Phần một cuộc phỏng vấn ĐTC dành cho
nhà báo Stefania Falasca
Trong những ngày vừa qua ĐTC Phanxicô đã dành cho bà Stefania Falasca, nữ phóng viên của nhật báo Avvenire của HĐGM Italia một bài phỏng vấn dài, được đăng trên nhật báo Quan Sát Viên Roma của Toà Thánh số ra
ngày 19 tháng 11. Sau đây chúng tôi xin gửi tới
quý vị phần đầu của bài phỏng vấn này.
Hỏi: Thưa ĐTC, Năm Thánh Lòng Thương Xót này đã có ý nghĩa gì đối với ĐTC?
Đáp: Ai khám phá ra rằng mình rất được yêu thương, thì bắt đầu ra
khỏi sự cô đơn xấu của mình, ra khỏi sự
chia cách đưa tới chỗ thù ghét người
khác và chính mình. Tôi hy vọng có biết bao người đã khám phá ra rằng họ được Chúa Giêsu yêu thương biết
bao, và để cho mình được Chúa ôm vào lòng. Lòng thương xót là tên gọi của
Thiên Chúa và cũng là sự yếu đuối của Ngài, là điểm yếu của Ngài. Lòng thương
xót của Chúa luôn luôn đưa Ngài tới chỗ tha
thứ, và quên đi các tội lỗi của chúng ta. Tôi thích nghĩ rằng Đấng Toàn Năng có ký ức “dở”. Một
khi Chúa đã tha thứ cho bạn,
thì Ngài quên. Bởi vì Thiên Chúa hạnh phúc tha thứ. Đối với tôi thì điều này là đủ rồi. Cũng như đối với người phụ nữ ngoại tình trong Phúc Âm, mà Chúa đã rất yêu thương. “Bởi vì Ngài đã yêu thương nhiều”. Tất cả Kitô giáo là ở đó.
Hỏi: Nhưng đây đã là Năm Thánh đặc biệt, với biết
bao nhiêu cử chỉ tiêu biểu…
Đáp: Chúa Giêsu không đòi các cử chỉ to
lớn, mà chỉ xin
sự tha thứ và lòng biết ơn.
Thánh nữ
Terexa thành Lisieux là tiến sĩ Giáo Hội,
trong “con đường bé nhỏ” của người với
Thiên Chúa, chỉ cho thấy sự phó thác của trẻ thơ, không ngần ngại ngủ trên cánh tay cha mình và nhắc nhớ rằng lòng bác ái không thể bị đóng kín trong đáy. Tình yêu đối với
Thiên Chúa và tình yêu đối với
tha nhân là hai tình yêu không thể tách rời nhau.
Hỏi: Các ý định của ĐTC khi công bố Năm Thánh Lòng Thương Xót có được thực hiện không?
Đáp: Tôi đã không đưa ra một chương
trình. Tôi đã chỉ làm điều Chúa Thánh Thần đã gợi hứng cho tôi thôi. Các vự việc đã tới. Tôi đã để cho
Chúa Thánh Thần đưa tôi đi. Đây chỉ là ngoan ngoãn đối với Chúa Thánh Thần, để cho Ngài làm việc.
Giáo Hội là Tin Mừng, là công trình của Chúa Kitô. Nó không phải là một lộ trình của các tư tưởng,
một dụng cụ giúp khẳng định chúng. Và trong Giáo Hội các sự việc bước vào trong thời gian, khi thời
gian chín mùi, khi ta cống hiến.
Hỏi: Kể cả một năm thánh ngoại thường…
Đáp: Đó đã là một tiến trình chín mùi với thời
gian, do công trình của Chúa Thánh Thần.
Trước tôi đã có thánh Giáo Hoàng Gioan 23, với tài liệu “Gaudet mater Ecclesia”
trong “thuốc của lòng thương xót” đã chỉ cho con đường phải
theo khi khai mở Công Đồng
chung, rồi tới chân phước Phaolô VI, người đã trông thấy mẫu mực nơi người
Samaritano nhân lành. Rồi có giáo huấn của thánh Gioan Phaolô II
với thông điệp thứ hai của ngài là “Dives in misericordia”,
Thiên Chúa giầu lòng thương xót, và việc thành lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã nói rằng “tên gọi của
Thiên Chúa là thương xót”. Tất cả đều là các cột trụ. Như thế Chúa Thánh Thần đưa các tiến trình của Giáo Hội tiến lên cho tới khi hoàn tất.
Hỏi: Thưa ĐTC, như vậy Năm Thánh cũng là năm thánh của công đồng,
bây giờ và ở đây, trong đó thời
gian tiếp nhận và tha thứ giao thoa nhau, có đúng thế không?
Đáp: Sống kinh nghiệm ơn
tha thứ ôm trọn toàn nhân loại là ân sủng mà sứ vụ tông đồ loan báo. Giáo Hội chỉ hiện hữu như dụng cụ
loan báo cho con người chương
trình thương xót của Thiên Chúa. Vào thời Công Đồng
Giáo Hội đã cảm thấy trách nhiệm là dấu chỉ sống động tình yêu của
Thiên Chúa Cha trong thế giới. Với Hiến chế
Lumen Gentium, Ánh sáng muôn dân, Giáo Hội đã đi ngược về nguồn bản chất của mình, tìm về Tin
Mừng, Điều này xê dịch
trục của quan niệm
kitô, từ một chủ trương
duy luật lệ nào đó, có thể là ý thức hệ,
sang con người của
Thiên Chúa đã trở thành lòng thương xót trong việc nhập thể của
Con Ngài. Có vài người – chị hãy nghĩ tới vài trả lời
cho tông thư
Amoris Leatitiae – tiếp tục không hiểu , hoặc là trắng hoặc là đen, cả khi
nó ở
trong dòng đời sống,
cần phân định. Công Đồng đã nói cho chúng ta biết điều ấy, nhưng các sử gia thì nói rằng để được thấu nhập một công đồng cần phải có một thế kỷ… Chúng ta đang được một nửa rồi.
Hỏi: Nhưng
trong thời đại này đã có các cuộc gặp gỡ, và các chuyến công du đại kết được hoàn thành. Tại
Lesbo với các Thượng Phụ
Bartolomaios I và
Hieronimos, tại Cuba với Đức Thượng
Phụ Kirill của
Mastcơva, tại Lund với việc tưởng
niệm chung cuộc Cải Cách Luther. Chính năm lòng thương xót đã tạo
thuận tiện
cho các sáng kiến này với các Giáo Hội
Kitô khác, có đúng thế không thưa ĐTC?
Đáp: Tôi sẽ không nói rằng các cuộc gặp gỡ này là hoa trái của Năm lòng thương xót. Không. Bởi vì cả những điều này cũng là phần của một lộ trình đến từ xa.
Nó không phải là một điều mới mẻ gì. Chúng chỉ là các bước dài hơn thêm vào một lộ trình đã bắt đầu từ lâu trước. Từ khi
sắc lệnh về đại kết “Unitatis redintegratio” được công bố cách đây 50 năm và người ta
đã tái khám phá ra tình huynh đệ, dựa trên bí tích rửa tội
duy nhất và trên chính lòng tin nơi Chúa Kitô, lộ trình trên con đường của việc tìm về hiệp nhất đã tiến lên với các bước bé nhỏ và to lớn, và đã cho các hoa trái. Tôi tiếp tục các bước đi đó.
Hỏi: Các bước đã được các Giáo Hoàng tiền nhiệm làm…
Đáp: Vâng, tất cả những bước đã được
các vị tiền nhiệm của tôi hoàn thành. Như một bước tiến tới đã là cuộc nói chuyện của ĐGH Luciani với ĐTGM Nga Nicodim qua đời trên cánh tay ngài, khi ôm hôn người
anh em giám mục
Roma. ĐTGM Nicodim đã nói những điều rất hay đẹp về Giáo Hội. Tôi nhớ trong đám táng thánh Gioan
Phaolô II, đã có mặt tất cả các thủ lãnh của Giáo Hội Đông Phương: đó là tình huynh đệ. Các cuộc gặp gỡ và các chuyến đi trợ giúp tình huynh đệ ấy, làm cho nó lớn lên.
Hỏi: Tuy nhiên trong không đầy 4 năm qua ĐTC đã gặp gỡ tất cả các vị đứng đầu và có trách nhiệm của các Giáo Hội
Kitô. Các cuộc gặp gỡ này đi qua triều đại của ĐTC. Tại sao lại có sự gia tốc này thưa ĐTC?
Đáp: Đó là lộ trình của Công Đồng
tiếp tục tiến tới,
gia tăng. Nhưng đó là lộ trình, chứ không phải tôi đâu. Lộ trình này là lộ trình của Giáo Hội. Tôi đã gặp gỡ các vị đứng đầu và có trách nhiệm của các Giáo Hội
kitô khác, điều này đúng, nhưng cả các vị tiền
nhiệm của tôi cũng đã có các cuộc gặp gỡ với các vị này hay các vị có trách nhiệm khác. Tôi đã không cho nó gia tốc nào. Trong mức độ trong đó chúng ta tiến tới lộ trình xem ra đi nhanh hơn, nó là sự
chuyển động tới đích nhanh hơn, “motus in fine velocior”, nói theo kiểu diễn tả tiến trình này trong vật lý của Aristote.
Hỏi: ĐTC đã sống một cách cá nhân sự ân cần trong các cuộc gặp gỡ các anh em của các Giáo Hội
Kitô khác như thế nào?
Đáp: Tôi sống nó với nhiều tình huynh đệ. Người ta
cảm thấy tình huynh đệ. Có Chúa Giêsu ở giữa. Đối với tôi họ tất cả đều là anh em. Chúng tôi chúc lành cho nhau, một người
anh em chúc lành cho một người
anh em khác. Khi cùng với Đức Thượng
Phụ Bartolomaios và
Hieronimos chúng tôi đến
Lesbo bên Hy Lạp để gặp gỡ các người tỵ nạn,
chúng tôi đã cảm thấy là một sự duy nhất.
Chúng tôi đã là một. Là một.
Khi tôi đến thăm Đức Thương
Phụ Bartolomaios tại Fanar bên Istanbul nhân lễ kính thánh Anrê, đối với tôi đó đã là một lễ lớn. Bên Giorgia tôi đã gặp gỡ Đức Thượng
Phụ Ilia, là vị đã không đến đảo Creta để tham dự công đồng
chính thống.
Sự đồng điệu tinh thần mà tôi đã có với ngài đã sâu đậm. Tôi đã cảm thấy mình đứng
trước một vị thánh, một người của
Thiên Chúa đã cầm lấy tôi và nói với tôi những lời đẹp biết
bao, với các cử chỉ nhiều hơn là với các lời nói. Các Thượng
Phụ là các đan sĩ. Bạn trông thấy đàng sau cuộc đàm đạo rằng họ là các con người của đời cầu
nguyện. Đức
Kirill là một
con người của cầu
nguyện, cả Đức Thượng
Phụ Copte Tawadros mà tôi đã gặp cũng thế: ngài vào nhà nguyện cởi giầy ra
và đi cầu nguyện. Cách đây một năm Đức Thượng
Phụ Daniele của Rumania đã tặng tôi một cuốn sách tiếng Tây Ban Nha về cuộc đời thánh Silvestro của Núi Athos, tôi đã đọc cuộc đời của vị thánh lớn này tại Buenos Aires, trong đó có câu: “Cầu
nguyện đối với
con người là đổ chính máu mình ra”. Các thánh hiệp nhất chúng ta trong Giáo Hội bằng cách hiện thực mầu
nhiệm của Giáo Hội. Với các anh em chính thống
chúng tôi đang bước đi, họ là anh em, chúng tôi yêu thương
nhau, chúng tôi cùng nhau lo lắng,
họ đến học tại đây. Cả Đức Thương
Phụ Bartolomaios cũng đã học ở Roma này.
Hỏi: Với Đức Thượng
Phụ Bartolomaios người kế vị tông đồ Anrê, các ngài đã cùng nhau hoàn thành nhiều bước tiến,
trong sự đồng điệu liên quan tới các lời tuyên bố về
nhau. Tình yêu thương
biến đổi cuộc sống của các tông đồ Phêrô và Anrê là anh em có nâng đỡ ĐTC và Đức Thương
Phụ không?
Đáp: Tại Lesbo trong khi chúng tôi cùng nhau chào tất cả mọi người, đã có một em
bé mà tôi cúi xuống trên em. Nhưng tôi không làm em bé chú ý: em nhìn phiá sau tôi. Tôi quay lại và tôi biết tại
sao: Đức Thượng
Phụ Bartolomaios có các túi áo đầy kẹo và ngài đang phát kẹo
cho các em bé. Đó là Đức
Bartolomaios, một người có khả năng làm cho đại công đồng
chính thống
tiến tới giữa
bao nhiêu khó khăn, có khả năng nói về thần học trên mức độ cao xa, và đơn sơ ở giữa các trẻ em. Khi ngài đã đến Roma ngài ở trong nhà trọ Thánh Marta, trong căn phòng mà tôi đang ở hiện
nay. Lời trách duy nhất ngài đã nói với tôi đó là ngài đã phải đổi phòng.
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét