Phụng Vụ Năm A
Hội Thánh cử hành công
trình cứu độ của Chúa Kitô qua chu kỳ một năm gọi là năm Phụng vụ. Năm phụng vụ
bắt đầu bằng Chúa Nhật Thứ I Mùa Vọng và kết thúc vào thứ bảy trong tuần Chúa
Nhật Lễ Chúa Kitô Vua. Trong năm phụng vụ này, năm 2017, Năm A,
Giáo Hội suy niệm Phúc Âm Theo Thánh Mátthêu.Tất cả các bài đọc Phúc Âm Chúa Nhật
Năm A điều trích từ
Phúc Âm của Ngài. (Thánh Máccô năm B và Thành Luca Năm C).
Riêng Phúc Âm theo Thánh Gioan không thuộc
trình thuật Phúc Âm Nhất
Lãm, Giáo Hội dùng Phúc Âm của
Ngài cho toàn bộ Mùa Phục
Sinh.
Năm
A - Suy ngẫm
Phúc
Âm
theo Thánh
Mátthêu.
Chúa Giêsu đã chọn một trong những người đáng ghét nhất làm tông đồ
của mình
đó là Mátthêu. Ngài
là người
Do Thái
làm việc
cho đế
quốc xâm
lăng La Mã, thu thuế
của những người đồng
hương Do Thái (Matthew 9:9), nên những người thu thuế
thường bị khinh miệt và được xem là người phản bội dân Do Thái. Người Pha-ri-siêu coi họ
là hạng
"tội lỗi" và là kẻ đáng ghét. Bởi thế, thật bàng hoàng khi Ðức Kitô
gọi một người như vậy để
trở nên
môn đệ
của Ngài.
Không giống hầu hết như các tông đồ
khác,
là những
ngư dân
chài
lưới lành
nghề, Máthêu lành nghề với những con số
và với
ngòi
bút của
mình. Thật
vậy, Thánh
Sử Máthêu đã viết 1.068 câu trong Phúc Âm
của Ngài,
trong khi đó
Máccô chỉ viết 661 câu mà thôi. Có lẻ Matthew đã viết Phúc Âm vào khoảng
những năm
85 đến105.
Phúc Âm Máthêu được đặt
đầu tiên
trong sách
Tân Ước,
không
phải vì
Ngài
là người
đầu tiên
viết Phúc
Âm (một
số thư của Thánh
Phaolô
và Tin Mừng
của Mác
Cô được viết trước đó)
nhưng vì Phúc Âm của
Ngài được mô
tả như là một
cầu nối giữa Cựu và Tân Ước, Matthew cho thấy những gì Cựu
Ước tiên
báo đã ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu nên
Phúc
Âm của
Ngài
đuợc
đặc trước hết trong sách Tân
Ước.
Điểm chính
Phúc Âm của Thánh
Máthêu chủ yếu nhấn mạnh vào
bản chất giáo huấn
của Đức
Giêsu.
Việc giáo
huấn này
chủ yếu nhấn mạnh về “Nước Thiên
Chúa”. Chúng được
phân
thành
năm phần
rõ rệt: (1) Bài giảng trên núi, Luật nước trời: chương 5-7, (2) Các hướng dẫn về truyền giáo
cho các
tông đồ và
nhiệm vụ của các người
lãnh đạo Nuớc Trời: chương 10; (3) các dụ
ngôn
về Nước Trời: chương 13; (4) các chủ đề về "người làm
lớn" và "sự
tha thứ" trong Nước
Trời: chương 18, và (5) “Nước Thiên Chúa đang
đến gần” chương
24-25.
Đức Kitô trong Tin Mừng
của Thánh Mátthêu
Trong Tin Mừng của mình, Máthêu đã thuyết phục những người Do Thái rằng Đức Giêsu là đấng Messiah, đấng
được xức dầu, Đức Kitô, là Con Thiên
Chúa và là người “sáng lập”
nước Thiên Chúa. Máthêu dùng 50 lần từ "vương quốc", và "32 lần từ “nước trời". Matthew cũng
cho thấy quyền lực của Đức Giêsu qua việc
làm phép lạ, quyền lực trên tội
lỗi bằng cách tha thứ tội lỗi, và quyền
trên cái chết và sự sống lại của chính Ngài.
Máthêu viết như một Người Do Thái và cho đồng
bào Do Thái để trình
bày cho họ
những bằng chứng cho thấy
Đức Giêsu
tuyên
bố Ngài
là “Vua dân
Do Thái”. Máthêu
trích dẫn rộng rãi
từ các
vị ngôn
sứ trong Cựu
Ước để
chứng tỏ rằng Đức
Giêsu
đã hoàn thành
tất cả những gì được nói
về Đấng
Messia, Người sẽ đến để
thiết lập triều đại
[hoặc vương quốc] nước Thiên Chúa. Máthêu thường
xuyên
trích
dẫn: "để ứng nghiệm lời ngôn sứ…”." hoặc
"để ứng nghiệm
lời Kinh Thánh đã được nói
bởi các
ngôn
sứ ..." Máthêu
9 lần đề
cập đến
Chúa
Giêsu
là "Con Vua Đavid". Các ngôn sứ đã báo trước rằng “Đấng
Cứu Thế sẽ là
hậu duệ trực tiếp của Vua Đavid”. Máthêu
bắt đầu
Phúc
Âm của
mình bằng
gia phả
của Đức
Giêsu,
truy gốc Ngài
từ Đavid,
vua của Israel, và sau đó đến Abraham, Người
Do Thái
đầu tiên.
Máthêu truy nguồn
gốc của Đức Giêsu
qua dòng
dõi Giuse, cha nuôi của mình, không phài
là Đức Maria, mẹ đẻ của Ngài [đối với Luca thì không]. Vì
Máthêu là
người người Do Thái nên phả hệ phải theo dòng dỏi
từ người cha.
Qua việc cử hành Phụng
Vụ Năm
A, Chúng
ta sẽ khám
phá
gương mặt của Đức
Kitô
và các lời
giáo
huấn của Ngài qua lời
kể của Thánh Mát Thêu.
Ý NGHĨA CỦA
NĂM
PHỤNG VỤ
Năm Phụng Vụ là chu kỳ thời gian một năm
Hội Thánh
“cử
hành mầu
nhiệm cứu độ của Đức Kitô
từ nhập thể, Giáng
Sinh, đến
Thăng
thiên,
Hiện Xuống, sự mong đợi
niềm hy vọng hồng phúc
và ngày Chúa
lại đến” (PV số
102). “Nguồn mạch” và “Đỉnh
Điểm” của
Năm phụng
vụ là
Mầu Nhiệm Vượt Qua của
Chúa
Kitô,
mầu nhiệm nầy được
báo trước
trong các
biến cố Cựu Ước và được đào
sâu nơi
các mầu
nhiệm mà
Giáo
Hội mừng kính sau nầy.
Năm Phụng Vụ được chia thành 5 gian đoạn khác nhau nhưng
có mối
quan hệ đặc
biệt với nhau. Mỗi giai đoạn mô tả
những khoảnh khắc đa
dạng về mầu nhiệm của Đức
Kitô
(SC 10; LG 11).Chúng
đi theo một
trình
tự cao dần: Mùa Vọng
và Giáng sinh, mùa Chay và Lễ Vượt Qua hay mùa Phục
Sinh; và
mùa Thường
Niên.
Mùa
Vọng và Giáng Sinh
Mùa Vọng (tiếng Việt nghĩa là “sự
trông chờ”, “hy vọng”;
tiếng Latinh: adventus nghĩa là “đến”) là mùa đầu
tiên của năm phụng
vụ bao gồm khoảng thời gian bốn Chủ nhật trước Lễ Giáng sinh và kết
thúc vào Đêm Giáng Sinh. Chủ đề chính của
Mùa Vọng mang hai đặc
tính: một mặt Giáo Hội cử hành mầu nhiệm Con Thiên Chúa trở nên xác phàm trong sự
khiêm hạ và nghèo khó và mặt
kia loan báo về “Ngày Lại
Đến” của Đức Kitô trong vinh quang: Đây là một thời gian diễn tả các hành động của chờ đợi, hy vọng, ước muốn, cầu nguyện, truyền
giáo, tin tưởng và hân hoan.
Giáng sinh là một thời gian vui tươi, cử hành mầu
nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Người đã đến để
cứu độ
chúng
ta "Ngài
đã trở
thành
Người ở giữa chúng
ta.
Mùa Chay và Mùa Phục Sinh.
Mùa Chay bắt đầu
vào Thứ
tư Lễ Tro và kết
thúc
vào Thứ
bảy Tuần Thánh (tròn 40 ngày) là
thời gian chuẩn
bị nhằm mục đích
hướng đến
việc tham dự
sâu rộng
hơn vào
Mầu Nhiệm Vượt Qua của
Đức Kitô.
Trong thời gian này các
dự tòng
trãi
qua một tiến trình với
nhiều mức độ khác
nhau để
gia nhập Giáo
hội mà đỉnh điểm của nó là Ba Bí
Tích Khai Tâm (Rửa Tội, Thêm
Sức Và
Mình Thánh Chúa)
mà họ
sẽ được
lãnh nhận
trong đêm
Vọng Phục Sinh.
Mùa Chay với màu
tím truyến
thống mang bầu
không
khí
trầm buồn thể hiện các chiều
kích: ăn năn thống hối, Sự trở về, tha thứ và
Cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô. Cao điểm của Mùa Chay là Tam nhật
Thánh
hay “Tam
Nhật Vượt Qua” bắt
đầu từ chiều Thứ Năm Tuần
Thánh
tới chiều Chúa Nhật
đại lễ Phục Sinh. Phụng
vụ Tam Nhật
Vượt Qua trỗi
vượt trên
mọi cử hành và mùa
phụng vụ khác. Lễ
Phục Sinh là lễ trọng nhất trong Năm Phụng
vụ. Ngoài
ra, Ngày
Chúa
Nhật cũng
được Hội Thánh đề cao và
họp mừng long trọng.
Mùa Phục sinh: từ
lễ vọng Phục sinh đến lễ Hiện xuống: mừng việc Chúa Kitô toàn
thắng tội lỗi và
tử thần.
Mùa
Thường Niên
Khoảng 34 tuần
lễ, bao gồm
2 thời kỳ:
Từ sau mùa
Giáng
sinh đến
đầu Mùa
Chay và
Từ sau lễ Hiện xuống đến hết tuần lễ Chúa Kitô Vua. Hội
Thánh
dùng thời
gian này
giúp
tín hữu
sống mầu nhiệm cứu độ cách
đầy đủ
hơn. Ngoài
ra, rải rác
suốt năm
Phụng vụ, Hội Thánh
còn dành nhiều ngày lễ để: Tôn
kính cách đặc
biệt Đức
Maria, Mẹ Thiên
Chúa
và Mẹ
chúng
ta. Tôn
kính thánh Giuse, các thánh
Tử đạo,
các thánh khác
là những
Đấng đã
tới đỉnh
cao trọn lành,
đáng nêu gương cho ta và rất
thần thế cầu bầu cho ta trước tòa
Chúa.
MÀU
SẮC PHỤNG
VỤ
Phụng vụ cử hành
trong các
mùa khác nhau của
năm phụng
vụ với thánh nhạc đặc biệt cho từng muà,
những bài
đọc, lời nguyện, và
nghi lễ khác
nhau, qua đó để phản ánh tinh thần
và bầu
khí
cho từng mùa
cụ thể. Các màu sắc của áo mà linh mục
mặc trong phụng
vụ cũng
giúp
thể hiện các tính chất của mầu nhiệm được
cử hành.
Màu trắng: màu của niềm vui và
chiến thắng, được sử dụng cho các
mùa Phục sinh và Giáng sinh. Nó cũng được sử dụng cho các
ngày lễ của Thiên Chúa , các ngày lễ Đức Mẹ Maria,
các thiên thần, và cho các thánh không phải là thánh
tử đạo. Màu Vàng cũng có thể được sử dụng trong
những dịp trang trọng.
Màu đỏ: (màu của máu) được sử dụng vào Thứ Sáu Tuần Thánh, kỷ niệm cuộc khổ nạn của Chúa
Giêsu. Màu đỏ cũng được dùng cho các lễ sinh nhật của các
thánh Tông Đồ, thánh Sử, và các thánh Tử vì Đạo. Màu đỏ (màu của lửa) nhớ lại Chúa
Thánh Thần và được sử dụng vào Lễ Ngũ Tuần (Chúa
Thánh Thần Hiện Xuống) và
trog ngày lễ ban Bí Tích Thêm Sức.
Màu xanh lá cây: nhìn thấy ở khắp mọi nơi trong nhà máy và các loại cây, tượng trưng cho cuộc sống và hy vọng và được sử dụng
trong mùa Thường Niên.
Màu tím: được sử dụng cho Mùa Vọng giúp nhắc nhớ rằng chúng
ta đang chuẩn bị cho sự kiện ngày lại đến của Đức Kitô.
(Tuy nhiên, Mùa Vọng năm nay, Đức Thánh
Cha mời gọi dùng màu tím xanh: biểu lộ rõ hơn màu hy vọng và chờ đợi).
Màu tím đậm dành cho mùa Chay, mùa của sám hối ăn năn
và đổi mới.
Màu
hồng: có
thể được sử dụng vào ngày chủ nhật thứ ba của Mùa Vọng (Gaudete Sunday) , và vào ngày Chủ Nhật thứ tư của Mùa Chay (Laetare Sunday), cũng có thể sử dụng trong ngày cử
hành bí tích hôn phối.
Lm. Giuse Trần Thăng
Hưng, O.Carm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét