22/06/2020
Thứ Hai tuần 12 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm II) 2 V 17,
5-8. 13-15a. 18
"Chúa xua đuổi Israel khỏi mặt
Chúa và chỉ còn lại chi họ Giuđa".
Trích sách Các Vua quyển thứ hai.
Trong những ngày ấy, Salmanassar,
vua dân Assyria, xâm chiếm khắp miền và bao vây Samaria trong ba năm. Năm thứ
chín đời vua Hôsê, vua Assyria chiếm được Samaria, và đem dân Israel sang
Assyria, định cư họ ở Hala và ở Habor, gần sông Gozan, và trong các thành thuộc
nước Mêđia.
Xảy ra như thế, vì con cái Israel
phạm đến Chúa là Thiên Chúa họ, Ðấng đã đưa họ ra khỏi Ai-cập, khỏi quyền lực
Pharaon, vua nước Ai-cập. Họ đã thờ các thần ngoại bang; họ noi theo các tập tục
của dân ngoại mà Chúa đã xua đuổi trước bước tiến của con cái Israel, và họ đã
theo các nghi lễ mà vua Israel đã quy định.
Chúa đã dùng các tiên tri, các vị
tiên kiến mà khuyến cáo Israel và Giuđa rằng: "Các ngươi hãy cải tà quy
chính, hãy tuân giữ các điều răn và nghi lễ, theo đúng lề luật Ta đã dùng các
tiên tri tôi tớ Ta mà truyền cho cha ông các ngươi, và chuyển lại cho các
ngươi". Nhưng họ không muốn nghe. Họ cứ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ,
không muốn vâng phục Chúa là Thiên Chúa. Họ chối bỏ các huấn lệnh của Chúa và lời
giao ước Người đã ký kết với cha ông họ, và cả những mệnh lệnh rõ ràng Người đã
truyền, nên Chúa nổi giận dân Israel, và xua đuổi họ khỏi mặt Chúa. Chỉ còn lại
chi họ Giuđa mà thôi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 59, 3. 4-5. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, xin Chúa ra tay hữu phù trợ và nhậm lời chúng
con (c. 7b).
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, Ngài đã
hất hủi chúng con, Ngài đã làm cho hàng ngũ chúng con tan rã, Ngài đã thịnh nộ,
nhưng xin cho chúng con được phục hồi! - Ðáp.
2) Ngài đã rung động đất nước và
xâu xé, xin hàn lại chỗ đổ vỡ, vì nó đang xiêu té. Chúa để dân Ngài gặp những
thử thách cam go, Ngài cho chúng con uống thứ rượu say mê choáng váng. - Ðáp.
3) Ôi Thiên Chúa, há không phải
Ngài đã hất hủi chúng con ư? Ôi Thiên Chúa, Ngài đã không xuất trận cùng quân đội
chúng con. Xin Chúa giúp đỡ chúng con chống lại quân thù, vì sự hỗ trợ của người
trần là vộ hiệu quả. - Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! - Chúa phán:
"Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà
không qua Thầy". - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 7, 1-5
"Hãy lấy cái đà khỏi mắt
ngươi trước đã".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét
thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì
cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy. Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh
em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: "Ðể
tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh", và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Ðồ
giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy
cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Ðừng xét đoán
Augustin Goden trong khi còn là
sinh viên trường nghệ thuật ở Paris đã nổi tiếng về tài điêu khắc. Có một người
đàn bà giàu, nhưng chẳng biết gì về nghệ thuật đến nhờ Goden thiết kế một bức
tượng để đặt ở giữa vườn nhà bà. Người đàn bà đến xem bức tượng nhằm lúc ông
đang tiếp khách. Sau khi người đàn bà ra về, nhóm bạn hữu ra xưởng vẽ thấy
Goden đang nhảy múa cuồng loạn trước bức tượng. Ðược hỏi tại sao, Goden trả lời:
"Bởi vì người đàn bà không đồng ý về bức tượng, nên tôi vui mừng, vì biết
rằng tác phẩm của tôi có giá trị".
Mỗi lần chấm thi một bộ môn nào
đó, người ta thường mời những người chuyên môn về bộ môn ấy cho biết nhận xét.
Phải biết rõ vấn đề, con người mới hy vọng có được nhận xét xác đáng, nếu không
chỉ là những lời bâng quơ, thiên lệch. Chúa Giêsu đã không muốn những kẻ theo
Ngài vấp phải sai lầm này. Tự bản thân, con người chưa hiểu được mình, vì con
người có phần tinh thần ẩn khuất đằng sau thể xác. Những gì được phô diễn bên
ngoài mới chỉ là hình thức. Không thiếu những trường hợp cái hình thức bên
ngoài được dựng nên để che dấu cái sự thật bên trong, hoặc những tín hiệu gửi
đi chỉ được đón nhận một cách sai lạc, do thành kiến và ác ý.
Bởi thế, con người không thể tự
cho mình quyền xét đoán, phê phán người khác, mà chỉ có một mình Thiên Chúa, Ðấng
thấu suốt mọi sự. Ngài hiểu con người hơn chính họ và mời gọi con người hãy
nhìn vào bản thân mình: hãy nhìn vào mắt mình để lấy cái xà đã đóng chặt vào
đó, cái xà được kết tinh bằng bao lỗi lầm, thành kiến, ác ý. Lấy được cái xà, mắt
sẽ trong sáng, con người sẽ nhìn rõ sự vật.
Cái nhìn của đôi mắt không có cái
xà sẽ không còn là cái nhìn của phê phán, chỉ trích, nhưng là cái nhìn của Chúa
Giêsu, một cái nhìn đầy yêu thương, tha thứ, mang lại cho kẻ được nhìn niềm tin
yêu, hy vọng. Lêvi, người thu thuế, sẵn sàng bỏ mọi sự để theo Thầy; Zakêu, người
thu thuế trưởng, đã thành tâm hoán cải; Mađalêna dứt khoát từ bỏ con đường tội
lỗi. Tất cả đã chuyển hướng cuộc đời bởi cái nhìn từ ái bao dung của Chúa
Giêsu.
Ước chi lời cầu nguyện của thánh
Augustinô: "Xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con" cũng là lời
cầu nguyện của mỗi người chúng ta. Biết Chúa để thấy lòng quảng đại yêu thương
vô bờ của Chúa; biết mình để ý thức về sự yếu đuối, bất toàn của mình, nhờ đó
chúng ta sẽ dễ dàng rộng lượng với người khác như Chúa đã đối xử các đại lượng
với chúng ta.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Hai Tuần 12 TN2, Năm Chẵn
Bài đọc: 2 Kgs 17:5-8, 13-15a, 18; Mt
7:1-5.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị
Thiên Chúa xét đoán.
Con người thích xét đoán vì đó là
dịp để đề cao mình và giảm danh giá tha nhân. Không những xét đoán tha nhân,
nhiều người còn nghi ngờ quyền năng Thiên Chúa và xét đoán luôn cả sự quan
phòng của Ngài. Họ chất vấn hay than phiền những đau khổ Thiên Chúa bắt họ phải
chịu. Con người xét đoán không năng xét mình; vì thế, họ thấy họ tốt lành;
nhưng nếu họ chịu khó xét mình, họ sẽ thấy họ mang đầy những khuyết điểm, và sẽ
không dám xét đoán tha nhân. Con người dễ xét đoán, vì họ nghĩ chẳng có ai rỗi
hơi kiểm điểm những lời xét đoán của họ; nhưng nếu họ biết Thiên Chúa là Đấng
thấu suốt mọi sự, họ sẽ cẩn thận hơn khi phải xét đoán tha nhân.
Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật
những lý do tại sao con người hãy năng xét mình và đừng xét đoán tha nhân.
Trong bài đọc I, tác giả Sách Các Vua II nêu rõ những lý do tại sao vương quốc
Israel thất thủ và toàn thể dân chúng bị lưu đày: vì họ đã quay lưng lại với
Thiên Chúa và thờ các thần ngoại bang và không giữ những Lề Luật Thiên Chúa đã
ra cho cha ông họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ đừng xét đoán;
nhưng hãy biết xét mình trước. Hãy “lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi
anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Tại sao Thiên Chúa để Assyria chinh phục Israel?
1.1/ Israel bị thất thủ và bị lưu
đày bên Assyria: Vua Assyria tiến đánh
Israel, đến Samaria và vây hãm thành này ba năm. Năm 721 B.C., vua Assyria chiếm
được Samaria và đày Israel sang Assyria. Vua cho họ định cư ở Halah, và ở ven
sông Habor thuộc vùng Gozan, và trong các thành xứ Medes.
Nhiều người Do-thái tự hỏi tại
sao Đức Chúa lại để dân riêng của Người rơi vào tay vua Dân Ngoại Assyria? Vẫn
biết con cái Israel đắc tội với Đức Chúa; nhưng Dân Ngoại còn mắc tội nhiều và
nặng hơn. Lý do Đức Chúa phải sửa phạt không phải vì Ngài ghét bỏ dân chúng;
nhưng là để cho họ có cơ hội xét mình và nhận ra những tội lỗi họ đã xúc phạm đến
Ngài. Trong khi con cái Israel lưu đày, Đức Chúa vẫn không ngừng sai các ngôn sứ
của Ngài đến an ủi và khuyên bảo dân chúng hãy giữ vững niềm hy vọng. Ngài sẽ cứu
dân dù chỉ còn sót lại một nhóm nhỏ và sẽ cho họ về lại quê hương.
1.2/ Nguyên nhân của việc thất thủ
và lưu đày: Trong nơi lưu đày, rất nhiều các
ngôn sứ và dân đã có cơ hội xét mình và nhận ra những tội tày trời họ đã xúc phạm
đến Đức Chúa. Một số tội chính được liệt kê ra hôm nay:
+ Họ đã quay lưng lại với Đức
Chúa và chạy theo thờ các thần khác.
+ Họ theo những thói tục của các
dân Đức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Israel và những thói tục các
vua Israel đã tạo ra.
+ Họ đã không nghe lời cảnh cáo của
các ngôn sứ và thầy chiêm; lại còn khinh dể, bắt bớ và bỏ tù các ngôn sứ của Đức
Chúa.
+ Họ đã không tuân giữ Lề Luật của
Đức Chúa.
Nói mãi không nghe, nên Đức Chúa
nổi cơn thịnh nộ với Israel và đẩy Israel cho khuất nhan Người. Chỉ còn lại chi
tộc Judah.
2/ Phúc Âm: Anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán
như vậy.
2.1/ Tuyệt đối không xét đoán: Chúa Giêsu truyền: "Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên
Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét
đoán như vậy.'' Có ít nhất 3 lý do ngăn cấm con người xét đoán tha nhân:
(1) Con người không biết hết hoàn
cảnh và các dữ kiện liên quan: Con người dễ phê phán tha nhân vì họ nhìn từ bên
ngoài; nhưng để phê phán đúng, họ phải đặt mình vào bên trong để hiểu hoàn cảnh
của đương sự. Ví dụ, một người nghèo đói phải ăn cắp để có của ăn nuôi sống là
điều hợp lý phải làm; chứ không phải trường hợp ăn cắp nào cũng xấu. Tục ngữ Việt-nam
có câu: "Có ở trong chăn mời biết chăn có rận." Hay trong truyện Kiều
của Nguyễn Du có câu: "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay." Nàng Kiều
phải bán mình để chuộc cha để trả ơn sinh thành nuôi dưỡng là điều một người
con hiếu thảo phải làm, chứ không phải trường hợp mãi dâm nào cũng bị kết án.
(2) Con người bị chi phối bởi rất
nhiều thành kiến: ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, giai cấp, liên hệ, quyền lợi ...
Một khi đã có những thành kiến, rất khó để con người phán đoán cách chí công vô
tư. Người Hy-lạp có thói quen phân xử nạn nhân trong phòng tối để tránh thành
kiến; nhưng cả hai bên vẫn có thể nghe tiếng nói của nhau và đoán được nguồn gốc
của nhau.
(3) Con người không sạch hoàn
toàn để phán xét: Trong câu truyện "Người phụ nữ ngoại tình" của Tin
Mừng Gioan, Chúa Giêsu thách thức những người đòi kết án và ném đá người phụ nữ:
"Ai trong các ông sạch tội, hãy quăng viên đá trước." Và họ dần dần
rút lui đến khi chỉ còn mình Chúa Giêsu, Đấng có quyền phán xét mọi người vì
Ngài không bao giờ phạm tội. Nhưng Ngài nói với chị: "Tôi cũng vậy, tôi
không phán xét chị. Thôi! chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Jn
8:12).
Có những trường hợp con người buộc
phải xét xử như: bề trên, quan tòa, cha mẹ ... Trong những trường hợp buộc phải
xét xử, hãy xét xử cách rộng lượng, phải có đầy đủ các dữ kiện, và theo sự hướng
dẫn của Thánh Thần, vì theo Lời Chúa cảnh cáo: "Anh em đong đấu nào, thì
Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em."
2.2/ Hãy kiểm điểm mình trước: Một trong những cách giúp con người đừng đóan xét tha nhân là
năng kiểm điểm bản thân mình. Khi con người thành thật với chính mình, họ tìm
ra trong người họ cũng đầy dẫy những tính hư, nết xấu, nhiều khi còn to lớn hơn
của tha nhân gấp bội. Nhận ra bản thân như thế, họ sẽ dễ dàng thông cảm và
không đoán xét tha nhân. Ngược lại, khi con người không năng xét mình, họ dễ
dàng đoán xét tha nhân, vì họ nghĩ họ sạch tội. Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ để
cảnh cáo hạng người này: ''Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em,
mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với
người anh em: ''Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn," trong khi có cả một
cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước
đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.''
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Khi gặp hoạn nạn, chiến tranh
hay thiên tai, chúng ta hãy nắm lấy cơ hội để xét mình xem tại sao Thiên Chúa để
những điều đó xảy ra. Chúng ta đừng kiêu ngạo và ngông cuồng kết án luôn sự
quan phòng của Thiên Chúa.
- Chúng ta cần tập thói quen tuyệt
đối không xét đoán tha nhân, vì đó không phải là việc của chúng ta. Trường hợp
vì bổn phận phải xét xử, hãy theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, có tất cả các bằng
chứng liên quan, hiểu hoàn cảnh của đương sự, và phán xét cách rộng lượng.
- Chúng ta dùng đấu nào đong cho
tha nhân, Thiên Chúa sẽ dùng chính đấu ấy mà đong lại cho chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên,
OP
22/06/20 THỨ HAI TUẦN 12 TN
Th. Pao-li-nô, giám mục Nô-la
Mt 7,1-5
Th. Pao-li-nô, giám mục Nô-la
Mt 7,1-5
“MÊ” GIÊ-SU Ở ĐIỂM NÀY!
“Anh em đừng xét đoán, để
khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị
Thiên Chúa xét đoán như vậy.” (Mt 7,1-2)
Suy niệm: Xét đoán. Bạn và tôi đã từng đoán xét ai chưa? Câu hỏi
này có lẽ sẽ đụng chạm đến chúng ta ngay. Đức giáo hoàng Phanxicô rất nhiều lần
nhắc nhở thói xét đoán, nói xấu, như căn bệnh trầm kha khó chữa lành. Chính Đức
Giê-su dạy ta đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Dĩ nhiên, chính Ngài cũng đã sống
lời khuyên này. Chúng ta hãy nhớ lại cung cách của Ngài trong câu chuyện người
phụ nữ phạm tội ngoại tình. Trong khi mọi người lên án phải ném đá chị, Ngài mời
gọi họ phải tự xét mình trước khi xét người. Rồi nhắc nhở chị về bình an và từ
nay đừng phạm tội nữa. Hay trên thánh
giá, Ngài xin Cha tha tội cho đội hành hình – ta quen gọi là quân dữ – dù họ đã
làm nhiều điều ác cho mình. Con người hôm nay thích bêu xấu người khác, đặc biệt
qua phương tiện truyền thông, quen gọi là “ném đá.” Là môn đệ Ngài, ta kính phục,
“say mê” Ngài, sống tinh thần khoan dung của Ngài.
Mời Bạn: Hôm nay, ngày mai, ngày mốt, bạn và tôi có dám chắc
là bỏ thói quen xét đoán này không? Chỉ khi bạn “say mê” Giê-su, muốn rập theo
cách sống của Ngài, chỉ khi tin tưởng, say mến Thiên Chúa, thì trái tim bạn mới
đủ lớn để sống như Giê-su: một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình.
Sống Lời Chúa: Thực hành cung cách sống của Đức Giê-su: nhẫn nại,
bao dung, luôn sẵn lòng tha thứ: “Vì tôi
đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.” (Ga 12,47).
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con
đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán. Amen.
(5 phút Lời Chúa)
Lấy xà ra khỏi mắt
Điều khó vẫn là thấy được cái xà trong mắt mình. Lẽ
ra tôi phải thấy ngay vì nó quá lộ liễu, ai cũng thấy. Nhưng nó khó thấy, vì
tôi không muốn thấy cái xấu của mình.
Suy niệm:
Mỗi ngày chúng ta đưa
ra biết bao nhận xét về người khác.
Thầy cô phải nhận xét
về học trò, cấp trên phải nhận xét về thuộc hạ.
Việc lượng giá về từng
cá nhân thường rất cần thiết và hữu ích.
Trong đời sống tu trì,
vẫn có chuyện anh em sửa lỗi cho nhau.
Nói chung, sống thì phải
đưa ra những phán đoán về người khác.
Nhưng làm sao để phán
đoán ấy không trở nên một xét đoán lệch lạc?
Đức Giêsu dạy ta biết
cách xét đoán qua bài Tin Mừng hôm nay.
“Anh em đừng xét
đoán”: thật ra Đức Giêsu không cấm mọi thứ xét đoán.
Ngài còn dạy các môn đệ
biết cách phân biệt ngôn sứ giả và thật (Mt 7,15),
phân biệt người xứng
đáng và người không xứng đáng (Mt 10, 11),
biết cách đề phòng
thói xấu của nhóm Xađốc và Pharisêu (Mt 16, 6).
Đức Giêsu chỉ đòi các
tín hữu sống trong cộng đoàn huynh đệ
phải tránh lối xét
đoán thiếu bao dung, khắc nghiệt,
mà quên chính mình
cũng có những lỗi lầm lớn hơn nhiều.
“Anh em xét đoán thế
nào, thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (c. 2).
Ngài muốn ta nhẹ tay
và nhân từ khi cần phải xét đoán người anh em.
Vì cái đấu ta dùng để
đong cho họ, Thiên Chúa sẽ dùng để đong cho ta.
Đấu đong đi càng lớn,
đấu đong lại càng đầy.
Chỉ cần thay đổi cái đấu
ta vẫn quen dùng, là cuộc đời của ta thay đổi.
Đức Giêsu dùng một
hình ảnh liên quan đến nghề mộc của Ngài,
để nói về chuyện người
đạo đức giả.
Đó là hình ảnh bụi mùn
cưa trong mắt người khác và cái xà trong mắt mình.
Một cái thì thật bé, một
cái thì to đến độ khó lòng ở trong mắt được.
Hình ảnh phóng đại này
hẳn làm ai cũng phải buồn cười.
Tôi thấy lỗi bé nơi
anh em, nhưng lại không để ý tới lỗi lớn nơi tôi.
Tôi hăng hái xin được
lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em,
nhưng lại rất khoan
dung với cái xà trong mắt mình.
Đức Giêsu hóm hỉnh
khuyên chúng ta nên lấy xà ra khỏi mắt trước đã,
rồi mới thấy tỏ tường
để lấy hạt bụi mùn cưa khỏi mắt anh em.
Điều khó vẫn là thấy
được cái xà trong mắt mình.
Lẽ ra tôi phải thấy
ngay vì nó quá lộ liễu, ai cũng thấy.
Nhưng nó khó thấy, vì
tôi không muốn thấy cái xấu của mình.
Càng có quyền, có chức,
có uy tín, có tuổi tác và kinh nghiệm,
càng khó chấp nhận nếp
nhăn nơi khuôn mặt mình.
Giá mà tôi thấy được
cái xà nơi mắt tôi,
chắc tôi đã không dám
đòi lấy hạt bụi nơi mắt người khác,
hay nếu có được ai nhờ
lấy đi nữa,
thì cũng chỉ lấy một
cách khiêm hạ, nhẹ nhàng.
Trong bài hát “Chúa
Hòa Bình” của Phạm Duy có câu:
“Nếu có ai lầm lỡ, rồi
sinh ra khắt khe…”
Chỉ mong chúng ta, nhờ
thấy mình lầm lỡ và đã được Chúa thứ tha,
nên sinh ra dễ cảm
thông với lỗi lầm người khác.
Cầu nguyện:
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng
thương cho con được thấy.
Xin cho con được thấy bản thân
với những yếu đuối
và khuyết điểm,
những giả hình và
che đậy.
Cho con được thấy Chúa hiện diện bên con
cả những khi con
không cảm nghiệm được.
Xin cho con thực sự muốn thấy,
thực sự muốn để cho
ánh sáng Chúa
chiếu dãi vào bóng
tối của con.
Như người mù ngồi bên vệ đường
xin Chúa dủ lòng thương cho con được thấy.
Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG SÁU
Thiên Chúa Mời Gọi Đích Danh Mỗi
Người Chúng Ta
Đồng thời, chúng ta cũng gặp thấy
nơi truyền thống một hành trình kiên thủ trong đức tin. Ở đây, Giáo Hội là bạn
đồng hành luôn sát cánh với con người. Giáo Hội luôn sẵn sàng khi con người yêu
cầu những cách thế mới của sự quan phòng của Thiên Chúa. Các Công Đồng Vatican
I và II, mỗi Công Đồng theo cách riêng mình, là những tiếng nói quí giá của
Chúa Thánh Thần mà chúng ta không được phép dửng dưng. Giáo Hội mời gọi chúng
ta suy tư lại về những chân lý sống động mà các Công Đồng ấy đã nêu ra, cũng
như suy tư lại về những tài liệu quan trọng của truyền thống.
Mọi câu hỏi nghiêm túc phải nhận
được một câu trả lời thấu đáo. Đó là lý do tại sao chúng ta đang liên hệ tới những
khía cạnh khác nhau của sự quan phòng thần linh trong nhiệm cục sáng tạo và cứu
độ. Vì thế , chúng ta hãy dành thời gian để suy tư về chân lý vĩnh cửu mãi mãi
tồn tại ấy. Đây là sự khôn ngoan siêu việt mà Thiên Chúa yêu thương con người
và mời gọi con người tham dự vào trong kế hoạch cứu độ của Ngài. Con người được
mời gọi nhận ra sự săn sóc ân cần của Thiên Chúa và hợp tác với ơn cứu độ của
Ngài.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan
Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John
Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 22 – 6
2V 17,5-8.13-15.18; Mt 7,1-5
Lời suy niệm: “Anh em đừng xét
đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em
cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy.”
Sự hiểu biết của mỗi con người đều
có những hạn hẹp của mình, nên khi sử dụng những hiểu biết của mình để xét đoán
một ai đó đều bất toàn, dẫn đến đoán xét sai, làm nguy hại đến thanh danh hay
tính mạng, công ăn việc làm của người khác, làm phương hại đến đời sống của những
người chung quanh. Nên Chúa Giêsu khuyên dạy con cái của Người đừng bao giờ xét
đoán bất cứ ai, quyền đoán xét thuộc về Thiên Chúa vì Ngài xét đoán với quyền
năng yêu thương và tha thứ cùng sự nâng đỡ để tất cả được nên tốt hơn.
Lạy Chúa Giêsu. Chúng con được sự
bao bọc bởi lòng thương xót và tình yêu của Chúa Cha. Xin cho chúng con đừng
đoán xét nhau; nhưng cho chúng con được ở trong tình thương tha thứ và cứu độ của
Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 22-06: Thánh GIOAN
FISHER
Giám Mục (1469 - 1535)
Thánh Gioan Fisher sinh tại
Beverly, Yorkshire là con của một thương gia giàu có. Cha Ngài đã qua đời năm
1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ gởi tới đại học Cambriage và đã trở thành một
học giả nổi danh. Năm 1941, Ngài thụ phong linh mục. Sau mười năm học thần học.
Năm 1501, và sau này Ngài được coi như một trong các nhà thần học hàng đầu của
Âu Châu.
Đại học sớm nhận ra khả năng quản
trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ chức vụ giám thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn.
Năm 1514, Ngài được chọn làm chưởng ấn suốt đời.
Ngài được đặt làm giám mục
Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục tử chân chính, lo khích lệ các linh mục
bằng sự quan tâm tới cuộc sống của các Ngài. Là một nhà giảng thuyết thời danh,
Ngài làm hết sức để có thể cung ứng cho Giáo hội các linh mục đầy đủ khả năng
giảng dạy dân chúng.
Do ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius
được đưa vào giảng dạy tiếng Hy lạp ở đại học Cambrige Erasmus. Tôma More cũng
đã trở thành bạn thân của Gioan Fisher. Năm 1516, có bản văn ghi chép về cả ba
nhân vật này ở Rochester.
Ngài Tôma More làm Tổng quản lý đại
học Cambrige. Từ năm 1525 đến những năm sau đó Tôma và Gioan Fisher hợp tác với
nhau để đáp ứng người chống lại lạc thuyết của Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher
đã viết cuốn Confutatio (1523) bằng tiếng Latinh. Đó là cuốn sách của thần học
gia viết cho các thần học gia. Người tín hữu (More) viết cuốn Dialogue
concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.
Năm 1527, năm định mệnh cho nước
Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước đầu, tới việc tiêu hủy hôn nhân của ông với
Catarina miền Atagon. Năm 1501 bà thành hôn với Arthur, anh của vua. Nhưng được
sáu tháng thì Athur từ trần. Năm 1509, đức Giáo hoàng cho phép vua được thành
hôn với người vợ goá của anh mình. Về sau, vì không có con trai để nối dõi, ông
tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép chuẩn của Đức Giáo hòang không
thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy
đủ đức giám mục kết luận là phép chuẩn của Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững
lập trường này mãi. Henry coi sự chống đối này là như một hành vi bội phản.
Năm 1534 có luật thừa kế. Luật
này tuyên bố rằng hôn phối với Catatina là vô hiệu và hôn nhân với Anna Boleyn
là hợp pháp. Quyền kế vị thuộc về con bà ta. Mọi người phải thề nhận trọn đạo
luật này. Đức giám mục Gioan Fisher từ chối. Tôma More cũng vậy, bởi vì đạo luật
bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo hoàng là bất thành.
Ngày 17 tháng 4 năm 1534, đức
giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas More bị xử tại Tower và bị giam biệt ra.
Ngày 20 tháng 5 năm 1535 đức giám mục Gioan Fisher được phong làm hồng y . Điều
này làm nhà vua giận dữ và vội vã lập toà án chống lại đức tân hồng y.
Ngày 17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị
xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6 năm 1535, Ngài bị xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài
bị chém đầu, thân xác trần trụi của Ngài bi bỏ lại pháp trường cho đến khi được
chôn cất vội vã không một nghi thức tang lễ trang Hallows. Đầu Ngài bị treo ở
Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống sông Thames ... nhường chỗ
cho đầu bạn Ngài là Tomas More.
+++++++++++++++++
Ngày 22-06: Thánh TOMA MORE
(1478 - 1535)
Thánh Toma More sinh tại Luân Đôn
ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia đình mà chính Ngài đã nói: "Không
danh giá nhưng lại lương thiện". Lên 12 tuổi, Ngài giúp việc Đức Hồng Y
Morton tổng giám mục giáo phận Canterbury. Hai nămsau, Ngài được gởi học tại
Ozford. Để cho Ngài chăm chú học hành, cha Ngài đã giới hạn việc cung cấp tiền
bạc đến nỗi Ngài không có tiền để sửa đổi giày. Vào tuổi 15, Ngài bỏ Ozford tới
Luân Đôn.
Ba năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp
Eramus trong khi ông thăm viếng nước Anh lần đầu tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm
ơn kêu gọi tu trì trong bốn năm sống tại Luân Đôn.
Cuối cùng More quyết định rằng:
Ngài không có ơn gọi sống bậc tu trì. Ngài bước vào hôn nhân một cách đặc biệt,
Ngài chọn cô em gái thứ xinh đẹp và dễ thương. Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ
đau khổ và xấu hổ nếu cô em lập gia đình trước. Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ sống
với nhau được 4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm sau Tôma More tái hôn với người
khác mà không có con. Người vợ mới hay nóng giận, nhưng gia đình thật êm thắm.
Ba người con gái cũng như người
con trai của Ngài đều được giáo dục rất cẩn thận. "Trong gia đình này
không có ai làm biếng cả..."
Thực tế các cô con gái Ngài thông
minh đến nỗi được mời tới trước mặt vua để tranh luận về triết học. Bầu khí gia
đình hạnh phúc còn là nơi tụ tập của nhiều loại người, từ những người yếu đau
già cả tới những kẻ thông thái. Erasmus cũng là một người bạn thân của gia đình
này. Lần kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi Tôma có viết thư cho vợ:
"Có lẽ chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất mát này hơn là về những
cái chúng ta tích lũy được".
Và Ngài cũng lo lắng cho hàng
xóm.- "Anh không muốn còn đầy muỗm nếu một trong số họ chịu thiệt thòi vì
tai nạn xảy đến cho chúng ta".
Toma More cũng viết cuốn Utophia,
nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng tượng. Ngài cũng viết cuốn
"Dialogue concerning Heresies" (Đối thoại về các lạc thuyết). Danh tiếng
của Ngài như một luật sư đã lôi kéo được sự chú ý của vua Henry III. Vua thúc
ép Ngài phục vụ triều đình. More bằng lòng và trở nên giàu có. Được phong làm
hiệp sĩ và năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của thư viện thứ dân.
Tuy nhiên năm 1527, nhà vua muốn
chấm dứt đời sống hôn nhân với hoàng hậu Catarina và cưới Anna Boleyn. Toma
More trách cứ nhà vua và bị thải hồi. Một ngày kia bá tước Norfolk thấy rằng:
Ngài sẽ bị nguy hiểm nếu chống lại nhà vua. Nhưng bình tĩnh Ngài trả lời: -
Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự có điều này khác biệt giữa Ngài
và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày mai.
Ngày 12 tháng 4 năm 1534, Toma
More được mời để tuyên thệ nhận Anna More Boleyn và từ bỏ uy quyền của đức giáo
hoàng, Ngài từ khước. 14 tháng tù ở là những ngày tháng cầu nguyện chẳng khác
gì nơi tu viện. Trước toà án Ngài nói: - Vương quốc Anh không thể bất phục tòa
thánh như một người con không thể bất phục cha mình.
Khi nghe tuyên án tử hình Ngài
nói: - Thánh Phaolô đồng loã với cái chết của Stêphanô lại chẳng hợp nhất với
Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu sao ? Vậy, tôi sẽ cầu nguyện tha thiết cho các
lãnh Chúa đã kết án tôi, để ít ra chúng ta sẽ gặp nhau trên trời sau này. Tôi
cũng cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin và gởi tới cho Ngài một lời khuyên tốt
đẹp.
Bình thản, Ngài lên đường tới
pháp trường, khi bước lên đoạn đầu đài, Ngài còn khôi hài nói: - Lúc xuống, chỉ
mình tôi thủ lợi.
Ngài ôm người đao phủ và bảo: -
Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn quá hãy cẩn thận vì danh dự của anh ở đó.
Tự bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu
đài, vén râu lên Ngài nói: - Nó không phạm tội phản bội. Thánh Toma More đã chịu
chết như vậy ngày 6 tháng 7 năm 1535 với tất cả trịnh trọng, vui tươi và đơn
thành.
(daminhvn.net)
22 Tháng Sáu
Romeo Và Juliet
Một trong các vở tuồng bất hủ
trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở kịch mang tựa đề "Romeo và
Juliet" của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông William Shakespeare. Vở kịch
này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến nay, khi vở kịch được phổ nhạc,
được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn nối đuôi nhau chờ mua vé để
vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai thanh niên nam nữ yêu nhau
thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không thể tiến đến hôn nhân, vì
chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền kiếp với nhau trong bối cảnh
xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại Italia thời trung cổ.
Sau khi nàng Juliet đem câu chuyện
tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và cho ngài biết ý định sẽ cùng với
Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị
linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó
ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật
đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay biết. Khi thấy người yêu đã vì mình
dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình
tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy
thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng
cũng dùng gươm lết liễu phận bạc để cùng chết với chàng.
Hình như những câu chuyện tình
thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng kết thúc bằng trắc trở,
chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy cũng nói lên một phần nào
sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng báo tin hôn lễ, các đôi
trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in câu: "Tình yêu mạnh
hơn sự chết".
Trong các cuộc giao tế thường
ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ láng giềng, bạn bè, kể cả cha
mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình thân, vợ chồng, chúng ta cần
có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả tâm tình yêu mến chất chứa bên
trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị "yêu nhau cởi áo cho nhau" đến
chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả, gánh chịu những nhọc nhằn, chịu
đựng tha thứ cho nhau "Một câu nhịn, chín câu lành" đối với những người
thân thương trong gia đình.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét