Hội nghị giữa Đức Thánh Cha và
các vị lãnh đạo Kitô
BARI. ĐTC và 19 thủ lãnh của các Giáo Hội Kitô đã trao đổi với
nhau tại Đền Thánh Nicola ở Bari đề các vấn đề của Trung Đông.
Trong Vương cung thánh đường, ở gian giữa, các băng ghế
dài được khiêng đi để đặt một bàn tròn lớn ở giữa, chung quanh là 20 chiếc ghế
hoàn toàn giống nhau, dành cho ĐTC và 19 vị thủ lãnh các Giáo Hội khác, trước mỗi
vị có một micro, và đàng sau mỗi ghế có một ghế dành cho các vị phụ tá của trưởng
phái đoàn. Ngoài ĐTC, các vị Thượng Phụ của Chính Thống, Chính Thống Đông
Phương, còn có đại diện của Giáo Hội Tin Lành Luther ở Thánh Địa, và một nữ mục
sư thuộc Hội đồng các Giáo Hội Kitô Trung Đông. Ngồi cạnh ĐTC là Đức TGM
Pierbattista Pizzaballa, dòng Phanxicô, Giám quản Tông Tòa Tòa Thượng Phụ Công
Giáo la tinh Jerusalem. Đức TGM có nhiệm vụ trình bày một bài giáo đầu, mở ra
cuộc đối thoại.
Cuộc đối thoại và thảo luận hoàn toàn dành riêng, nên
mọi người khác phải ra ngoài, ngoại trừ các vị phụ giúp các Thượng Phụ, các
thông dịch viên bằng 5 thứ tiếng được sử dụng là Ý, Arập, Hy Lạp, Anh và Pháp.
Ngoài ra cho các nhân viên thu hình mạch kín để các thông dịch viên có thể theo
dõi và thi hành công việc. Sau cùng ở trong một góc thánh đường có 4 ghế dành
cho ĐHY Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, ĐHY Angelo Becciu nguyên là Phụ tá quốc
vụ khanh, ĐHY Leonardo Sandri, Tổng trưởng Bộ các Giáo Hội Đông phương, va sau
cùng là ĐHY Kurt Koch, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh hiệp nhất các tín hữu Kitô.
Kết thúc cuộc gặp gỡ và trao đổi vào lúc quá 1 giờ
trưa, ĐTC và tất cả các vị ra ngoài nhà thờ, trước sự hiện diện của đông đảo
các tín hữu.
Lời đúc kết của ĐTC
Đứng tại thềm Nhà thờ thánh Nicola, ĐTC nói với mọi
người rằng:
”Sự hiện diện của các tín hữu Kitô ở Trung Đông sẽ có
tính chất ngôn sứ hơn nếu sự hiện diện ấy làm chứng nhiều hơn về Chúa Kitô vị
Vua Hòa bình (Xc IS 9,5). Chúa đã không cầm gương, nhưng yêu cầu các môn đệ hãy
xỏ gươm vào bỏ. Cả cuộc sống Giáo Hội chúng ta cũng bị cám dỗ theo những tiêu
chuẩn của thế giới, tiêu chuẩn quyền bính và lợi lộc, lèo lái và đồng lõa. Có tội
của chúng ta, không sống theo đức tin, làm lu mờ chứng tá. Chúng ta cảm thấy cần
phải tái trở về với Tin Mừng, là bảo đảm cho tự do chân chính, và cần cấp thiết
thi hành ấy ngay bây giờ, trong đêm đen của Trung Đông đang hấp hối. Như trong
đêm lo âu tại Vườn Giệtsimani, không phải sự bỏ chạy hoặc gươm giáo báo trước
bình minh rạng ngời của Phục Sinh, nhưng chính sự hiến thân theo gương Chúa.
Tin Mừng của Chúa Giêsu chịu đóng đanh và sống lại vì
tình thương, xuất phát từ Trung Đông, đã chinh phục tâm hồn con người qua các
thế kỷ, vì Tin Mừng ấy không gắn bó với quyền lực của trần thế này, nhưng gắn
bó với sức mạnh yếu đuối của thập giá. Tin Mừng thúc đảy chúng ta hằng ngày trở
về với các kế hoạch của Thiên Chúa, chỉ tìm thấy nơi Chúa an ninh và an ủi,
loan báo Chúa cho tất cả mọi người, bất chấp những khó khăn. Đức tin của những
người đơn sơ, chiếu tỏa ở Trung Đông, là nguồn mạch từ đó chúng ta cần kín múc
để giải khát và thanh tẩy như đã xảy ra khi chúng ta trở về nguồn cội, hành
hương đến Jerusalem, tại Thánh Địa hoặc các đền thánh ở Ai Cập, Giordani,
Liban, Siria, Thổ Nhĩ Kỳ và các nơi khác trong vùng.
Khích lệ lẫn nhau, chúng tôi đã đối thoại trong tình
huynh đệ. Đó là một dấu chỉ sự gặp gỡ và hiệp nhất cần luôn tìm kiếm, không sợ
sự khác biệt. Hòa bình cũng vậy, cần phải vun trồng cả nơi những thửa đất khô cằn
của những đối nghịch, vì ngày nay, không có con đường khác để tiến tới hòa
bình. Không phải những cuộc đình chiến được bảo đảm bằng các bức tường và thử sức
mạnh mang lại hòa bình, nhưng là ý chí thực sự lắng nghe và đối thoại. Chung
tôi đã quyết tâm tiến bước, cầu nguyện và làm việc, chúng tôi cầu mong cho nghệ
thuật gặp gỡ trổi vượt trên những chiến lược đụng độ, cầu mong những biểu dương
dấu hiệu quyền lực đe dọa nhường chỗ cho sức mạnh của những dấu chỉ hy vọng: những
người thiện chí và tín ngưỡng khác nhau không sợ nói chuyện với nhau, đón nhận
những lý lẽ của người khác và chăm sóc nhau. Chỉ như thế, khi lo liệu để không
ai bị thiếu cơm bánh và việc làm, phẩm gia và hy vọng, những tiếng la ó của chiến
tranh mới biến thành bài ca hòa bình.
Kêu gọi chấm dứt chiến tranh
ĐTC nói tiếp:
”Để thực hiện điều đó, điều thiết yếu là những ngừơi nắm
giữ quyền bính quyết liệt phục vụ hòa bình và không cho lo tư lợi của mình. Cần
chấm dứt sự thủ lợi của thiểu số trên lưng nhiều người khác. Cần chấm dứt những
vụ chiếm đất xâu xé các dân tộc, chấm dứt tình trạng sự thật phe phái trổi hơn
những hy vọng của dân. Chấm dứt việc lợi dụng Trung Đông để phục vụ cho những lợi
lộc xa lạ với Trung Đông.
Chiến tranh là tai ương bi thảm đang tấn kích Trung
Đông yêu quí. Chính dân nghèo là những nạn nhân trước tiên. Chúng ta hãy nghĩ đến
Siria bị tàn phá đau thương. Chiến tranh là con đẻ của quyền lực và nghèo đói.
Chúng ta chiến thắng chiến tranh bằng cách từ bỏ những chủ trương thống trị và
loại trừ nghèo đói. Bao nhiêu xung đột đã được hun đúc từ những hình thức cực
đoan và cuồng tín, dưới những danh nghĩa tôn giáo, nhưng trong thực tế chúng
xúc phạm đến danh Thiên Chúa là Hòa bình, và bách hại những người anh em từ lâu
vẫn sống cạnh mình. Những bạo lực từ xưa vẫn được nuôi dưỡng bằng võ khí. Không
thể lên tiếng nói về hòa bình trong khi lại âm thầm theo đuổi cuộc chạy đua rõ
trang ồ ạt. Đây là một trách nhiệm rất nặng đè trên lương tâm của các dân nước,
đặc biệt là những cường quốc. Ta đừng quên thế kỷ vừa qua, đừng quên các bài học
Hiroshima và Nagasaki. Đừng biến các lãnh thổ Trung Đông nơi Ngôi Lời hòa bình
đã sinh ra, thành những miền đen tối thinh lặng. Cần chấm dứt sự ngoan cố đối
nghịch nhau, chấm dứt sự khao khát lợi lộc, chẳng nhìn mặt ai, miễn là chiếm được
những mỏ dầu khí, không để ý gì đến căn nhà chung và không chút lo lắng dự về sự
kiện thị trường năng lượng điều khiển khi luật sống chung giữa các dân tộc.
Bảo vệ gia sản tinh thần của Trung Đông
ĐTC cũng nói rằng ”để mở ra những con đường hòa bình,
cần hướng nhìn về người đang kêu cầu sự sống chung huynh đệ với người khác. Cần
bảo vệ mọi sự hiện diện không những của các nhóm dân đa số mà thôi. Cần mở
toang tại Trung Đông còn đường dẫn tới quyền công dân chung, con đường dẫn tới
một tương lai được đổi mới. Cả các tín hữu Kitô cũng là những công dân với trọn
danh nghĩa, bình quyền với những người khác.
”Chúng ta rất lo lắng nhưng không thiếu hy vọng hướng
nhìn về Jerusalem thành phố của mọi dân tộc, thành duy nhất, thánh thiêng đối với
các tín hữu Kitô, Do thái và Hồi giáo toàn thế giới, cần phải bảo tồn căn tính
và ơn gọi của thành này, vượt lên trên những tranh biện và căng thẳng. Cần phải
tôn trọng qui chế hiện nay của Jerusalem theo những gì đã được cộng đồng quốc tế
quyết định và nhiều lần được các cộng đồng Kitô tại Thánh Địa yêu cầu. Chỉ có một
giải pháp thương thuyết giữa người Israel và Palestine, được cộng đồng các dân
nước mong muốn và cổ võ, mới có thể đưa tới một nền hòa bình ổn định và lâu bền,
bảo đảm sự chống chung của hai quốc gia cho hai dân tộc.
Sau cùng, ĐTC nhắc đến thảm trạng các trẻ em tại Trung
Đông, bị thiệt mạng trong các cuộc bao vây, hoặc trên tị nạn. Bao nhiêu trẻ em
phải sống giữa những nơi đổ vỡ, giữa bom đạn, thay vì tại trường học. Ước gì
nhân loại lắng nghe tiếng kêu của các trẻ em. Chính khi lau nước mắt các em mà
thế giới tìm lại phẩm giá của mình.
Kết thúc bài kết luận của ĐTC, một số em bé đã thả các
chim câu như dấu chỉ hòa bình.
Tiếp đến, ngài và các vị Thượng Phụ về tòa TGM Bari và
dùng bữa trưa, kết thúc Ngày suy tư và cầu nguyện hòa bình Trung Đông.
G. Trần Đức Anh OP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét