ trên trời hạ thấp xuống tận chân ta. Ta phải leo, phải có
chương trình và kiên trì làm theo chương trình ấy, cho dù có chậm chạp và lâu dài.
Ngay
cả khi giấc mơ thái bình ấy sẽ không bao giờ được thực hiện trọn vẹn trên toàn
thế giới đi nữa, thì việc theo đuổi giấc mơ ấy cũng có ảnh hưởng tốt trên đời
ta. Điều quan trọng không phải là đạt được mục đích mà là sống có mục đích. Nhiều
khi, có một mục đích tốt cho đời mình thì kể như đủ, miễn là không bao giờ ta bỏ
mục đích ấy.
Thế
giới ngày nay nhờ khoa học kỹ thuật tiến bộ có thể làm được hầu như mọi điều,
nhưng lại bất lực không tạo ra hòa bình được : bất hòa khắp nơi, trên bình
diện lớn như nước này với nước nọ, dân này với dân nọ ; hoặc trên bình diện
nhỏ như nhóm này với nhóm kia, người này với người khác. Mỗi kitô hữu có thể góp
phần mình vào việc thực hiện giấc mơ thái bình của Isaia, bằng những cố gắng xoá
bỏ óc kỳ thị, sự đố kỵ, ích kỷ, chia rẻ nhau… ; bằng cách gieo rắc hòa thuận,
cảm thông, hợp tác…
Chúng
ta cũng nên biết rằng chúng ta không cô đơn trong những cố gắng ấy, mà có Chúa
giúp ta : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một của Ngài đến
ở với loài người chúng ta, thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian này, và cùng đồng
hành với chúng ta trong nỗ lực leo lên đỉnh núi thái bình.
Lời
Thánh Phaolô trong bài đọc II làm cho chúng ta giật mình. Phải chăng chúng ta đang
ngủ vùi ?
Đúng
vậy, dù mắt chúng ta vẫn mở nhưng thực sự chúng ta đang ngủ trong bóng tối mịt
mù :
-
Chúng ta ngủ vì "những việc làm đen tối"
-
Chúng ta ngủ vì cứ "chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng"
-
Chúng ta ngủ vì lòng đầy "tranh chấp đố kỵ"
-
Chúng ta ngủ vì chỉ "lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt".
Nhưng
Thánh Phaolô nhắc nhở rằng : "Đêm sắp tàn, ngày gần đến" và
"Giờ đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo", vậy
"Đây là lúc chúng ta phải thức dậy".
- "Hãy
đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày"
- Hãy
"cầm lấy khí giới của sự sáng" để chiến đấu chống lại những sức mạnh
của tối tăm tội lỗi.
- Hãy
cởi bỏ con người cũ thiên về những dục vọng xác thịt để "mang lấy Đức Giêsu
Kitô".
"Hai
người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi.
Hai người đàn bà đang xay bột, một người được tiếp nhận, một người bị bỏ rơi".
Đức
Giêsu chỉ nói tình trạng như thế thôi chứ không nói rõ lý do tại sao. Tuy nhiên
chúng ta có thể biết lý do qua câu chuyện Ngài kể về thời ông Nôe : Ông Nôe
chính là người được tiếp nhận, nhờ ông đã tỉnh táo nghe được lời Chúa báo sắp có
nạn Hồng thuỷ, và ông đã tích cực chuẩn bị đóng tàu. Còn mọi người khác là những
kẻ bị bỏ rơi, vì họ chẳng để ý tới việc gì khác ngoài cuộc sống vật chất,
"ăn uống, dựng vợ gả chồng". Những bận tâm đó đã chiếm hết tâm trí họ
rồi, còn tâm trí đâu mà để ý đến lời Chúa. Giả như ông Nôe có kể lại cho họ
nghe lời cảnh báo của Chúa thì họ cũng không tin và còn cho là chuyện viễn vông,
không thiết thực như chuyện "ăn uống, dựng vợ gả chồng".
Trong
cuộc sống của chúng ta, giữa những bề bộn lo lắng về vật chất, thế tục, Lời Chúa
vẫn vang lên để nhắc chúng ta phải biết quan tâm đến nhiều việc khác thuộc phương
diện tinh thần, phương diện siêu nhiên, phương diện đời đời… Ai tỉnh táo thì
nghe được và sẽ "được tiếp nhận", kẻ nào mãi thờ ơ thì như "đàn
gãy tai trâu" và sẽ "bị bỏ lại".
* Hãy
cố gắng, dù yếu đuối ngã sa, con hãy xin Chúa thứ tha và tiếp tục tiến. Trên võ
đài, trong vận động trường quốc tế, các lực sĩ cũng lắm lần ngã quỵ, bị nhiều cú
đấm, bị thương tích, nhưng cứ vùng dậy, cứ hy vọng, họ đã đoạt giải vô địch quốc
tế (ĐHV 971)
Cha
Charles de Foucauld có để lại mấy giòng sau đây. Đọc kỹ, con sẽ thấy phấn khởi
tâm hồn và lấy lại được niềm tin, nhất là những lúc hầu như con thất vọng :
-
"Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được
lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó".
-
"Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn
Chúa cách mấy. Chúa cũng vẫn bắt con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân
Chúa trong tình thương và sự thánh thiện".
-
"Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói ‘Tôi
không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống
chỗ thấp"
-
"Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói :
"Tôi không hề sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng
đáng để vào thiên đàng…"
-
"Vậy Chúa muốn con phải trông cậy Chúa luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải
tin ở tình thương và quyền năng của Chúa" (ĐHY NVT, Trên đường lữ hành)
Ở Mêhicô,
giáo phận của Đức Cha Samuel Ruiz có tới 80 % giáo dân là người da đỏ bản xứ. Bản
thân ngài nổi tiếng là người bênh vực cho dân da đỏ. Nhưng không phải tự nhiên
mà ngài làm được việc đó đâu. Trong một buổi nói chuyện ở Nhà thờ Chính tòa
Westminster Mùa Chay 1996, ngài đã thố lộ tâm sự như sau : "Suốt 20 năm
làm giám mục giáo phận này, tôi như một con cá đang ngủ (sleeping fish), nghĩa
là mắt vẫn mở nhưng chẳng thấy gì. Tôi còn hãnh diện vì giáo phận có nhiều nhà
thờ và giáo dân đông đúc. Rồi một hôm tôi gặp cảnh một người da đỏ bị trói vào
một thân cây và bị ông chủ dùng roi quất túi bụi vì lý do người này không chịu
làm thêm 8 giờ phụ trội nữa." Chính cái biến cố đó đã làm cho Đức Cha
Samuel Ruiz "thức dậy". Từ đó trở đi, Ngài hăng hái tranh đấu cho quyền
lợi người da đỏ.
Chuyện
trên cho ta thấy hai điều : 1/ Thiên Chúa có nhiều cách để kêu gọi người
ta thức dậy ; 2/ Và cũng có nhiều cách thức dậy : thức dậy về thể xác
(thôi ngủ), thức dậy về xã hội, thức dậy về đạo đức v.v.
Chủ tế :
Anh chị em thân mến
Mùa Vọng,
mùa Xuân của năm phụng vụ, là thời gian chuẩn bị đón mừng Đức Kitô, Con Thiên
Chúa đến lần thứ nhất với loài người, vừa hướng lòng trông đợi Người đến lần thứ
hai trong ngày tận thế. Trong niềm khát khao trông chờ Chúa ngự đến, chúng ta cùng
tin tưởng nguyện xin.
1-
Hội Thánh được Chúa Giêsu thiết lập / và trao ban sứ mạng rao giảng mọi nước mọi
dân biết Thiên Chúa là Tình yêu. / Người yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi
người. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh / luôn làm tròn sứ mạng cao quý
nhưng hết sức khó khăn này.
2-
Khát vọng sâu xa nhất của con người thời nay / là được sống trong hòa bình và
thịnh vượng. / Nhưng chiến tranh vẫn bùng nổ ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra
biết bao cảnh tang thương. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lòng bác ái yêu thương
thâm nhập mọi sinh hoạt trần thế / để mọi người biết thương yêu và tôn trọng
nhau hơn.
3-
Thánh Phaolô kêu gọi : / "Hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang sống
giữa ban ngày / không chè chén say sưa / không chơi bời dâm đãng / cũng không cãi
cọ ghen tương" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết luôn
ghi nhớ và thực hiện lời mời gọi của vị tông đồ dân ngoại / để có thể trở nên
muối ướp mặn đời / và ánh sáng chiếu soi trần gian.
4-
Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ : / "Anh em hãy canh thức / vì anh em
không biết ngày nào Chúa của anh em đến". / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn sẵn sàng đón Chúa ngự đến / bằng một đời
sống sốt sắng thờ phượng Chúa và chan hòa tình bác ái yêu thương.
CT :
Lạy Chúa, vì yêu thương thế gian, Chúa đã ban Con Một xuống thế làm người, sống
kiếp phàm nhân, nên giống chúng con trong mọi sự, trừ tội lỗi. Xin cho tất cả
chúng con thiết tha trông chờ Con Chúa ngự đến, biết chuẩn bị xứng đáng tâm hồn,
để đón mừng mầu nhiệm Giáng sinh cao cả. Chúng con cầu xin…
(Phần
"Lời nguyện cho mọi người" của Năm A này được trích từ Báo Công giáo
và Dân tộc, số đặc biệt Giáng sinh năm Phụng vụ A, 1998-1999)
- Nên
dùng Kinh nguyện Thánh Thể 3, nhấn mạnh một số nơi :
.
(Sau lời tung hô sau truyền phép) : "Vì vậy lạy Cha, giờ đây chúng
con tưởng nhớ… đồng thời mong đợi Người lại đến, chúng con dâng lên
Cha hy lễ hằng sống và thánh thiện này…"
.
(Sau truyền phép, đoạn 4) : "Lạy Cha, xin cho hy lễ hòa giải này… Còn
những con cái Cha đang tản mát bốn phương trời, xin thương quy tụ tất cả về với
Cha…"
- Trước
Kinh Lạy Cha : Trong niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp "danh Cha
cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời", chúng
ta hãy sốt sắng dâng lên Thiên Chúa là Cha chúng ta lời kinh Lạy Cha sau đây :
-
Chúc bình an : Ngôn sứ Isaia đã mơ đến ngày thế giới không còn chiến
tranh, người ta sẽ lấy gươm giáo rèn thành lưỡi hái lưỡi cày. Chúng ta hãy chúc
cho nhau được bình an và trở thành những người xây dựng hòa bình cho cuộc sống.
- Trước
lúc rước lễ : "Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng đã đến xóa tội trần
gian và sẽ lại đến thăm viếng chúng ta, phúc cho ai được mời đến dự tiệc
Chiên Thiên Chúa".
Dùng
công thức ban phúc lành cuối lễ long trọng của Mùa Vọng (Sách lễ Rôma, xuất bản
1992, trang 575)
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật I
Mùa Vọng (A)
Hãy
luôn sẵn sàng
Thiên
Chúa có thể đến với chúng ta bất cứ lúc nào
Mt
24:37–44
1. Lời nguyện mở
đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong
ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám
phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết
của Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa
trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày
và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự Phục Sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen
2. Bài Đọc
a) Chìa
khóa cho bài đọc:
Trong
phần Phụng Vụ của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, Giáo Hội đặt trước chúng ta một
trích đoạn bài giảng của Chúa Giêsu về ngày tận thế. Mùa Vọng có
nghĩa là Trông Đợi. Đây là thời gian chuẩn bị cho sự xuất
hiện của Con Người vào đời sống chúng ta. Chúa Giêsu khuyên nhủ
chúng ta hãy tỉnh thức. Người đòi hỏi chúng ta phải chú ý tới các sự
kiện để khám phá trong đó dấu hiệu giờ khắc Con Người xuất hiện.
Vào đầu
Mùa Vọng, thật là quan trọng phải thanh tẩy quan niệm của chúng ta và ôn lại
cách đọc các sự kiện trong ánh sáng của Lời Chúa. Và điều này không
có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì Thiên Chúa đến không báo trước, vào lúc mà chúng
ta không mong đợi nhất. Để cho chúng ta thấy phải nên chú ý tới các
sự kiện như thế nào, Chúa Giêsu nhắc lại trận đại hồng thủy thời ông Nô-e.
Trong
lúc đọc bài Tin Mừng, chúng ta hãy chú ý tới những sự so sánh mà Chúa Giêsu
dùng để chuyển tải sứ điệp của Người.
b) Phân
đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt
24:37-39: Con Người sẽ đến giống như những gì đã xảy ra trong thời
ông Nô-e
Mt
24:40-41: Chúa Giêsu áp dụng sự so sánh để giảng cho những người
đang lắng nghe
Mt
24:42: Lời kết luận: “Hãy tỉnh thức”; “Hãy canh phòng”.
Mt
24:43-44: Một tỷ dụ để khuyên người ta nên cảnh giác.
c) Phúc
Âm:
37 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ
rằng: “Trong thời ông Nô-e xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến
cũng như vậy. 38 Cũng như trong những ngày trước nạn đại hồng
thủy, người ta ăn uống, dựng vợ gả chồng, mãi đến chính ngày Nô-e vào
tàu, 39 mà người ta cũng không ngờ, thình lình đại hồng thủy
đến và cuốn đi tất cả, thì khi Con Người đến, cũng sẽ xảy ra như vậy. 40 Khi
ấy sẽ có hai người đàn ông đang ở ngoài đồng, một người được tiếp nhận, một người
bị bỏ rơi. 41 Và có hai người đàn bà đang xay bột, một
người được tiếp nhận, còn người kia bị bỏ rơi.
42 Vậy hãy tỉnh thức, vì không biết
giờ nào Chúa các con đến. 43 Nhưng các con phải biết điều
này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, hẳn ông ta sẽ canh phòng, không để
cho nó đào ngạch khoét vách nhà mình. 44 Vậy các con cũng
phải sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến.”
3. Giây phút
thinh lặng cầu nguyện
Để
cho Lời của Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi
gợi ý
Để
giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
i) Phần nào của bài Tin Mừng
đánh động bạn nhất? Tại sao?
ii) Ở đâu, khi nào và lý do tại
sao Chúa Giêsu giảng bài giảng này?
iii) Chúa Giêsu khuyên nhủ chúng
ta phải cảnh giác như thế nào, việc cảnh giác bao gồm những gì?
iv) “Một người được tiếp nhận, một
người bị bỏ rơi”. Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì với lời khẳng
định này?
v) Vào thời thánh Mátthêu, trong một nghĩa
nào đó, cộng đoàn Kitô hữu đã mong đợi sự xuất hiện của Con Người. Và
ngày nay, chúng ta chờ đợi sự xuất hiện của Chúa Giêsu theo cách nào?
vi) Theo bạn, đâu là trọng tâm
hay nguồn gốc của lời giáo huấn này của Chúa Giêsu?
5. Dành cho những
ai muốn đào sâu vào chủ đề
a) Bối
cảnh bài giảng của Chúa Giêsu:
Tin
Mừng theo thánh Mátthêu –
Trong sách Tin Mừng của thánh Mátthêu có năm bài giảng tuyệt vời, như thể đó là
một ấn bản mới của năm cuốn sách Luật Môisen. Đoạn Tin Mừng mà chúng
ta đang suy gẫm trong Chúa Nhật tuần này là một phần của Bài Giảng thứ năm của
cuốn sách Luật Mới này. Mỗi một bài trong tất cả bốn bài giảng trước
đó soi sáng một khía cạnh khẳng định của Vương Quốc Thiên Chúa được công bố bởi
Đức Giêsu. Bài thứ nhất: Công lý của Nước Trời và những
điều kiện để được vào Nước Trời (Mt các chương 5-7). Bài thứ
hai: Sứ vụ của các công dân Nước Trời (Mt chương 10). Bài
thứ ba: Sự hiện hữu mầu nhiệm của Nước Trời trong đời sống người ta
(Mt chương 13). Bài thứ tư: Đời sống Nước Trời trong cộng
đoàn (Mt chương 18). Bài giảng thứ năm nói về sự cảnh giác trong quan điểm
khẳng định Nước Trời đang đến. Trong bài giảng cuối cùng này,
Mátthêu nối tiếp bản đề cương của thánh Máccô (xem Mc 13:5-37), nhưng thêm vào
một số bài dụ ngôn nói về sự cần thiết của việc cảnh giác và việc phục vụ, của
sự đoàn kết và tình anh em.
Chờ
đợi sự trở lại của Con Người – Ở cuối thế kỷ thứ nhất, các cộng đoàn đã sống trong mong đợi sự
trở lại ngay lập tức của Chúa Giêsu (1Tx 5:1-11). Họ căn cứ vào một
số lời của thánh Phaolô ( 1Tx 4:15-18), có một số người đã ngưng làm việc vì
nghĩ rằng Chúa Giêsu sắp trở lại đến nơi (2Tx 2:1-2; 3:11-12). Họ tự
hỏi: “Khi Chúa Giêsu đến, liệu chúng ta có sẽ được cất thẳng lên
Thiên Đàng như Người chăng?” (xem 1Tx 4:17). “Chúng ta có
sẽ được tiếp nhận hay sẽ bị bỏ rơi?” (xem Mt 24:40-41). Ngày nay,
cũng có một bầu không khí tương tự như thế, trong đó có nhiều người tự hỏi: “Tình
trạng khủng bố này có phải là một dấu hiệu báo cho biết ngày tận thế đã gần kề
không?” Chúng ta phải làm gì để khỏi bị ngạc nhiên?” Một
đáp án cho câu hỏi và điều quan tâm này đến với chúng ta từ Lời của Chúa Giêsu
mà Mátthêu chuyển đến cho chúng ta trong Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này.
b) Lời
bình giải về đoạn Phúc Âm:
Mt
24:37-39: Chúa Giêsu so sánh sự trở lại của Con Người với những
ngày của trận lụt đại hồng thủy
“Trong
thời ông Nô-e xảy ra thế nào, thì lúc Con Người đến cũng như vậy.” Ở
đây, để làm sáng tỏ lời kêu gọi phải cảnh giác, Chúa Giêsu nhắc tới hai cảnh
trong Cựu Ước: ông Nô-e và Con Người. “Những ngày thời ông Nô-e” có
ý muốn nhắc tới thời kỳ đại hồng thủy (St 6:5-8:14).
Hình ảnh
về “Con Người” xuất phát từ một thị kiến của tiên tri Đanien (Đn
7:13). Trong thời ông Nô-e, đa số người ta đã sống mà không lo lắng
bất kỳ một điều gì, không biết rằng giờ Thiên Chúa đã gần kề. Cuộc sống
vẫn tiếp tục “và họ đã không nhận thức được bất cứ điều gì cho đến khi cơn đại
hồng thủy đến và nhận chìm tất cả”. Và Chúa Giêsu kết luận: “Khi
Con Người đến thì cũng như vậy”. Trong thị kiến của tiên tri Đanien,
Con Người sẽ ngự giá mây trời mà đến một cách bất ngờ và sự xuất hiện của Người
sẽ tiêu diệt mọi đế quốc thống trị, mà sẽ không có tương lai.
Mt
24:40-41: Chúa Giêsu áp dụng sự so sánh để giảng cho những người
đang lắng nghe lời Người.
“Hai
người đàn ông đang ở ngoài đồng: một người được tiếp nhận, một
người bị bỏ rơi”. Những chữ này không nên hiểu theo nghĩa
đen. Đó là một cách để nói lên số phận khác nhau mà người ta sẽ lãnh
nhận tùy theo sự phán xét về các việc mà họ đã làm. Một số người sẽ
được tiếp nhận, nghĩa là, sẽ lãnh nhận ơn cứu rỗi, và những người khác sẽ không
được nhận nó. Đây là những gì đã xảy ra trong cơn đại hồng thủy: “Ngươi
hãy vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta chỉ thấy ngươi là người công
chính trước nhan Ta trong thế hệ này” (St 7:1). Ông Nô-e
và gia đình ông đã được cứu rỗi.
Mt
24:42: Chúa Giêsu đưa ra kết luận: “Vậy hãy tỉnh thức”,
phải canh phòng.
Thiên
Chúa là Đấng quyết định giờ xuất hiện của Con Người. Nhưng thời giờ
của Thiên Chúa thì không được đo bằng chiếc đồng hồ hoặc năm tháng của chúng
ta. Đối với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, và ngàn năm cũng tựa một
ngày (Tv 90; 2 Pr 3:8). Thời gian của Thiên Chúa (kairos = kỳ hạn)
thì độc lập với thời gian của chúng ta (cronos = ngày tháng). Chúng
ta không thể can thiệp vào thời gian của Thiên Chúa, nhưng chúng ta nên chuẩn bị
cho giây phút mà giờ của Chúa trở thành hiện tại trong thời gian của chúng
ta. Nó có thể là ngày hôm nay, nó có thể là một ngàn năm nữa.
Mt
24: 43-44: Sự so sánh: Con Người sẽ đến vào lúc mà các
con không ngờ.
Thiên
Chúa đến khi chúng ta không ngờ nhất. Nó cũng có thể xảy ra rằng Người
đến và người ta không nhận thức được giờ khắc xuất hiện của Người. Chúa
Giêsu đòi hỏi hai điều: việc luôn luôn cảnh giác chu đáo, và cùng
lúc, sự dấn thân yên lặng của người sống trong bình an. Thái độ này
là dấu hiệu của sự trưởng thành vững chãi, trong đó mối quan tâm thận trọng được
hòa lẫn với yên bình thanh thản. Sự trưởng thành kế tiếp theo đó để
kết hợp tính chất nghiêm trọng của thời điểm với việc nhận thức rằng mọi thứ đều
tương đối.
c)
Phần phụ chú để hiểu rõ hơn về đoạn Tin Mừng:
Chúng
ta nên thận trọng chuẩn bị cho bản thân như thế nào? – Đoạn Tin Mừng của chúng ta được
dẫn trước bởi bài dụ ngôn cây vả (Mt 24:32-33). Cây vả là biểu tượng
của dân Do-Thái (Tl 9:10; Mt 21:18). Trong việc xem xét cây vả, Chúa
Giêsu yêu cầu các môn đệ hãy quan sát và phân tích các dữ kiện đang xảy
ra. Tưởng chừng như Chúa Giêsu đang nói với chúng
ta: “Các con nên học hỏi từ cây vả để đọc thấy các dấu hiệu của thời
gian, và bằng cách này các con sẽ khám phá nơi đâu và khi nào Thiên Chúa can
thiệp vào lịch sử của chúng ta!”
Điều
chắc chắn được chia sẻ với chúng ta bởi Đức Giêsu – Chúa Giêsu để lại cho chúng ta một
điều chắc chắn gấp đôi để định hướng cho cuộc hành trình của chúng ta trong cuộc
sống: (1) nhất định ngày sau hết sẽ đến; (2) chắc chắn, không ai biết
bất cứ điều gì về ngày hoặc giờ khắc của ngày tận thế. “Còn về ngày
và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay ngay cả
Con Người cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi!” (Mt
24:36). Mặc dù tất cả các ước đoán hoặc tính toán mà người ta có thể
làm để đoán về ngày tận thế, không ai có thể tính toán một cách chắc chắn. Điều
có thể cho sự an bình không phải là sự hiểu biết về giờ phút của ngày tận thế,
mà là Lời của Chúa Giêsu hiện diện trong đời sống. Thế giới này sẽ qua đi
nhưng Lời Chúa sẽ không bao giờ qua đi (xem Is 40:7-8).
Bao
giờ ngày tận thế sẽ đến? –
Khi Kinh Thánh nói về “ngày mạt thế”, điều này không đề cập đến sự kết thúc của
thế giới, nhưng về sự kết thúc của một thế giới. Nó muốn đề cập đến
sự kết thúc của thế gian này, nơi mà sự bất công và quyền lực của sự dữ thống
trị; những điều làm cuộc đời trở thành cay đắng. Thế giới bất công
này sẽ đi đến chỗ kết thúc và thay vào đó sẽ là “một trời mới và một đất mới”,
điều này được công bố bởi tiên tri Isaia (Is 65:15-17) và được dự kiến trong
sách Khải Huyền (Kh 21:1). Không ai biết khi nào hay cách nào thế giới
này sẽ bị kết thúc (Mt 24:36), bởi vì không ai có thể mường tượng được Thiên
Chúa đã dọn sẵn điều gì cho những ai yêu mến Người (1Cr 2:9). Thế giới
mới của cuộc-sống-không-có-cái-chết vượt trội tất cả mọi sự, giống như cây vượt
quá hạt giống (1Cr 15:35-38). Những Kitô hữu tiên khởi đã lo lắng để
được hiện diện trong ngày tận thế này (2Tx 2:2). Họ tiếp tục nhìn
lên trời, chờ đợi sự quang lâm của Chúa Kitô (Cv 1:11). Có một số người
đã ngưng làm việc (2Tx 3:11). Tuy nhiên “Anh em không cần biết kỳ hạn
hoặc thời giờ Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt” (Cv 1:7). Cách duy nhất
để đóng góp vào ngày cuối cùng sắp đến “để Thiên Chúa có thể ban cho thời kỳ an
lạc” (Cv 3:20), và làm nhân chứng cho Tin Mừng ở khắp mọi nơi, cho đến tận cùng
của trái đất (Cv 1:8).
6. Cầu Nguyện: Thánh
Vịnh 46 (45):
“Thiên
Chúa là nơi ta ẩn náu! Chúng ta chẳng sợ hãi gì!”
Thiên
Chúa là nơi ta ẩn náu và là sức mạnh của ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động,
núi đồi có sập xuống biển sâu,
dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục,
núi đồi có lảo đảo khi thủy triều dâng,
ta cũng chẳng sợ gì.
Một dòng sông chảy ra bao nhánh
đem niềm vui cho thành của Chúa Trời:
đây chính là đền thánh Đấng Tối Cao.
Thiên Chúa ngự giữa thành, thành không lay chuyển;
ngay từ rạng đông, Thiên Chúa thương trợ giúp.
Muôn dân náo động, muôn nước chuyển lay,
tiếng Người vang lên là trái đất rã rời.
Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta.
Đến mà xem công trình của CHÚA,
Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu.
Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế,
cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan,
còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa.
“Dừng tay lại: Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa!
Ta thống trị muôn dân, thống trị địa cầu.”
Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành bảo vệ ta.
Người luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ khi ta phải ngặt nghèo.
Nên dầu cho địa cầu chuyển động,
núi đồi có sập xuống biển sâu,
dầu cho sóng biển ầm ầm sôi sục,
núi đồi có lảo đảo khi thủy triều dâng,
ta cũng chẳng sợ gì.
Một dòng sông chảy ra bao nhánh
đem niềm vui cho thành của Chúa Trời:
đây chính là đền thánh Đấng Tối Cao.
Thiên Chúa ngự giữa thành, thành không lay chuyển;
ngay từ rạng đông, Thiên Chúa thương trợ giúp.
Muôn dân náo động, muôn nước chuyển lay,
tiếng Người vang lên là trái đất rã rời.
Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta.
Đến mà xem công trình của CHÚA,
Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu.
Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế,
cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan,
còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa.
“Dừng tay lại: Hãy biết Ta đây là Thiên Chúa!
Ta thống trị muôn dân, thống trị địa cầu.”
Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi,
Thiên Chúa nhà Gia-cóp là thành bảo vệ ta.
7. Lời nguyện kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm
của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải
cho chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức
Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời
Chúa. Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét