Trang

Thứ Hai, 9 tháng 7, 2018

10-07-2018 : THỨ BA - TUẦN XIV THƯỜNG NIÊN


10/07/2018
Thứ Ba tuần 14 thường niên.


Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 8, 4-7. 11-13
"Chúng gieo gió thì sẽ gặt bão".
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: "Chúng cai trị chớ không phải Ta. Chúng đã làm thủ lãnh, và Ta không nhận biết. Chúng đã lấy vàng bạc mà đúc tượng thần, để Ta tàn phá đi.
"Hỡi Samaria, hãy ném con bê của ngươi đi. Ta đã nổi giận chúng. Chúng không thể thanh tẩy mình đến bao giờ? Con bê này bởi Israel mà ra, người thợ đúc đã làm ra nó, nó đâu phải là thần. Con bê của Samaria sẽ giống như con nhện. Chúng gieo gió thì sẽ gặt bão: lúa mì của chúng chẳng đâm bông, mà nếu có bông cũng chẳng có hạt, và nếu có được hạt, thì người ngoại bang cũng sẽ nuốt hết.
"Ephraim làm thêm bàn thờ để phạm tội, những bàn thờ này đã nên dịp tội cho nó. Vì Ta viết cho nó muôn ngàn lề luật, và nó coi như không can gì đến nó. Chúng sẽ dâng của lễ, sẽ hiến tế thịt thà, chúng cứ việc ăn, Chúa không chấp nhận đâu. Chúa sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng và sẽ phạt tội chúng: chúng sẽ hướng về Ai-cập".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 113B, 3-4. 5-6. 7-8. 9-10
Ðáp: Nhà Israel! cậy tin vào Chúa (c. 9a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Thiên Chúa chúng ta ngự trên trời, phàm điều chi Người ưng ý, Người đã thực thi. Thần tượng của họ bằng bạc với vàng, đó là sự vật do tay người tác tạo. - Ðáp.
2) Chúng có miệng mà không nói năng; chúng có mắt mà không nhìn thấy; chúng có tai mà chẳng khá nghe; chúng có mũi mà không biết ngửi. - Ðáp.
3) Chúng có tay mà không sờ mó; chúng có chân mà chẳng bước đi. Sẽ nên giống y như chúng, bao nhiêu kẻ làm ra và cậy tin vào chúng. - Ðáp.
  
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta". - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 9, 32-38
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, người ta đem đến Chúa Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông dân chúng kinh ngạc và nói rằng: "Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong dân Israel". Nhưng các người biệt phái nói rằng: "Ông ta đã nhờ tướng quỷ mà trừ quỷ".
Và Chúa Giêsu đi rảo khắp các thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Người liền bảo môn đệ rằng: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Nhu Cầu Truyền Giáo
 Nhờ tiếp xúc với người dân, Chúa Giêsu có thể nhận thấy đời sống thực tế của họ. Thánh sử Mátthêu nói rõ: "Thấy dân chúng đông đảo, Ngài chạnh lòng thương, vì họ lầm than, vất vưởng, như chiên không người chăn dắt". Ðứng trước thảm trạng này, Chúa Giêsu gợi ý để các môn đệ của Ngài suy tư: "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít".
Quan niệm Cựu Ước về các chủ chăn của dân là quan niệm rộng rãi và ám chỉ vừa các thẩm phán, vừa các tư tế và tiên tri. Hình ảnh rất quen thuộc với nền văn hóa của các dân du mục. Chính tổ tiên của họ cũng là những người chăn chiên, như Môsê, Ðavít. Yêrêmia và Êzêkiel đã báo trước là chính Thiên Chúa sẽ trở nên người chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Lời tiên tri này đã được thực hiện đầy đủ nơi Chúa Giêsu, vị Mục Tử nhân lành chạnh thương và chăm sóc các con chiên của Ngài, đến nỗi hy sinh cả mạng sống cho chúng. Như vậy, các Kitô hữu có thể tin tưởng tiến bước, bởi vì họ biết rằng Chúa là mục tử của họ.
Hình ảnh về mùa gặt hái đã được các Tiên Tri dùng để chỉ Nước Chúa Cứu Thế sau này. Thời kỳ sau cùng là thời kỳ gặt hái thu lượm, nghĩa là lúc Thiên Chúa đến phán xét trong ngày tận thế. Chính Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa. Giai đoạn sau cùng của lịch sử đã bắt đầu với việc Nước Thiên Chúa đến; tất cả đều sẵn sàng, nhưng thiếu thợ gặt. Thế giới ngày nay như một cánh đồng mênh mông, nơi có rất nhiều linh hồn sẵn sàng đón nhận Nước Trời nhưng phải có người chỉ đường cho họ. Chúa muốn cứu thế gian và Ngài kêu gọi sự cộng tác của con người. Lời kêu gọi của Ngài vẫn có giá trị và khẩn cấp trong mọi thời đại.
Là người Kitô hữu, chúng ta có lo lắng để Nước Chúa được lan rộng tới các tâm hồn không? Ðức tin của chúng ta có sống động bằng việc làm cụ thể hay chỉ là đức tin chết?
Xin Chúa đổ tràn tâm hồn chúng ta lửa nhiệt tâm truyền giáo. Xin cho chúng ta thực sự trở nên chứng nhân của Chúa bằng lời nói, việc làm, nhất là bằng lời cầu nguyện và gương sáng.

Veritas Asia



Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 14 TN2, Năm Chẵn
Bài đọcHos 8:4-7, 11-13; Mt 9:32-38.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cần có các nhà lãnh đạo biết kính sợ Chúa để chăm sóc dân chúng.
Tiêu chuẩn đầu tiên và quan trọng nhất để chọn các nhà lãnh đạo là họ biết kính sợ Thiên Chúa. Những nhà lãnh đạo biết kính sợ Thiên Chúa luôn được Ngài chúc lành và bảo vệ. Vì vậy, dân chúng dưới quyền họ cũng biết kính sợ Thiên Chúa và được chúc lành. Đọc lịch sử Cựu Ước, chúng ta tìm thấy hai nhà lãnh đạo sáng chói là tổ phụ Abraham và vua David. Tổ phụ Abraham luôn vâng lời làm theo ý Thiên Chúa cho dù ông không hiểu được lý do. Vua David tuy yếu đuối phạm tội; nhưng vẫn biết khiêm nhường để thống hối ăn năn.
Các bài đọc hôm nay nêu lên hậu quả của việc có những nhà lãnh đạo không biết kính sợ Thiên Chúa. Trong bài đọc I, ngôn sứ Hosea kết tội những nhà lãnh đạo của Israel đã không biết kính sợ Thiên Chúa và chạy theo tà thần. Hậu quả là họ hướng dẫn dân chúng theo đường lối của họ và bị làm nô lệ cho ngoại bang trong chốn lưu đày. Trong Phúc Âm, khi Chúa Giêsu dùng quyền lực Thiên Chúa để chữa một người bị câm, một điều mà dân chúng thú nhận chưa từng xảy ra trong Israel bao giờ; nhưng các kinh sư lại đổ tội cho Chúa: ông ấy dùng quyền lực của tướng quỉ mà trừ quỉ. Chúa Giêsu động lòng thương dân chúng vì họ sống vất vưởng như chiên không người chăn. Ngài khuyên họ hãy cầu nguyện với Thiên Chúa để Ngài gởi tới những chủ chăn thánh thiện đến gặt hái mùa màng về cho Thiên Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Hậu quả phải lãnh nhận do các nhà lãnh đạo không biết kính sợ Thiên Chúa.
1.1/ Phân ly chính trị và tôn giáo: Vua Solomon, mặc dù có tiếng là người khôn ngoan nhất, nhưng đã không biết kính sợ Thiên Chúa khi về già. Vua đã nghe lời xúi giục của các bà vợ Dân Ngoại để lập những bàn thờ cho họ thờ tà thần và chính vua cũng làm như thế. Tội thờ các thần ngoại của vua Solomon dẫn tới việc chia đôi đất nước, bắt đầu với thời của vua Jeroboam (1 Kgs 11:30-39).
Mặc dù việc chia đôi đất nước là do ý của Thiên Chúa; nhưng chính Ngài đã hứa với Jeroboam, Ngài sẽ chúc lành cho ông nếu ông trung thành thờ phượng Ngài và tuân giữ những điều Ngài chỉ dạy; nhưng ông đã không làm như thế. Lẽ ra vua Jeroboam phải tìm cách tham khảo ý của Thiên Chúa về việc phong vương cũng như thờ phượng; nhưng ông đã không làm cả hai điều. Đây là lý do ngôn sứ Hosea kết tội vương quốc Israel.
(1) Tôn vương các nhà lãnh đạo ngoài ý Chúa: “Chúng phong vương người mà Ta không chọn, tôn làm lãnh tụ kẻ Ta không biết.”
(2) Tạc tượng thần để thờ: Vua cho làm hai con bê bằng vàng và bắt dân phải thờ phượng, để họ khỏi tuôn xuống Jerusalem làm mồi cho vua Judah. Nhà vua nói với dân một điều hoàn toàn trái ngược với sự thật: “Đây là thần đã dẫn tổ tiên các ngươi ra khỏi Ai-cập!” Dân chúng chỉ biết làm theo lệnh nhà vua, vì nếu họ không làm theo, họ sẽ bị vua ra hình phạt. Làm riết rồi quen mà không cần suy nghĩ hỏi han gì nữa! Ngôn sứ Hosea theo lệnh của Đức Chúa giải thích: “Hỡi Samaria, hãy gạt bỏ con bê của ngươi – chúng làm Ta nổi giận. Chúng không chịu để cho Ta thanh tẩy mãi cho tới bao giờ? – Vì con bê đó là do Israel làm ra, do một nghệ nhân sản xuất, nó đâu phải là thần! Chắc chắn con bê của Samaria sẽ như thể mùn cưa.”
1.2/ Liên hệ giữa việc thờ phượng và việc giữ Lề Luật: Israel đã xây dựng nhiều bàn thờ mà không theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa. Ngôn sứ Hosea không kết tội việc xây dựng bàn thờ; nhưng kết tội việc xử dụng chúng: “Khi Ephraim đua nhau dựng bàn thờ, thì các bàn thờ ấy chỉ làm cho chúng phạm tội thêm.”
Tội chính yếu của họ là tội là không giữ Lề Luật. Họ nghĩ họ có thể dâng lễ vật thay cho việc giữ Luật. Những lời dạy của ngôn sứ Hosea về Luật thật quan trọng cho lịch sử tôn giáo của Israel: Việc không giữ Luật sẽ đưa tới việc thờ phượng sai: “Luật lệ của Ta, Ta có viết cho nó cả ngàn, thì nó cũng coi là xa lạ.” Những lễ vật dâng của người không giữ Luật chẳng những vô hiệu mà còn làm Thiên Chúa nổi giận: “Hy lễ dâng Ta thì chúng cứ dâng, chúng cứ ăn thịt đã sát tế,
nhưng Đức Chúa sẽ chẳng đoái hoài.”
Làm ác phải đền tội: “Giờ đây Người sẽ nhớ lại sự gian ác của chúng, chúng đã phạm tội thì chúng sẽ phải đền: chúng sẽ phải trở về Ai-cập.” Trở về Ai-cập không có nghĩa sẽ qua lại Ai-cập; nhưng phải chịu thân phận người nô lệ một lần nữa.
2/ Phúc Âm: “Anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”
2.1/ Chúa Giêsu đi khắp nơi để chữa lành và rao giảng Tin Mừng: Trong 3 năm công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã lang thang khắp miền Palestine để rao giảng Tin Mừng và chữa lành các vết thương hồn xác cho con người. Tuy thế, Ngài cũng gặp biết bao chống đối từ các kinh sư, luật sĩ, và nhà cầm quyền Rôma. Trình thuật hôm nay là một trường hợp điển hình.
(1) Hai phản ứng trước phép lạ Chúa Giêsu trục xuất quỉ ám ra khỏi người câm:
+ Dân chúng kinh ngạc, nói rằng: “Ở Israel, chưa hề thấy thế bao giờ!” Người chất phác thành thật thấy sao nói vậy; họ không bị ảnh hưởng bởi thành kiến và các tính toán lợi nhuận.
+ Nhưng người Pharisees lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỷ vương mà trừ quỷ.” Họ buộc tội Chúa có liên hệ với quỷ vương để khỏi phải tin và giữ những gì Chúa dạy. Hơn nữa, họ không muốn toàn dân tin theo Chúa vì họ sẽ mất uy quyền, thế lực, và những lợi nhuận vật chất.
(2) Phản ứng của Chúa Giêsu: Chẳng quan tâm đến những lời phê bình của họ, Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Ba việc tông đồ Ngài làm gương cho chúng ta:
+ Dạy dỗ: để dân chúng biết đâu là sự thật từ biết bao điều sai trái trong thế gian.
+ Rao giảng Tin Mừng: loan báo tình yêu vô biên của Thiên Chúa dành cho con người, và chỉ đường cho con người biết sống làm sao để đạt được hạnh phúc muôn đời bên Ngài.
+ Chữa lành mọi vết thương hồn xác: Chúa Giêsu cảm thương với những đau khổ hồn xác của con người. Ngài muốn mặc lấy để cứu chữa hay cất đi tất cả khổ đau mà con người phải chịu.
2.2/ Chúa Giêsu lo lắng nhân loại không đủ người dẫn dắt: Không phải chỉ lo cho thế hệ đương thời, Ngài còn lo cho các thế hệ tương lai. Chỉ một câu vắn vỏi, nhưng đã lột tả hết sự quan tâm của Chúa Giêsu: “Khi Đức Giêsu nhìn thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.” Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Khi chúng ta phải lựa chọn người lãnh đạo, hãy lựa chọn người biết kính sợ Thiên Chúa như vua David. Tuy ông không có kinh nghiệm, Đức Chúa đã làm mọi việc qua ông.
– Chúng ta hãy cầu nguyện để xin Thiên Chúa sai những nhà lãnh đạo biết kính sợ Ngài đến chăm sóc dân chúng, và dạy cho dân luôn biết kính sợ Thiên Chúa và giữ Luật của Ngài. 
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP


10/07/18 – THỨ BA TUẦN 14 TN
Mt 9,32-38

GIÁO DỤC CÁI TÂM
Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng. (Mt 9,36)

Suy niệm: “Sẽ là sỉ nhục tôi, nếu hỏi tôi định giá Viện Tim là bao nhiêu.” Vâng, chỉ một câu nói thôi, nhưng đã gói ghém cả tấm lòng, tình thương, và trách nhiệm của bác sĩ A. Carpentier, người đã sáng lập Viện Tim ở Sài Gòn. Cũng vậy, chỉ một câu Tin Mừng ngắn gọn (9,36), Mát-thêu đã diễn tả trọn vẹn tấm lòng, tâm tình, và trách nhiệm của Đức Giê-su với đám đông vô danh. Trước tình cảnh cùng khốn của dân chúng, trái tim Ngài thổn thức, xúc động mãnh liệt; lòng trắc ẩn thương cảm sâu đến tận đáy lòng. Đám đông lầm than vất vưởng vì bị hướng dẫn do những nhà lãnh đạo tôn giáo vô tâm, bị cai trị do những quan chức tham lam, tàn bạo. Đó cũng là tình cảnh của đám đông dân chúng ngày nay tại nhiều nơi.
Mời Bạn: Mọi điều đáng tiếc và đáng sợ nơi con người và xã hội thời nay đều phát xuất từ tình trạng thiếu tình yêu hay yêu không đúng đắn. Do đó, liệu pháp cần thiết là giáo dục trái tim hay cái tâm của con người (Đức Bênêđitô 16). Mời bạn chú tâm giáo dục trái tim mình nên giống Trái Tim Chúa qua tâm tình chạnh lòng thương trước nỗi khổ của người khác.
Chia sẻ: Người Ki-tô hữu có thể làm những việc cụ thể nào để giảm nhẹ đau khổ của đám đông dân chúng hiện nay?
Sống Lời Chúa: Tập chạnh lòng thương qua việc không bằng lòng khi mình sở hữu quá nhiều, đang khi người chung quanh quá thiếu thốn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ Chúa đã chạnh lòng thương truớc nỗi khổ của chúng con. Xin cho chúng con biết giáo dục trái tim mình nên giống Trái Tim Chúa hơn. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)


Sai thợ ra gặt lúa (10.7.2018 – Thứ ba Tuần 14 Thường niên)

Suy niệm
Phép lạ Đức Giêsu chữa người câm là phép lạ cuối
của chuỗi mười phép lạ trong hai chương 8 và 9 của Tin Mừng Mátthêu.
Mátthêu đã kể lại phép lạ này với rất ít chi tiết.
Người ta coi bệnh câm của anh này là do quỷ ám.
Khi quỷ bị trục xuất thì người câm nói được.
Không thấy Đức Giêsu đã làm gì hay nói gì để trừ quỷ.
Nhưng quyền năng của Ngài được lộ ra khi người câm cất tiếng nói.
Có hai phản ứng ngược nhau trước phép lạ.
Đám đông thì kinh ngạc và nói : “Ở Israel, chưa hề thấy thế bao giờ.”
Họ đứng trước một điều hết sức mới mẻ khiến họ ngỡ ngàng (c. 33).
Người câm nói được là một dấu chỉ cho thấy Nước Trời đã gần,
thời đại thiên sai đã đến, Đấng Thiên sai đã ở kề bên.
Đức Giêsu đã làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia tiên báo:
“miệng lưỡi người câm sẽ reo hò” (35, 6).
Nhưng những người Pharisêu lại nghĩ khác.
Họ không phủ nhận quyền năng trừ quỷ của Đức Giêsu,
nhưng họ lại cho rằng Ngài đã bắt tay với quỷ vương để trừ quỷ (c. 34).
Đây là phản ứng đầu tiên có tính thù nghịch công khai của người Pharisêu.
Phần còn lại của bài Tin Mừng là một bản tóm lược
về các hoạt động của Đức Giêsu: dạy dỗ, rao giảng, và chữa bệnh (c. 35).
Tất cả cuộc sống của Ngài như dành trọn cho đám đông.
Đôi chân Ngài đi khắp các thành thị, làng mạc và hội đường.
Đôi môi Ngài không ngớt đem tin vui đến cho những người mong đợi.
Đôi tay Ngài chạm đến những bệnh tật yếu đau của con người.
Nhưng trên hết vẫn là chuyện Đức Giêsu chạnh lòng thương (c. 36).
Chạnh lòng thương là nhói đau ở chỗ sâu bên trong của ruột gan mình.
Thấy thì thương: đó luôn là cái nhìn của Đức Giêsu trước đám đông.
Ngài thấy họ như chiên không có người chăn dắt, lãnh đạo.
Chính vì thế họ bị rơi vào tình cảnh vất vưởng lầm than.
Đức Giêsu không đau xót về chuyện bệnh tật thân xác của đám đông.
Ngài quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu tâm linh của con người.
Con người đánh mất ý nghĩa cuộc sống, thấy bơ vơ, cô độc, tuyệt vọng.
Con người loại trừ Thiên Chúa, để rồi rơi vào sa đọa, chán chường.
Đức Giêsu đến như người mục tử chăm sóc mọi mặt cho đoàn dân.
Cách đây hai ngàn năm, Đức Giêsu đã than về chuyện ơn gọi.
Đồng lúa thì bao la mênh mông, mà thợ gặt thì ít.
Ngài mời các môn đệ của mình cầu nguyện nài xin với Thiên Chúa.
Đồng lúa là của Thiên Chúa, thợ gặt cũng là của Thiên Chúa sai đến.
Nước Việt Nam chúng ta cũng cần bao thợ gặt.
Có bao nhiêu tỉnh thành làng mạc còn thiếu linh mục, thiếu nữ tu.
Số linh mục mới chịu chức không đủ bù cho các vị về hưu và qua đời.
Làm sao để các bạn trẻ thấy con người hôm nay và chạnh lòng thương?
Làm sao để họ muốn dấn bước lo cho đám đông như Giêsu?
Lời nguyện
Lạy Cha là người chủ ruộng tốt lành,
đồng lúa đã chín vàng chờ ngày gặt hái.
Xin Cha sai những người thợ lành nghề và tận tụy
đến làm việc trong cánh đồng bao la của Cha.
Xin Cha gieo vào lòng các bạn trẻ hôm nay
những ước mơ lớn lao, những lý tưởng cao cả.
Xin cho họ
biết quên hạnh phúc và tương lai của mình
để yêu tha nhân bằng trái tim rộng mở.
Ước gì họ nghe được tiếng kêu của người bị áp bức,
cảm được cơn đói khát Lời Chúa và tình thương,
thấy được những mất mát của bao người đau khổ,
và chạm đến sự trống vắng của tâm hồn lạc hướng.
Xin Cha sai Thánh Thần đến với các bạn trẻ
để họ quảng đại đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu,
sống như Ngài đã sống
và tiếp tục làm những gì
Ngài đã làm trên trần gian.
Cũng xin Cha
gìn giữ gia đình và giáo xứ chúng con,
thanh lọc bầu khí của trường học và xã hội,
để tất cả trở thành những môi trường tốt
giúp các bạn trẻ dễ dàng tìm gặp ý Cha. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG BẢY
Hậu Quả Cay Đắng Của Sự Tự Do Sai Quấy
Trên hành trình đào sâu nhận thức về mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta thường phải đối diện với vấn nạn này: Nếu Thiên Chúa hiện diện và điều hành mọi sự, thì làm sao con người có thể tự do được? Và nhất là, đâu là ý nghĩa và vai trò của tự do trong đời sống chúng ta? Và đâu là hậu quả cay đắng của tội lỗi gây ra do sự tự do sai quấy? Làm sao có thể hiểu tất cả những điều này trong ánh sáng của sự quan phòng thần linh?
Chúng ta hãy nhớ lại giáo huấn của Công Đồng Vatican I: “Tất cả những gì Thiên Chúa đã tạo thành thì Ngài giữ gìn và điều khiển với sự quan phòng của Ngài – sự quan phòng mở rộng từ chân trời này đến chân trời kia và cai quản mọi sự một cách tốt đẹp (Kn 8,1). Mọi sự đều phơi bày rõ ràng trước mắt Ngài (Dt 4,13), kể cả những gì diễn ra trong sáng kiến tự do của tạo vật” (DS 3003).
Mầu nhiệm quan phòng thần linh tác động trên tất cả thế giới tạo vật một cách thâm sâu. Trong tư cách là một diễn tả của sự khôn ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa, kế hoạch quan phòng đến trước chính công cuộc sáng tạo. Trong tư cách là một diễn tả quyền lực của Thiên Chúa, nó hướng dẫn và triển khai công cuộc ấy. Một cách nào đó, chúng ta thậm chí có thể nói rằng sự quan phòng được thực hiện trong chính công việc của nó. Đó là một sự quan phòng siêu việt, nhưng đồng thời nó cũng hiện diện trong mọi sự. Điều này áp dụng cho giáo huấn của Giáo Hội mà chúng ta vừa mới nhắc lại trên đây, nhất là khi vận dụng vào con người với lý trí và tự do của mình.
– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II



Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 10/7
Hs 8, 4-7.11-13; Mt 9, 32-38.

LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu đi khắp các thành thị làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”
            Tiếp liền sau khi Chúa Giêsu làm cho cô bé của vị thủ lãnh chết sống lại, Người ta đặt trọn niềm tin vào quyền năng của Chúa Giêsu; và người ta đem đến cho Người một người câm bị quỷ ám và Người đã trừ tên quỷ ra khỏi người câm và người câm nói được. Thay vì vui mừng và tạ ơn Thiên Chúa, nhóm Pharisêu lại bảo Người cậy dựa vào quỷ vương mà trừ quỷ. Mặc dầu vậy Người vẫn tiếp tục sứ điệp: “Loan báo Tin Mừng Nước Trời trong mọi nơi và mọi lúc không ngưng nghỉ.
            Lạy Chúa Giêsu, trong mỗi người chúng con đây cũng đang tích cực vì sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời theo khả năng mà Chúa đã ban cho, có khi chúng con cũng bị những người chung quanh nhạo báng. Xin cho chúng con nhìn vào Chúa. Với Chúa mà người ta còn cho Chúa dựa vào “quỷ vương” thì xin cho chúng con biết khiêm nhường thinh lặng mà tiếp tục công việc tông đồ mà Chúa đang muốn chúng con sống và thực hiện.
Mạnh Phương


10 Tháng Bảy
Lời Lãi Cả Thế Gian Ðể Làm Gì?
Có một lý tưởng để đeo đuổi, có một hướng đi cho cuộc đời: đó là nguồn hạnh phúc lớn lao cho con người.
Thông thường, những kẻ than thân trách phận, những con người bất mãn trong cuộc sống, những kẻ chán đời, không phải là những kẻ nghèo khổ, những người kiếm cơm kiếm gạo từng ngày, mà chính là những con người dư dả, giàu sang.
Thi sĩ Anh, Lord Byron, mặc dù sống trên nhung lụa, vẫn than thở: “Sâu bọ, ruồi nhằn, khổ đau là thức ăn hằng ngày của tôi”. Văn sĩ nổi tiếng của Pháp là Voltaire, mặc dù có một đời sống phú túc và danh tiếng vẻ vang, vẫn phải thốt lên: “Tận cùng của cuộc sống ấy là buồn thảm, khoảng giữa của cuộc sống là vô nghĩa và khởi đầu của cuộc sống ấy là thô bỉ… Phải chi tôi đừng sinh ra thì hơn”.
Talleyrand, một nhà chính trị nổi tiếng của Pháp vào thế kỷ thứ 19, sau một quãng đời sống trong nhung lụa và vinh quang, đã ghi lại trong tập nhật ký của mình nhân ngày sinh 83 như sau: “83 năm của đời tôi đã đi qua, không để lại một kết quả nào khác hơn là mệt mỏi, trong thể xác lẫn tâm hồn, một nỗi đắng cay khi nhìn về tương lai và chán chường khi nhìn lại quá khứ”.
Tại sao những con người trên đây đã tỏ ra đắng cay và thất vọng về cuộc sống? Thưa là bởi vì họ đã không tìm ra được mục đích của cuộc đời. Một cuộc đời không có mục đích thì chẳng khác nào một công trình xây dựng không đồ án. Với tất cả mọi vật liệu, nhưng nếu không có đồ án, người ta không thể kiến thiết được bất cứ công trình nào.
Một cuộc sống không có mục đích, một cuộc sống không có lý tưởng thường cũng chỉ kéo theo cay đắng, buồn sầu, bất mãn… Chúa Giêsu đã chẳng nói với chúng ta: “Lời lãi cả thế gian để làm gì, nếu để mất linh hồn?”.Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, phúc cho những ai hiền lành, phúc cho những ai khóc lóc, phúc cho những ai đói khát công chính, phúc cho những ai có lòng thương xót, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai kiến tạo hòa bình, phúc cho những ai bị bách hại vì Nước Trời… Trước khi công bố Hiến Chương của Hạnh Phúc ấy, Chúa Giêsu hẳn phải là con người hạnh phúc. Hạnh phúc đối với Chúa Giêsu không có nghĩa là không có nước mắt và đau khổ. Hạnh phúc đối với Chúa Giêsu không có nghĩa là được mọi may mắn trên cõi đời này. Hạnh phúc đối với Chúa Giêsu không có nghĩa là thành công trong cuộc sống này.
Ngài đã sống như một con người đau khổ. Ngài đã không trốn chạy khỏi đau khổ. Ngài đã không cất lấy đau khổ khỏi cuộc đời này.
Hạnh phúc của Ngài chính là tiếp nhận đau khổ, là đi vào cõi chết, nhưng không tiếp nhận đau khổ và đi vào cõi chết như một ngõ cụt, trái lại khai thông con đường dẫn đến sự sống. Cuộc đời đã có một hướng đi. Cuộc đời đã có một ý nghĩa, và đó chính là nguồn hạnh phúc đích thực của con người.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét