14/07/2018
Thứ Bảy tuần 14 thường niên.
Bài Ðọc I: (Năm
II) Is 6, 1-8
"Lưỡi tôi nhơ
bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh".
Trích sách Tiên tri
Isaia.
Năm vua Ozias băng hà,
tôi nhìn thấy Thiên Chúa ngự trên ngai cao, và đuôi áo của Người phủ đền thờ.
Các Thần Sốt Mến đứng trước mặt Người, mỗi vị có sáu cánh: hai cánh che mặt,
hai cánh phủ chân và hai cánh để bay. Các vị đó luân phiên tung hô rằng:
"Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, toàn thể địa cầu đầy
vinh quang Chúa!" Các nền nhà đều rung chuyển trước tiếng tung hô, và Ðền
thờ đầy khói.
Tôi nói rằng: "Vô
phúc cho tôi, tôi chết mất! Vì lưỡi tôi nhơ bẩn, mắt tôi trông thấy Ðức Vua,
Người là Chúa các đạo binh". Nhưng lúc đó có một trong các Thần Sốt Mến
bay đến tôi, tay cầm cục than cháy đỏ mà ngài đã dùng cặp gắp từ trên bàn thờ.
Ngài đặt than lửa vào miệng tôi và nói: "Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm
đến lưỡi ngươi, lỗi ngươi được xoá bỏ, tội của ngươi được tha thứ". Và tôi
nghe tiếng Chúa phán bảo: "Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho Chúng
Ta?" Tôi liền thưa: "Này con đây, xin hãy sai con".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 92, 1ab.
1c-2. 5
Ðáp: Chúa làm Vua, Ngài đã mặc thiên oai (c. 1a).
Xướng: 1) Chúa làm
Vua, Ngài đã mặc thiên oai, Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. - Ðáp.
2) Và Ngài giữ vững địa
cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở; tự đời
đời vẫn có Chúa. - Ðáp.
3) Lời chứng bảo của
Ngài rất đáng tin; lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn
muôn ngàn đời. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 27
Alleluia, alleluia! -
Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều
lạ lùng của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 24-33
"Các con đừng
sợ những kẻ giết được thân xác".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ không hơn chủ
mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là khá rồi. Nếu họ
đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của Ngài. Vậy các con đừng
sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì
kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy
nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.
"Các con đừng sợ
kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con hãy sợ Ðấng
có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với
một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không
biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng
sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy ai tuyên
xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy là
Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó
trước mặt Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðừng sợ
người đời
Mahatma Gandhi, nhà
tranh đấu bất bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ, đã có lần
nhắn nhủ các môn sinh như sau: "Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy
suy nghĩ điều đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao giờ dùng bạo
lực đáp trả bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của những người
dùng bạo lực. Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng và trạng
thái thú hóa của họ. Chúng ta hãy sống như con người. Những người dùng bạo lực
có thể đánh đập và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không thể giết được tinh
thần và quyền lợi của chúng ta, họ không thể giết được sự thật. Sự thật và tình
thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật và tình thương,
bởi vì nếu sống theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở thành mù
lòa".
Ðã từng vào tù ra
khám, đã từng bị đánh đập hành hung, con người đã nói những lời trên đây chưa một
lần tỏ ra sợ sệt. Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của một người quá
khích. Cái chết của ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất bạo động mà
ông đã đề ra.
Sẵn sàng chết để làm
chứng cho sự thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của linh hồn con
người, Mahatma Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo lời Chúa dạy
trong Tin Mừng hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước các cường lực
sự dữ, không sợ hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng không làm gì được
linh hồn; sống trung thực với phẩm giá của con cái Chúa, không để mình rơi vào
tình trạng hóa thú và nô lệ cho bạo lực: "Các con đừng sợ những kẻ giết được
thân xác, mà không giết được linh hồn".
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta nhìn vào thực tế cuộc sống và tỏ ra thái độ phù hợp với người có lòng
tin. Từ chuyện phải vất vả kiếm sống đến chuyện tương lai của con cái và những
khó khăn trong việc sống đạo, chúng ta được mời gọi để múc lấy ánh sáng của Tin
Mừng và chiếu dọi vào những thực tế ấy. Là người Kitô hữu, tôi phải sống những
thực tại ấy thế nào? Lý tưởng của tôi là tìm mọi cách để có nhiều của cải vật
chất hay là tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính trước?
"Môn đệ không hơn
Thầy, tôi tớ không hơn chủ". Chúa Giêsu đã đi con đường của nghèo khó,
thua thiệt, bách hại, thập giá, tha thứ và tha thứ cho đến cùng. Nhưng Chúa
Giêsu không chỉ đề ra cho chúng ta một lý tưởng, một con đường để đi theo, Ngài
chính là con đường, là sự thật và là sự sống. Chúng ta tin rằng nếu chúng ta kết
hiệp với Ngài, chúng ta sẽ được sức mạnh của Ngài để thắng vượt mọi gian nan thử
thách. Chúng ta cũng tin rằng bên kia những hao mòn và chết chóc trong thân
xác, tâm hồn chúng ta sẽ được mãi mãi kết hiệp với Ngài.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày
Một Tin Vui’)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Bảy Tuần 14 TN2,
Năm Chẵn
Bài đọc: Isa
6:1-8; Mt 10:24-33.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Ngôn sứ phải
nói những gì Thiên Chúa truyền.
Các bài đọc hôm nay tập
trung trong ơn gọi ngôn sứ và những gì ngôn sứ phải làm. Trong bài đọc I,
Isaiah tường thuật ơn gọi ngôn sứ của chính mình. Ơn gọi ngôn sứ bắt nguồn từ
Thiên Chúa, không do bởi con người, nhưng họ có tự do đáp trả. Họ được thánh hiến
và giáo huấn trước khi được sai đi để làm phát ngôn viên cho Thiên Chúa. Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ những gì phải làm và những gì không được
làm trước khi sai các ông lên đường.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thiên Chúa gọi Isaiah làm ngôn sứ cho Ngài.
1.1/ Ngôn sứ nhận thức được
sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi của mình.
Ngôn sứ Isaiah hoạt động
tích cực tại Jerusalem trong 4 đời vua: Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah. Triều
đại của vua Uzziah cai trị trong 50 năm chấm dứt một triều đại an lành và hạnh
phúc. Từ đó trở đi, các vua Judah kế tiếp và toàn thể dân chúng cũng chẳng khác
gì các vua của Israel. Họ sống kiêu ngạo xa Thiên Chúa, sống hưởng thụ, và sống
bất công với người nghèo.
Một trong những điểm đặc
biệt trong Sách của ngôn sứ Isaiah là muốn làm nổi bật sự thánh thiện của Thiên
Chúa và sự tội lỗi của con người. Trình thuật hôm nay là một điển hình. Thị kiến
hôm nay có lẽ xảy ra trong Đền Thờ Jerusalem. Hình ảnh các Seraphim có 6 cánh rất
phổ thông trong các quốc gia vùng Cận Đông. Khi các Seraphim tung hô “Thánh!
Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời
vinh quang Chúa!” các Ngài tuyên dương sự thánh thiện tuyệt đỉnh của Thiên
Chúa, không một ai trên bầu trời này thánh thiện như Ngài. Đền Thờ tỏa khói mịt
mù nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa với loài người, như Ngài đã từng hiện diện
với con cái Israel trong Cột Mây và Lều Hội Ngộ, khi họ lang thang 40 năm trong
sa mạc.
Khi nhận diện ra sự
thánh thiện vô cùng của Thiên Chúa cũng là lúc Isaiah nhận ra sự tội lỗi bất xứng
của mình, đến nỗi Isaiah phải thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là
một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã
thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!” Truyền thống Do-thái tin không một ai
nhìn thấy Thiên Chúa mà còn sống (Exo 33:20). Isaiah tin chắc ông sẽ phải chết
nếu Thiên Chúa không can thiệp.
1.2/ Ngôn sứ được thánh
hiến bằng lửa: Trình thuật kể: “Một
trong các thần Seraphim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã
dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ.” Thánh hiến bằng than hồng có lẽ là một hành động
biểu trưng cho sự thánh hiến tâm hồn của Isaiah. Chính hành động này đã làm cho
ngôn sứ Isaiah được sạch tội và khỏi phải chết, như lời sứ thần Seraphim tuyên
bố: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội.” Miệng
lưỡi của ngôn sứ là khí cụ quan trọng nhất trong sứ vụ của ngôn sứ; có lẽ đây
là lý do sứ thần đưa hòn than ấy chạm vào miệng ngôn sứ.
Ơn gọi ngôn sứ là ơn gọi
hoàn toàn tự nguyện: Thiên Chúa gọi và người được gọi đáp trả. Thiên Chúa mời gọi
ngôn sứ qua việc đặt câu hỏi: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Isaiah
được sự thúc đẩy từ bên trong đã mạnh dạn thưa: “Dạ, con đây, xin sai con đi.”
2/ Phúc Âm: Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa
ban ngày.
2.1/ Ba thái độ phải có của
người môn đệ Đức Kitô: Để trở thành môn đệ
trung thành của Đức Kitô, một người phải có ba thái độ sau:
(1) Sẵn sàng chấp nhận
gian khổ: “Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em.” Người môn đệ Đức Kitô
chắc chắn sẽ bị người đời bắt bớ, vì họ đã từng bắt bớ và giết Ngài. Chúa Giêsu
muốn các môn đệ Ngài phải nhớ rõ điều này: “Trò không hơn thầy, đầy tớ không
hơn chủ. Trò được như thầy, đầy tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà
người ta còn gọi là Beel-zebul, huống chi là người nhà.”
Trong khi rao giảng
hay làm việc tông đồ, người môn đệ chắc chắn sẽ gặp những người phê bình, chống
đối, đe dọa và bắt bớ. Lý do đơn giản là người môn đệ nói những điều người đời
không muốn nghe, và sự thật thì hay mất lòng. Một vài ví dụ dẫn chứng: người
môn đệ nói phải tuyệt đối trung thành trong ơn gọi gia đình đang khi khán giả
ngồi dưới đã từng ly dị; người môn đệ dạy phải hy sinh để báo hiếu cha mẹ đang
khi khán giả gởi cha mẹ vào các viện dưỡng lão; người môn đệ dạy phải sinh con
cái cho nhiều đang khi khán giả không muốn sinh thêm con.
(2) Không được sợ hãi
người đời: Nếu người môn đệ sợ làm người đời mất lòng, sợ bị phê bình hay bị chống
đối, người môn đệ sẽ không dám nói sự thật mà ông được kêu gọi để rao giảng;
ngược lại, ông sẽ tìm cách nói những gì mà khán giả thích, cho dẫu những điều
này không phải là những gì Chúa dạy. Đó là lý do Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ:
“Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ
lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. Điều Thầy nói với anh em lúc
đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên
mái nhà rao giảng.”
Khi làm chứng cho sự
thật, các môn đệ sẽ phải trả giá đắt, có thể phải hy sinh cả tính mạng như trường
hợp của các thánh tử đạo; nhưng các ngài sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho sự thật,
vì các ngài tin Thiên Chúa sẽ trả lại thân xác vinh quang, và cho linh hồn các
ngài được sống đời đời.
(3) Phải tin tưởng nơi
sự quan phòng của Thiên Chúa: Để dạy các môn đệ điều này, Chúa Giêsu đưa ra hai
ví dụ: Thứ nhất, chim sẻ: Ngài nói: “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải
không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Vậy anh
em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.” Thứ hai, tóc trên đầu:
Ngài nói: “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi.” Tóc trên đầu
con người quá nhiều và rụng xuống hàng ngày. Nếu một sợi tóc vô nghĩa rơi xuống
hàng ngày như vậy còn được Thiên Chúa quan tâm tới, huống hồ là số phận của những
người môn đệ Chúa.
Trong sự quan phòng của
Thiên Chúa, đau khổ là phương tiện Thiên Chúa dùng để thử thách niềm tin yêu của
con người dành cho Ngài. Nếu con người sợ hãi và trốn tránh đau khổ, con người
không chứng minh niềm tin yêu của họ dành cho Ngài.
2.2/ Phần thưởng cho những
môn đệ sống trung thành và làm chứng cho sự thật: Chúa Giêsu nói rõ ràng với các môn đệ: “Phàm ai tuyên bố
nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” Ngược lại, “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì
Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” Người nào
không dám tuyên xưng danh Thầy mình, không dám nói những sự thật Thầy dạy, người
ấy không phải là môn đệ Đức Kitô. Trong Ngày Chung Thẩm, Đức Kitô cũng không nhận
những người như thế trước mặt Cha của Ngài.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Ngôn sứ phải nói những
gì Thiên Chúa truyền, cho dù lời ấy người đời không thích. Khi người ngôn sứ
nói ngược lại những lời Thiên Chúa truyền, ông tuyên án cho chính mình.
– Mỗi tín hữu đều nhận
ơn gọi làm ngôn sứ cho những người có trách nhiệm. Chúng ta phải chu toàn bổn
phận được giao bằng việc trao ban cho tha nhân những lời dạy của Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
14/07/2018 – THỨ BẢY TUẦN 15 TN
Th. Ca-mi-lô Len-li Mt 10,24-33
VUI SỐNG THEO SỰ THẬT
“Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu
mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết.” (Mt 10,26)
Suy niệm: “Thật thà, thẳng thắn, thường
thua thiệt. Luồn lách, lươn lẹo lại lên lương”, điều mà các bạn trẻ ngày nay vẫn
thường truyền miệng, đã trở thành một thứ ca dao tục ngữ thời hiện đại, bởi vì
nó không chỉ là chuyện giễu cợt mà còn phản ánh một thực tại đau lòng trong đời
sống xã hội ngày nay. Rất nhiều người coi đó như những thủ đoạn cần thiết để tiến
thân, tạo nghiệp. Tuy nhiên, chống lại với não trạng đó, Chúa Giê-su mời gọi
các môn đệ vui sống trong sự thật. Nghĩa là dám đón nhận đau khổ, bắt bớ, và thập
giá để luôn vui sống trong Sự Thật và loan truyền Sự Thật ấy đến muôn người. Đó
là những người môn đệ đích thực, luôn sống trong bình an, ân sủng, và quan
phòng của Thầy. Không những thế, Chúa Giê-su còn khẳng định, những người đó sẽ
được chính Ngài tuyên xưng trước mặt Cha trong ngày sau hết.
Mời Bạn: Sống trong một xã hội mà sự
giả dối đã ăn sâu vào trong lối sống nếp nghĩ, đến độ sự trung thực vắng bóng
ngay cả trên bục giảng, thậm chí học sinh tiểu học cũng biết phải gian dối thế
nào để có những con điểm đẹp đẽ, – sống trong một xã hội như thế, – bạn có xác
tín vào lời Chúa rằng “Sự thật sẽ giải phóng bạn” (Ga 8,32)? Mời bạn “sống theo
sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới
Đức Ki-tô vì Người là đầu” (Ep 4,15).
Sống Lời Chúa: Quyết tâm luôn sống thật,
nói thật như Lời Chúa dạy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, “thuốc
đắng đã tật, sự thật mất lòng”, xin cho con biết đón nhận và vui sống sự thật
dù điều đó có đau lòng con.
(5 Phút Lời Chúa)
Thứ Bảy tuần 14 Thường
niên B (14.7.2018): "Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác" (Mt
10, 24-33)
Suy niệm
Trong bài Tin Mừng hôm qua, Đức Giêsu nhắc chúng ta đừng lo (c.19).
Hôm nay ba lần Ngài nhắc chúng ta đừng sợ kẻ bách hại (c. 26. 28.31).
Cuộc sống con người bị trói buộc bởi những nỗi sợ,
có lý và vô lý, đến từ bên ngoài hay từ bên trong trái tim.
Càng văn minh con người càng có nhiều nỗi sợ mới.
Nỗi sợ làm người ta mất tự do, mất bình an, mất vui…
Đừng sợ, Simon, khi Thầy gọi anh đi theo (Lc 5, 10).
Đừng sợ khi Thầy đi trên mặt nước mà đến (Mt 14, 27).
Đừng sợ sau khi thấy Thầy được biến hình (Mt 17, 7).
Đừng sợ, Giairô, dù con gái ông đã chết (Mc 5, 36).
Nỗi sợ có vẻ gắn liền với phận người mong manh.
Nhưng Đức Giêsu muốn giải phóng chúng ta khỏi mọi nỗi sợ.
Có người môn đệ sợ bị mất mạng, đến nỗi không dám rao giảng,
không dám tuyên nhận Thầy trước mặt người đời.
Đức Giêsu mời các môn đệ nói công khai giữa ban ngày, trên mái nhà,
điều mình nghe Thầy thì thầm trong đêm khuya (c. 27).
Họ không được giữ riêng cho mình điều đã lãnh nhận.
Đừng sợ cái giá phải trả cho việc rao giảng, làm chứng cho Thầy,
vì có điều gì còn quý hơn cả sự sống thân xác nữa (c. 28).
Trong Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng sợ chết, vì Ngài còn quá trẻ.
Nhưng Ngài đã không để cho nỗi sợ thắng mình,
khi dám nói tiếng “xin vâng”, buông đời mình trong tay Cha.
Cha lo cho cả những sinh vật bé nhỏ, tưởng như vô giá trị.
Chim sẻ là thức ăn rẻ tiền nhất vào thời Đức Giêsu.
Tiền lương một ngày mua được ba chục con chim sẻ.
“Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý Cha” (c. 29).
Cả đến sợi tóc trên đầu chúng ta cũng được Thiên Chúa đếm (c. 30).
Dù một sợi cũng được Thiên Chúa giữ gìn (Lc 21, 18).
Chính vì thế người Kitô hữu được giải phóng khỏi những nỗi sợ đeo đẳng.
Họ chẳng còn sợ ai, ngoài Thiên Chúa.
Vấn đề không phải là trở nên vô cảm, không biết sợ là gì.
Nhưng là biết sợ ai.
“Mày cùng chịu một án phạt mà không biết sợ Thiên Chúa ư?”
Anh trộm lành đã nói với người kia như vậy (Lc 23, 40).
Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi những nỗi sợ vu vơ,
để chúng ta được tự do, biết lo điều phải lo, biết sợ điều phải sợ.
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
Lm. Antôn Nguyễn
Cao Siêu, S.J
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
14 THÁNG BẢY
Được Trao Ban Những
Ân Sủng Đặc Biệt
Được dựng nên theo
hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài, con người là tạo vật hữu hình duy nhất
mà Đấng Tạo Hóa “nhắm đến vì chính nó” (MV 24). Thiên Chúa – Đấng cai quản thế
giới với sự khôn ngoan và quyền lực siêu việt của Ngài – trao cho con người mục
tiêu để đạt đến trong cuộc sống này. Nhưng con người cũng là một cứu cánh nơi tự
thân mình, không giống như các tạo vật khác. Con người cần đạt đến sự thành
toàn trong tư cách là một nhân vị được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống
như Ngài.
Được làm cho phong phú
với một ân huệ đặc biệt – và cũng là một trách nhiệm – con người có quan hệ mật
thiết với mầu nhiệm quan phòng thần linh. Chẳng hạn, chúng ta đọc thấy trong
Sách Huấn Ca: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người… Ngài mặc cho nó sức mạnh…
để chúng thống trị muông chim cầm thú. Ngài ban cho chúng trí khôn, lưỡi, mắt,
tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Ngài làm cho chúng đầy kiến thức thông
minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu. Ngài đặt con mắt mình vào tâm hồn
chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Ngài… Ngài còn ban kiến thức
cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự sống” (Hc 17,1.3.5-7.9).
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 14/7
Is 6, 1-8; Mt 10,
24-33.
LỜI SUY NIỆM: “Trò không
hơn Thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như Thầy, tớ được như chủ, đó là khá lắm rồi.
Chủ nhà mà người ta còn gọi là Bêendêbun, huống chi là người nhà.”
Chúa Giêsu đang cảnh báo với mỗi người chúng ta hôm nay, điều đã xãy ra cho Người
thì mỗi người Kitô hữu nhiệt thành cũng phải biết, để chờ đón xãy ra cho chính
mình khi sống và làm việc tông đồ. Nên mỗi người tín hữu phải can đảm, đừng có
sợ, bởi chúng ta có chân lý và đứng về phía chân lý, mỗi người chúng ta đang được
mang theo trên mình sứ điệp do chính Chúa Giêsu trao ban, để loan báo cho muôn
dân.
Lạy Chúa Giêsu. Thật là hạnh phúc cho chúng con, khi được làm con cái Chúa
trong phép Rửa Tội. Xin cho tất cả chúng con luôn tin tưởng vào sự quan phòng của
Chúa để luôn sống đức tin và làm vinh danh Chúa, nơi chốn mà Chúa đã đặt để cho
chúng con.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 14-07: Thánh
CAMILLÔ LELLIS
Linh Mục – (1550 –
1614)
Thánh Camillô Lellis
là con của ông Gioan Laliis, một hiệp sĩ danh giá trong quân đội của
Chales-Quint. Mẹ Ngài thuộc vào một gia đình thời danh nhất ở Neples. Từ những
năm đầu thời hôn nhân, họ có được một người con, nhưng lại bị cất đi ngay, khi
đứa bé còn ở trong nôi. Lúc bà Lellis 60 tuổi, sau bao lời cầu hôn khẩn thiết,
bà đã sinh ra Camillô vào ngày 25 tháng 5 năm 1550. Khi đang mang thai, bà đã
thấy mộng con trẻ mang trên ngực một hình thánh giá, có vô số trẻ em theo sau.
Mộng thấy vậy, bà lo sợ rằng mình sẽ sinh hạ một người con làm đầu bọn cướp,
Camillô mới sinh ra ít lâu thì mồ côi mẹ. Chưa được 6 tuổi, Ngài lại mồ côi
cha. Do những tai họa này, việc giáo dục Camillô bi bỏ mặc.
Những buổi đầu đời của
con trẻ đã chứng thực điều lo sợ của người mẹ là đúng. Camillô biếng nhác và
phóng túng, lao mình vào cuộc chơi. Đến tuổi 19, Ngài theo đuổi binh nghiệp và
năm năm sau Ngài xuất ngũ.
Người thanh niên này
phung phí hết tài sản và lâm cảnh cùng quẫn, phải làm phụ hồ cho công trình xây
cất nhà cho các cha Phanxicô. Tại Fermô, Ngài gặp hai thầy dòng và mến phục nết
đạo đức khiêm tốn của hai vị. Tự đáy lòng, Camillô nguyện một ngày kia sẽ nhập
dòng. Bỏ binh nghiệp, Ngài đến nhà dòng Phanxicô ở Aquila. Một người cậu của
Camillô giữ cổng nhà dòng này. Camillô kể lại cho ông nghe tất cả những gì đã
qua và xin được mặc áo dòng. Cha giữ cửa biết rõ quá khứ đau lòng của cháu, muốn
thử thách ơn kêu gọi bất ngờ này đã từ khước trong một thời gian.
Camillô lại rơi vào
cơn rối loạn. Ngài trở nên bất hạnh đến nỗi phải đi ăn xin cùng với một người
lính cùng khốn khổ như Ngài. Ngày lễ thánh Anrê năm 1574, Ngài ăn xin ở cửa nhà
thờ Manfredonia. Một lãnh chúa đi qua. Ong thương tình đề nghị Camillô làm việc
cho nhà dòng. Camillô nhận lời, ngày kia trước lời khuyên nhủ của một cha dòng,
Ngài động lòng và bật tiếng khóc.
– Lạy Chúa, thật là khốn
cho con. Tại sao con biết Chúa trễ quá ? Sao con có thể giả điếc làm ngơ trước
bao nhiêu lời mời gọi của Chúa như vậy được. Xin Chúa tha thứ cho con là đứa tội
lỗi khốn nạn. Xin hãy cho con đủ thời gian đền bù tội lỗi của con.
Lúc đó Camillô 25 tuổi.
Ngài xin nhập dòng ngày hôm đó và được nhận vào tập viện. Nhưng một mụn nhọt ở
chân mở miệng, Ngài phải đi chữa trị. Lành bệnh Ngài trở lại dòng, nhưng mụn nhọt
lại mở miệng. Các bác sĩ cho rằng ung nhọt này vô phương chữa trị. Ngài được nhận
vào một bệnh viện nan y ở Roma. Nơi đây Camillô nhận ra ơn gọi của mình. Ngài
thấy các nhân viên được trả lương như vô tâm trước nỗi đau đớn của các bệnh
nhân. Ngài tận tụy phục vụ các bệh nhân ngày đêm. Ngài còn qui tụ các bạn thành
một để thực hành đức ái nữa. Trên ngực họ đeo một thánh giá đỏ. Công việc nặng
nề và các bạn Ngài thường tỏ ra lo lắng. Camillô nhắc cho họ lời của thánh
Catarina thành Siêna:
– Hãy lo cho ta và ta sẽ lo lắng cho con.
– Hãy lo cho ta và ta sẽ lo lắng cho con.
Camillô được đặt cai
quản nhà thương, lệnh Ngài đưa ra là:
– Hãy phục vụ bệnh
nhân như phục vụ chính Chúa Giêsu vậy.
Để phục vụ hữu ích
hơn, Ngài đã theo lời khuyên của Đức Hồng Y Taragi để tiến tới chức linh mục.
Nhưng trở ngại quá lớn, vì học thức Ngài còn quá kém. Một thị kiến đã giúp Ngài
can đảm thắng vượt mọi khó khăn. Ngài thấy Chúa Kitô đưa tay ra nói:
– Camillô, con đừng sợ chi, cha sẽ giúp đỡ con và ở cùng con.
– Camillô, con đừng sợ chi, cha sẽ giúp đỡ con và ở cùng con.
32 tuổi, Ngài không mắc
cỡ khi ngồi với các em nhỏ để học vần Latinh. Sự kiên trì đã giúp người kinh viện
này vượt qua mọi khó khăn. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1584, Camillô thụ
phong linh mục và dâng thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ thánh Giacôbê. Vài tháng
sau, Ngài được trao phó cho cai quản nhà thờ Đức Bà hay làm phép lạ.
Tại đây, Ngài thiết lập
một tu hội. Anh em qui tụ quanh Ngài dấn thân phục vụ những người hấp hối ở bất
cứ nơi nào. Họ luôn trung thành với lời khuyên của Ngài: – Hãy hồi tâm để dâng
lên những lời kinh nguyện tắt và các bạn sẽ được nâng đỡ đặc biệt bên cạnh các
bệnh nhân. Chớ gì họ biết cầu xin ơn tha thứ, biết dâng cái chết của họ hợp với
sự chết của Chúa Giêsu Kitô và xin Người đón nhận linh hồn họ vào lòng nhân từ
Người.
Năm 1586, Đức giáo
hoàng Sixtô V chấp thuận chương trình của Ngài. Năm 1588, Ngài được gọi đến lập
tu viện ở Nappples. Nơi đây Ngài đã thực hiện những hành vi đức ái kỳ diệu đối
với các nạn nhân của một cơn dịch hạch.
Năm 1591, Đức giáo
hoàng Grêgôriô XV đã nâng tu hội của Ngài thành dòng tu, ngoài ba lời khấn còn
có lời khấn thứ tư là hiến thân phục vụ nhân loại đau khổ, dầu bởi bất cứ bệnh
tật nào. Dòng thánh Camillô phổ biến khắp nước Ý và còn phổ biến sang cả Pháp,
Tây Ban Nha.
Con người số tu sĩ và
nhà dòng ngày một nhiều. Tuy nhiên, lòng tin tưởng của Camillô vào Chúa quan
phòng thật vô bờ. Các chủ nợ lo âu hỏi Ngài: – Bao giờ cha mới trả hết nợ cho
chúng tôi ?
Ngài trả lời: – Đừng sợ
gì Thiên Chúa quyền năng không gởi cho chúng ta món tiền nào sáng mai sao ?
Các chủ nợ cười nói: –
Thời phép lạ đã qua rồi.
Nhưng rồi vài ngày
sau, Ngài được những túi tiền lớn đủ để trả nợ. Sự quan phòng cho thấy rằng các
phép lạ có mãi cho những ai phó thác cho Chúa.
Khi tuổi cao, Camillô
vẫn không giảm bớt những phục vụ bên cạnh các người đau khổ. Thấy vậy, các bệnh
nhân nói: – Cha nghỉ đi kẻo té ngã mất.
Nhưng các Ngài trả lời:
– Này các con, cha là nô lệ của các con, cha phải làm mọi sự có thể làm được để
phục vụ các con.
Đi từ giường này tới
giường khác, Ngài tự nhủ:
– Hạnh phúc tôi mong đợi
lớn lao đến nỗi mọi đau khổ đều thành niềm vui của tôi.
Kiệt sức vì công việc
và đau đớn, Camillô Lellis chỉ còn là một bộ xương. Khi thấy giờ chết tới gần,
Ngài vui sướng:
– Tôi vui mừng khi người
ta nói với tôi: nào ta đi về nhà Chúa.
Được đưa về phòng,
Ngài còn nói trong nước mắt: – Lạy Chúa, con biết con là một tội nhân ghê gớm.
Nhưng xin hãy cứu con nhờ lòng nhân lành Chúa.
Ngày 14 tháng 7 năm
1614 Camillô Lellis qua đời. Năm 1746, Đức giáo hoàng Bênêdictô đã suy tôn Ngài
lên bậc hiển thánh.
(daminhvn.net)
14 Tháng Bảy
Tự Do Ðích Thực
Trong tập thơ mang
tựa đề Gitanjali, thi hào Tagore đã có bài thơ về tù nhân như sau:
“Hỡi tù nhân, hãy
nói cho ta hay ai đã xiềng xích ngươi. Tù nhân đáp, thưa chính là chủ tôi. Tôi
đã muốn thắng vượt mọi người, bằng của cải và quyền lực, cho nên tôi đã vơ vét
vào kho tàng của tôi tất cả tiền bạc của chủ. Mệt mỏi vì cuộc chạy đua theo tiền
của tôi, cuối cùng tôi đã thiếp ngủ ngay trên chính giường của chủ tôi. Khi thức
dậy, tôi thấy mình đã bị giam hãm ngay trên kho tàng của tôi.
Hỡi tù nhân, hãy
nói cho ta hay ai đã rèn chiếc xích sắt này cho ngươi. Tù nhân đáp: tôi đã muốn
giam hãm tất cả thế giới, vì như thế tôi sẽ được tự do và không còn ai quấy rầy.
Ngày đêm, tôi đã dùng lửa, búa và chiếc dũa để rèn sợi xích này. Khi nó được
hoàn thành, và chiếc mốc cuối cùng được nối lại, tôi đã để cho sợi xích giam
hãm cả cuộc đời của tôi, khiến không có gì bẻ gãy được”.
Năm 1989, nước Pháp đã
mừng kỷ niệm 200 năm cuộc cách mạng 1789. Cùng với việc lật đổ chế độ quân chủ,
bản tuyên ngôn nhân quyền được công bố ngày 04 tháng 8 năm 1789 đã đánh dấu một
bước dài của nhân loại tiến đến tự do, dân chủ.
Nhưng oái oăm thay,
người ta đã nhân danh tự do để chống lại tự do và phạm không biết bao nhiêu tội
ác đối với con người. Nhân danh tự do, Robespierre đã giết hại 25 ngàn người
cũng như cấm chế nhiều quyền tự do trong đó cơ bản nhất là quyền tự do tôn
giáo.
Lịch sử cũng đã được lập
lại trong rất nhiều cuộc cách mạng sau này. Mới đây tại Trung Quốc, người ta đã
nhân danh tự do dân chủ để đạp đổ Nữ Thần Tự Do và sát hại không biết bao nhiêu
người đòi tự do.
Nhân danh tự do để chối
bỏ tự do của người khác, nhân danh quyền con người để chà đạp quyền sống của
người khác: đó là thảm trạng của không biết bao nhiêu cuộc cách mạng trong thời
đại ngày nay. Chính khi con người chối bỏ tự do và chà đạp quyền sống của người
khác là cũng chính lúc con người tự giam hãm mình trong nô lệ, nô lệ cho quyền
lực, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho bất an… Lắm khi con người tự rèn lấy cho
mình xích xiềng để tự chói lấy mình. Nhà tù ấy, sợi xích ấy chính là lòng tham
lam nơi con người: tham lam tiền của, tham lam quyền lực, tham lam danh vọng.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét