Văn kiện mới của Ủy Ban Thần học Quốc tế: Chúa Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Rỗi, để Kỷ niệm 1,700 năm [325-2025] Công đồng Nicée – Chương 4
Vũ Văn An 16/Apr/2025
Chương bốn: Giữ cho đức tin có thể đến được với toàn thể
dân Thiên Chúa
Lời mở đầu: Công đồng Nicée và các điều kiện để có được sự đáng tin cậy của
mầu nhiệm Kitô giáo
103. Ý tưởng đầu tiên và hợp lý mà chúng ta duy trì cho Công đồng Nicée là đây
là một công đồng tín điều, đã bảo vệ và làm sáng tỏ fides
quae (nội dung đức tin) về Chúa Kitô và Ba Ngôi. Bây giờ, vấn đề là giải
thích trong chương cuối cùng này làm thế nào biến cố công đồng cũng tạo nên một
thiết bị định chế nhất định của Giáo hội duy nhất và Công Giáo để giải quyết một
xung đột mang tính tín điều trong những điều kiện có thể khiến cho quyết định của
nó được chấp nhận. Do đó, việc nghiên cứu thần học cơ bản phải bổ sung cho việc
nghiên cứu Tín điều và lịch sử. Chính fides quae [nội dung đức
tin], chân lý cứu rỗi, tạo nên sự tuân thủ với ơn cứu rỗi, fides
qua [đức tin tín cứ [làm cho tin]; nhưng tại Nicée, bản thân fides
qua được đưa vào đây để phục vụ cho việc tiếp nhận và hiểu biết fides
quae. Bây giờ, việc xem xét các tiến trình của fides qua, nghĩa
là các điều kiện để xác định và tiếp nhận fides quae, thể hiện bản
chất và vai trò của Giáo hội. Rõ ràng là việc phát minh ra thiết bị định chế
này diễn ra dần dần, rằng nó không xuất hiện với đầy đủ vũ khí như Athena từ đầu
của Zeus, tóm lại khái niệm tín điều về "công đồng chung" không thể
hoàn toàn cùng thời với biến cố năm 325. Như chúng tôi đã giải thích trong
Chương II, nơi tuyệt vời nhất mà fides qua và fides
quae gặp nhau là phép rửa tội. Đây là nơi cá nhân được hòa nhập vào đức
tin của Giáo hội mà họ nhận được từ Giáo hội Mẹ. Trong bối cảnh giáo lý về phép
rửa tội và khai tâm, Giáo hội cổ thời đã phát triển quy tắc đức tin như là bản
tóm tắt quan trọng nhất về đức tin. Do tính liên quan của nó, nó đã được sử dụng
để phân biệt sự thật của đức tin với lạc giáo (ví dụ như Irénée, Tertullien,
Origène). Đây là tiền thân của quan điểm tín điều về kinh tin kính như một bản
tóm tắt các yếu tố chuẩn mực của đức tin. Nhận thức về chuẩn mực (regula;
kănōn) này hiện diện trong tiến trình của các thượng hội đồng tiền Nicée
khi phân định đức tin.
104. Tuy nhiên, dựa trên nhiều kinh nghiệm của các công đồng khu vực hoặc địa
phương vào thế kỷ thứ 2 và thứ 3, người ta có thể ủng hộ luận đề tín điều cho rằng
một chân lý giáo hội học nào đó được phán đoán một cách tiên
thiên là có hiệu lực và được kêu gọi để giải quyết vấn đề về một chân
lý Ba Ngôi, Kitô học và cứu thế học đang bị đe dọa bị thay đổi, bóp méo hoặc mất
đi. Các tiến trình fides qua biểu lộ bản chất của Giáo hội.
Ngôi Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm (Ga 1:14) thực sự làm cho Chúa Cha được
biết đến và kiến thức này, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, được trao phó
cho Giáo hội, với nhiệm vụ bảo vệ và truyền đạt kiến thức đó. Sứ mệnh này ngụ ý
rằng Giáo hội có thể giải thích Kinh thánh một cách có thẩm quyền. Điều này
cũng cho thấy rằng việc tin vào Giáo hội – như Kinh Tin Kính tuyên xưng – và
tin vào thẩm quyền của Giáo hội trong việc xác định học thuyết về Chúa Kitô và
Ba Ngôi dựa trên hành động đức tin vào Chúa Giêsu Kitô và Ba Ngôi, dưới hình thức
“ưu tiên” hoặc “nhân quả qua lại”, theo cách diễn đạt tốt lành của trường phái
Tôma [159]. Cuối cùng, đích nhắm sau cùng của toàn bộ quá trình giáo hội này
cũng phải thu hút sự chú ý của chúng ta. Chúng tôi đưa ra giả thuyết cho rằng
quy trình của công đồng được đặt ra để phục vụ những người nhỏ bé, phục vụ đức
tin của trẻ em, đó là hình mẫu đức tin của người môn đệ chân chính trong mắt
Chúa Giêsu, và do đó là việc công bố Tin mừng cho tất cả mọi người. Điều này
làm sáng tỏ ý nghĩa của giáo huấn của Giáo hội, hướng đến lòng bác ái bảo vệ những
người "nhỏ bé nhất" trong số các "anh em" của Chúa Kitô (x.
Mt 25:40).
1. Thần học phục vụ cho toàn bộ chân lý cứu rỗi
1.1 Chúa Kitô, chân lý hữu hiệu về mặt cánh chung
105. Trong phạm vi nơi Nicée đề xuất một chân lý trong các câu hỏi liên quan đến
sự cứu rỗi và phân biệt nó với sai lầm, vấn đề đầu tiên của nó theo quan điểm của
thần học cơ bản là vị trí của chân lý trong cứu thế học. Niềm tin này trước hết
đến từ chính hình thức Mặc khải, khi để cho mình được ghi chép thành lời văn,
cho thấy chiều kích chân lý là yếu tố cấu thành nên nó. Đức tin Kitô giáo giả định
rằng chân lý về Chúa Kitô phải được truyền đạt cho các môn đệ của Người. Thật vậy,
chính Đấng Cứu Thế là chân lý: “Ta là đường đi, là sự thật và là sự sống” (Ga
14:6). Trong Kitô giáo, chân lý là một con người. Sự thật không còn là vấn đề
đơn giản về luận lý hay lý luận nữa; không thể sở hữu nó, và nó không thể tách
rời khỏi các thuộc tính khác gắn liền với chính con người của Chúa Kitô, chẳng
hạn như lòng tốt, công lý hay tình yêu. Điều còn lại là sự gắn bó với Chúa Kitô
luôn đòi hỏi trí thông minh của các môn đệ: “Credo ut intelligam [tôi
tin để tôi hiểu][160]”. Thật vậy, thật không thể tưởng tượng và cũng không hợp
lý khi nghĩ rằng Thiên Chúa, Đấng đã tạo nên con người thông minh và tự do – một
trong những chiều kích của sự sáng tạo theo hình ảnh và họa ảnh của Đấng Tạo dựng
(St 1:26-27) – lại có thể, với tư cách là Thiên Chúa cứu rỗi, không quan tâm đến việc
tiếp cận tri thức về chân lý của Người và chân lý cứu rỗi. Hơn nữa,
chân lý cứu rỗi này có chiều kích cộng đồng. Công đồng Nicée là một hành động
chung nhằm diễn đạt chân lý, nhằm truyền đạt chân lý đó cho toàn thể Giáo hội.
Trên thực tế, không thể tưởng tượng hay hợp lý hơn khi nghĩ rằng Đấng tạo dựng
ra gia đình nhân loại, và đặc biệt là khả năng thông đạt dễ hiểu của nó thông
qua các ngôn ngữ (x. St 11:1-9 – tháp Babel, và Công vụ 2:1-11 – Lễ Hiện Xuống)
có thể dửng dưng với việc cộng đồng tiếp cận chân lý của mình
và chân lý cứu rỗi. Do đó, sự tan vỡ hiệp nhất đức tin sẽ làm giảm sức mạnh và
hiệu quả của ơn cứu rỗi trong Chúa Giêsu Kitô.
106. Vị trí cấu thành của chân lý trong ơn cứu rỗi này phản ảnh chính bản chất
của Giáo hội “là người mang chân lý” (alēthefora). Giáo hội mang trong
mình một thứ khác ngoài chính mình, Đấng Kitô-Chân Lý, và sẽ không thể là chính
mình nếu không có điều này. Giáo hội nhất thiết phải là nơi nghiên cứu, khám
phá, bảo vệ và triển khai chân lý được nêu trong Lời Chúa vì lợi ích bản thân
và giáo hội của các môn đệ của Người và của toàn thể nhân loại. Đây cũng là nơi
giao thoa với sức mạnh mang lại sự sống của chân lý này, lưu thông bên trong
nó, đồng thời tưới mát cho cuộc tìm kiếm chân lý, tư tưởng và văn hóa của thế
giới [161]. Do đó, việc chuyển giao (truyền đạt) sống động chân lý cứu rỗi
chính là một trong những ý nghĩa mạnh mẽ nhất mà khái niệm Tín điều về Truyền
thống Giáo hội có thể có [162].
107. Vị trí trung tâm của chân lý giải thích sự bác bỏ sâu xa việc thờ ngẫu tượng
trong Kinh thánh. Đấng Thánh của Israel là Thiên Chúa biết lên tiếng, không giống
như các thần tượng. "Chúng có miệng nhưng không nói", các Thánh Vịnh
(115:5 và 135:15) nói thế, và được lặp lại trong 1 Cô-rinh-tô 12:2: "Khi
anh em còn là dân ngoại, anh em biết đấy, anh em bị lôi kéo một cách không cưỡng
lại được đến với các ngẫu tượng câm". Hơn nữa, theo Kinh thánh, chân lý,
quyền năng, công lý và sự thánh thiện của Thiên Chúa luôn được quan niệm liên
quan đến tuyên bố của Người về việc mang lại sự cứu rỗi đích thực và phổ quát,
trong khi các hoạt động thờ ngẫu tượng chỉ tuyên bố mang lại một món quà cục bộ
và mang tính khu vực. Hơn nữa, vì chính Người đến từ Thiên Chúa và là Thiên
Chúa và Chúa (x. Ga 13:14), nên chân lý cứu rỗi phải được đón nhận, trong khi sự
thờ ngẫu tượng xây dựng nên thần thánh từ con người. Sự kiện Thiên Chúa không
thể được tạo ra giống như một bức tượng ngẫu thần (xem sự trớ trêu của Kn
13:11-19) dẫn đến khái niệm về sự tự mặc khải thần linh, điều này hoàn toàn
trái ngược với ý tưởng tự kỷ thành tựu [autoréalisation] rất phổ biến trong các
cung ứng tôn giáo, cả trong các hình thức cổ xưa, như thuyết Ngộ đạo làm chứng,
bị Thánh Irénée chỉ đúng danh là một tà thuyết và là "một trực tri [gnose]
với cái tên dối trá". Trực tri “nói dối”, nó mâu thuẫn với chính khái niệm
về chân lý cứu rỗi, vì nó không phải là chân lý được Thiên Chúa chào đón và đón
nhận một cách tự do trong tình yêu. Ngược lại, qua sự nhập thể của Người, Ngôi
Lời Thiên Chúa kêu gọi hành vi đức tin mang tính giáo hội và bản thân như một sự
tiếp nhận trong Chúa Thánh Thần, bằng trí thông minh và toàn thể con người, về
những mầu nhiệm cứu rỗi: “Các ông thờ Đấng các ông không biết; còn chúng tôi,
chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu rỗi phát xuất từ người Do Thái”
(Ga 4:22). Cuối cùng, Chúa Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa, được sai đến thế
gian với sứ mệnh truyền đạt một lời chân lý toàn vẹn, đòi hỏi con người phải
đáp lại bằng đức tin. Đây là lý do tại sao đây thực sự là chân lý cứu rỗi, có
hiệu quả về mặt cánh chung: “Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên
đàng” (Lc 23:43). Việc Công đồng Nicée lựa chọn diễn đạt bằng lời một chân lý
toàn vẹn về ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người, được đón nhận trong đức tin, không
chỉ là sự trung thành với chân lý Kitô học (fides quae) mà còn là sự
trung thành với mối quan hệ cá nhân với chân lý là chính Chúa Kitô (fides
qua).
1.2 Sự cứu rỗi và tiến trình làm con cái Thiên Chúa
108. Chân lý cứu rỗi này phải được hiểu theo nghĩa mạnh mẽ nhất, nghĩa hữu thể
học. Mặc dù không có tham vọng đưa ra một sự hiểu biết toàn diện làm suy yếu mầu
nhiệm cứu rỗi như một mầu nhiệm, nhưng nó vẫn mang đến sự thật về việc làm con
và làm cha của Thiên Chúa. Có thể nói, Thiên Chúa của chân lý muốn thử thách
con người về tham vọng làm con chưa từng có của Con một Người
là Chúa Giêsu. Sự thật được Thiên Chúa mặc khải sau đó được tập trung vào sự thật
về “Con” duy nhất của Người. Thuật ngữ này không thể bị giản lược thành một
phép ẩn dụ hay phép loại suy đơn giản, bởi vì những gì mang tính ẩn dụ ở đây tự
mở ra cho phạm vi của hữu thể học, cũng giống như symbolon [biểu
tượng], theo nghĩa mạnh của thuật ngữ, thực sự và hiệu quả cho phép tiếp cận với
thực tại mà nó biểu thị. Lời chứng của Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu thiết lập
chân lý này: “Nếu chúng ta nhận được lời chứng của loài người, thì lời chứng của
Thiên Chúa cao cả hơn, vì đây là lời chứng của Thiên Chúa: Người đã làm chứng về
Con của Người. "Ai tin vào Con Thiên Chúa thì có lời chứng trong
mình" (1 Ga 5:9). Tác giả thêm: "Ai không tin Thiên Chúa, thì coi
Thiên Chúa là kẻ nói dối" (1 Ga 5:10). Các sách giáo lý cũ của chúng
ta thích xây dựng niềm xác tín sâu sắc này về hành vi đức tin của các Kitô hữu,
với sự đơn giản trực tiếp: "Thiên Chúa không thể nhầm lẫn hay lừa dối
chúng ta[163]", trong khi Thánh Tôma Aquinô sẽ nhận ra những công thức của
riêng mình [164]. Điều này biện minh cho lựa chọn hữu thể học của từ mới của
Nicée, homoousios, để mở rộng và làm rõ thuật ngữ Kinh thánh và
thánh ca. Xác nhận chân lý hữu thể học về tư cách con cái thần linh của Chúa
Giêsu, như chúng ta đã thấy trong chương một và chương ba, là mối quan hệ giữa
quyền làm cha và quyền làm con đã bị đảo ngược một cách mầu nhiệm giữa quyền
làm cha thần thiêng và quyền làm cha nhân bản: quyền làm cha nhân bản và dưới
thế đã trở thành sự định danh thứ hai và phái sinh của nguyên mẫu của nó, Thiên
Chúa Cha (xem Ep 3:14; Mt 23:9). Chính sự thật về việc làm con cái của Thiên
Chúa, sự thật mà người tin được mời gọi bước vào, là nền tảng cho sự thật về việc
làm con lúc chịu phép rửa [165]. Theo Tin mừng của Chúa Giêsu, được cứu rỗi bao
gồm việc bước vào chân lý trọn vẹn của việc làm con cái được lồng vào việc làm
con cái vĩnh cửu của Chúa Kitô.
2. Sự trung gian của Giáo hội và sự đảo ngược của chuỗi tín điều: Chúa Ba
Ngôi, Kitô học, Thần khí học, Giáo hội học
2.1 Sự trung gian của đức tin và thừa tác vụ của Giáo hội
109. Chân lý cứu rỗi và hiệu quả này được làm rõ ràng và truyền đạt tại Nicée
thông qua hành động giải thích bản văn Kinh thánh bằng những thuật ngữ bắt nguồn
từ thánh ca và triết học, và thông qua việc thực hành cái hiểu về đức tin. Thật
vậy, toàn bộ nhiệm cục Mặc Khải Kinh Thánh chứng thực rằng sức mạnh của niềm
tin về chân lý Kitô học chắc chắn không nên được hiểu theo chủ nghĩa chính thống
cực đoan, mà đối với nó ý nghĩa của Kinh Thánh chỉ có thể hiểu được một cách trực
tiếp. Ngược lại, truyền thống diễn giải tín lý của giáo hội và nghiên cứu của
các nhà thần học cho thấy rằng đức tin cần nhiều sự trung gian, bắt
đầu với sự trung gian đầu tiên, độc nhất và sáng lập, đó là nhân tính của Người
Con duy nhất mà Người có được từ Đức Maria. Thiên Chúa đã sắp đặt để chân lý thần
linh chưa từng được nghe đến của Người sẽ hướng đến nhân loại thông qua sự
trung gian của Ngôi Lời nhập thể: “Đây là Con yêu dấu của Ta, hãy vâng nghe lời
Người” (Mt 17:5; x. Mt 3:17). Hơn nữa, các thể loại văn học khác nhau của cách
diễn đạt Mặc Khải tạo nên các sách Kinh thánh đòi hỏi nhiều kế hoạch giải
thích[166]. Kinh Tin Kính, phát sinh từ phụng vụ và được công bố trong khuôn khổ
phụng vụ, cũng chứng minh rằng sự trung gian diễn giải không bị giản lược thành
một lời bình luận về bản văn, mà trở thành một gestis verbisque [cử
chỉ và lời nói], trong đó đức tin được sống trong một cộng đồng cầu nguyện và
ân sủng [167]. Chúng ta đọc điều này trong câu chuyện của Luca 24, nơi chính Đấng
Phục Sinh không chỉ giải thích về mình qua việc giải thích Lề Luật và các tiên
tri, mà, cuối cùng, còn qua sự hiện diện của Người và sự hiến thân Thánh Thể của
Người, trong "việc bẻ bánh", như Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã giải
thích trong Verbum Domini:
"Lời Chúa và Bí tích Thánh Thể gắn bó mật thiết với nhau đến nỗi không thể
hiểu được điều này nếu không có điều kia: Lời Chúa trở thành xác phàm trong biến
cố Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể mở ra cho chúng ta sự hiểu biết về Kinh Thánh,
cũng như Kinh Thánh soi sáng và giải thích về Mầu nhiệm Thánh Thể. Thật vậy, nếu
không nhận ra sự hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh Thể, thì sự hiểu
biết về Kinh thánh vẫn chưa đầy đủ" [168].
110. Do đó, sự nối kết có trật tự của các mầu nhiệm như được trình bày trong thần
học tín lý có thể được đảo ngược một cách hữu ích trong thần học cơ bản. Chính
qua mầu nhiệm Giáo hội, “mầu nhiệm khó tin nhất [169]”, mà những mầu nhiệm chưa
từng nghe đến của đức tin Kitô giáo được đề xuất lần đầu tiên, những mầu nhiệm
mà bản thân đức tin Kitô giáo phụ thuộc về mặt luận lý học và hữu thể học. Trên
thực tế, Giáo hội là người đầu tiên thiết lập chế độ uy tín cho hành trình đức
tin. Rõ ràng là có "một trật tự hay 'thứ bậc' của các chân lý trong tín lý
Công Giáo, liên quan đến mối quan hệ khác nhau của chúng với nền tảng của đức
tin Kitô giáo."[170] Học thuyết về Chúa Kitô, Ba Ngôi và cứu rỗi của Kinh
Tin Kính cấu thành nền tảng này. Tuy nhiên, bên trong nexus
mysteriorum [mối nối kết giữa các mầu nhiệm], [171] hành động giải
thích của Công đồng làm sáng tỏ sự tham gia của Giáo hội, theo vị trí và vai
trò cụ thể của mình, vào trật tự cứu rỗi.
2.2 Sự bất đồng và tính đồng nghị
111. Sự trung gian giải thích của Giáo hội được biểu lộ qua các cuộc trọng tài,
đặc biệt khi đối diện với những bất đồng hoặc nhu cầu dịch bản văn thánh
thiêng. "Công đồng Giêrusalem" trong Công vụ 15 lần đầu tiên làm chứng
về sự bất đồng về tín lý (mối quan hệ giữa các môn đệ của Chúa Ki-tô từ các dân
tộc với Lề Luật Mô-sê) và về thực hành (phép cắt bì, thờ hình tượng và vô
luân), vốn mang theo tính xung đột, mà việc ra quy định và giải quyết nó, dưới
hình thức phục hồi sự đồng thuận của giáo hội, trước tiên tiến hành thông qua sự
khảo sát của hợp đoàn tụ tập gồm "các tông đồ và trưởng lão" (Công vụ
15:6). Một quá trình xuất hiện: đầu tiên chúng ta nhận thấy một loạt các chứng
từ được ủy quyền (Phê-rô, Phao-lô và Ba-na-ba, Gia-cô-bê) và được hoan nghênh
trong sự lắng nghe lẫn nhau [172], sau đó là việc nại tới thẩm quyền của Mô-sê,
việc thiết lập các sứ giả được ủy quyền chống lại các sứ giả "không được ủy
quyền" (Công vụ 15:24), và cuối cùng là việc soạn thảo một bản văn quy phạm
để chính thức gửi cho cộng đồng Antioche (Công vụ 15:30-31) được tập hợp theo
sáng kiến của những sứ giả được ủy quyền này. Tất cả đều là những tác nhân
(Công vụ 15:12), hiện diện trong suốt quá trình phân định của Giáo hội và tham
gia vào quyết định cuối cùng (Công vụ 15:22)[173]. Dấu hiệu của khía cạnh cộng
đồng này là các sứ giả được sai đi theo từng cặp (Công vụ 15:27). Điểm cốt yếu để
chúng ta suy tư là Giáo hội được Chúa Thánh Thần trợ giúp và hoạt động theo
cách thức thượng hội đồng, dựa vào sensus fidei fidelium [cảm
thức đức tin của các tín hữu] [174] và thẩm quyền đặc biệt của các tông đồ, tạo
nên mầu nhiệm sống động và hoạt động trong đó sự phát triển tín lý về sự phân
biệt giữa các môn đệ của Chúa Kitô với dân Do Thái và những người từ các dân tộc
trước việc thực hành Luật Môsê đã được xây dựng. Sự phân xử đức tin liên quan đến
mục đích phổ quát của Thiên Chúa, đến việc các quốc gia bước vào mầu nhiệm được
mặc khải đầu tiên cho Israel, đã diễn ra ở đây, trong sự trao đổi giữa fides
qua và fides quae, trong mầu nhiệm năng động của Giáo hội.
112. Từ thời trước khi Ngôi Lời nhập thể, dân Chúa chọn đã phải giải quyết một
vấn đề tương tự về việc bảo tồn, nhưng đặc biệt là về việc truyền bá Mặc Khải
trong cộng đồng người Israel lưu vong và xa hơn nữa, trong những cộng đồng mà
Tân Ước gọi là "các tân tòng" (Mt 23:15 và Công vụ 2:10 và 6:15), và
"những người kính sợ Chúa" (Công vụ 10:2), có nguồn gốc ngoại giáo.
Đây là lựa chọn cơ bản, nguồn gốc thực sự của nó bị thất lạc trong các truyền
thuyết (Thư của Aristeas hoặc Talmud-Soferim 1,7), cho
phép dịch Kinh thánh của người Do Thái từ tiếng Do Thái sang tiếng Hy Lạp, và
do đó dẫn đến phiên bản Alexandria của Bản Bẩy Mươi. Bởi vì những bản dịch này,
giống như việc sử dụng từ mới homoousios sau này, sẽ liên quan
đến nhiều quá trình phân xử từ vựng để các sự thật của bản văn gốc được hình
thành trong lĩnh vực ngữ nghĩa của ngôn ngữ Sê-mit không bị mất đi khi bản văn
được chuyển sang lĩnh vực ngữ nghĩa của ngôn ngữ Ấn-Âu.
113. Những sự phân xử này thể hiện bản chất của Giáo hội và cho phép chúng ta nắm
bắt được ý nghĩa của huấn quyền được Giáo hội thực thi. Bởi vì Giáo hội là thực
tại của ân sủng được ghi khắc trong lịch sử. Nó được hình thành và thúc đẩy bởi
Chúa Thánh Thần, chính Đấng đã thực hiện sự Nhập thể của Ngôi Lời và tiếp tục
thực hiện việc sáp nhập các tín hữu vào Thân thể Mầu nhiệm, đối đầu với những
niềm vui, cám dỗ và thăng trầm của lịch sử. Sứ mệnh cứu rỗi của Giáo hội không
chỉ được thực hiện qua việc rao giảng, qua việc dạy Kinh thánh và cử hành các
bí tích, mà còn qua huấn quyền của các giám mục, những người kế vị các tông đồ,
trong sự hiệp thông với Giám mục Rôma, người kế vị thánh Phêrô. Điều này không
có nghĩa là chân lý của đức tin mang tính lịch sử và có thể thay đổi: mà đúng
hơn, điều này có nghĩa là việc thừa nhận chân lý và đào sâu sự hiểu biết về
chân lý đó là nhiệm vụ lịch sử của Giáo hội Chủ thể duy nhất. Do đó, Giáo hội
không tùy ý sử dụng chân lý, chân lý không thể bịa đặt, vì về cơ bản chân lý đó
là chính Chúa Kitô, nhưng Giáo hội tiếp nhận, nhớ lại và giải thích chân lý đó.
Tin cùng với Giáo hội có nghĩa là mỗi thế hệ đều tham gia vào những nỗ lực
không ngừng nghỉ của Giáo hội để có được sự hiểu biết sâu sắc và trọn vẹn hơn về
đức tin. Nghĩa vụ trung thành không thể chỉ bị rút gọn thành sự ngoan ngoãn thụ
động: đó là nghĩa vụ chiếm hữu tích cực của tất cả các môn đệ, với sự hỗ trợ và
giám sát của huấn quyền sống động của giám mục đoàn. Những vị vừa kể, nếu họ đồng
ý, sẽ có thẩm quyền quyết định một cách ràng buộc xem một cách giải thích thần
học có trung thành với nguồn gốc – Chúa Kitô và Truyền thống Tông đồ- hay
không. Huấn quyền không thêm gì vào Mặc khải đã được hoàn thành trong Chúa Kitô
và được Kinh thánh chứng thực, ngoại trừ những lời giải thích về sự phát triển
tín điều, bởi vì Giáo hội thực hiện vai trò của mình như là người giải thích
đích thực Lời Chúa trong các hành vi trung thành sáng tạo với Mặc khải [175]:
"Vì vậy, phán đoán về tính xác thực của sensus fidelium [cảm
thức tín hữu] cuối cùng không thuộc về chính các tín hữu hay thần học mà thuộc
về Huấn Quyền [176]." Cái gọi là Huấn quyền thông thường của
những người kế nhiệm các Tông đồ bao gồm tín lý thường lệ, liên tục phát triển
truyền thống - đã được chỉ định trong Tân Ước là "giáo lý lành mạnh"
(2 Tm 4:3). Ngược lại, huấn quyền ngoại thường hiếm khi được sử
dụng, nhưng nó được sử dụng mỗi khi phải đưa ra quyết định có phạm vi giáo lý
liên quan đến toàn thể Giáo hội, đặc biệt là khi có thách thức từ một bộ phận của
Giáo hội. Đây chính là điều đã xảy ra một cách nổi bật và rõ ràng tại Công đồng
chung Nicée.
2.3 Các ngôn ngữ của Chúa Thánh Thần để hình thành và đổi mới sự đồng thuận
114. Về cơ bản, nhiệm vụ của Giáo hội do đó trước hết và quan trọng nhất là nhiệm
vụ thần khí học phải phiên dịch theo nội dung [métaphrase]. Điều này hoạt
động trong bộ ghi [registre] dịch thuật, giống như bản Bẩy Mươi và Targumim [bản
dịch Kinh Thánh Do Thái sang tiếng Aram], tìm kiếm sự trung thành với bản văn
tiếng Do Thái bằng cách kiên quyết đặt mình vào các phương thức tư duy và thiên
tài của riêng tiếng Hy Lạp và tiếng Aram. Chúng ta có thể cho rằng quá trình
tương tự cũng diễn ra khi dịch những lời Chúa Giêsu nói bằng tiếng Aram sang tiếng
Hy Lạp trong các sách Tin mừng. Đây cũng là công việc chú giải các bản văn
thánh thiêng, bắt đầu với các midrashim [chú giải Kinh Thánh ]
và các tác phẩm của các Giáo phụ đầu tiên của Giáo hội. Chính phong trào kép
này phát triển mạnh mẽ trong những cuộc trao đổi sôi nổi của một công đồng
chung được cử hành theo sự thúc đẩy của Thánh Thần ngày Ngũ Tuần, nơi những diễn
giả có thể đến từ thế giới Syria, Hy Lạp, Copt hoặc La Tinh, và đưa đến những định
nghĩa có thể dịch sang các ngôn ngữ và hình thức diễn đạt khác. Ở đây chúng ta
đang chứng kiến sự dạn dĩ gấp đôi nhận được từ Chúa Thánh Thần. Trước hết, cần
củng cố sự hiểu biết về đức tin được tuyên xưng tại Công đồng Nicée từ phía những
người công bố đức tin này một cách mạnh dạn [parrēsia] và hiệu quả vì lợi
ích của dân Chúa trong các bối cảnh khác nhau của thế giới; sau đó, sự dạn dĩ
trong Chúa Thánh Thần của những người lắng nghe (auditus fidei) và tiếp
nhận (obsequium fidei) lời công bố này [177]. Chuyển động này cho thấy cả
bản chất của Giáo hội lẫn căn tính của Thánh Thần chân lý, Đấng “nhắc nhớ” những
lời của Chúa Kitô và hướng dẫn chúng ta tới “toàn bộ chân lý” (Ga 16:13; x. Ga
14:26). Không có gì ngạc nhiên khi một nhiệm vụ giáo hội học như vậy, vốn giả định
các hoạt động của ngôi vị thần linh thứ ba, phải quay ngược lại từ lịch sử cứu
rỗi đến mầu nhiệm nguyên thủy của mối quan hệ Ba Ngôi, từ nhiệm cục đến hữu thể
học thần linh.
115. Trong nhiệm vụ diễn dịch theo nội dung [métaphrase] thần khí học này, vốn
giới thiệu một khái niệm mới, không có trong Kinh thánh, homoousios nổi
tiếng, điều cần thiết là phải lưu ý rằng các tường thuật trong Kinh thánh cũng
như các ẩn dụ của các bản văn Kinh thánh không bị xóa bỏ hoặc làm lu mờ bởi các
bản sao suy đoán vốn thu hẹp và làm rõ bản chất của chúng. Sự làm sáng tỏ Tín
điều chỉ có giá trị nếu nó bảo tồn được gốc rễ mang lại sức sống cho nó trong đất
mùn Kinh thánh và trong sự hiệp thông của đức tin phụng vụ. Điều này rõ ràng
đúng trong bản văn Kinh Tin Kính. Trong những hoàn cảnh như cuộc khủng hoảng của
Arius, khi Lời Chúa dường như cung cấp sự ủng hộ mơ hồ cho việc bảo tồn chân lý
đức tin (Luca 18:19: "Sao các ngươi lại nói rằng Ta nhân lành? Chẳng có ai
nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa"), thì cần phải có cách diễn đạt mang
tính suy lý để làm loãng đi cuộc tranh luận về chú giải. Tuy nhiên, sự phát triển
tín lý, với nguồn tài nguyên cụ thể của các từ mới, phải bằng lòng với việc
khám phá những chân lý tiềm ẩn trong ngôn ngữ mặc khải, theo cách mà chính Chúa
Kitô giải thích dụ ngôn về người gieo giống trong Mt 13:3-9 rồi 18-23. Theo
nghĩa này, cần lưu ý rằng trong lịch sử Giáo hội, xét cho cùng, các từ mới mang
tính Tín điều rất ít và chúng tương ứng với những nút thắt thực sự mang tính
quyết định của mầu nhiệm Kitô giáo: "đồng bản thể" và "sự kết hiệp
ngôi vị" trong Kitô học; và trong phạm vi Ba Ngôi, “mối quan hệ lập hữu
[subsistante]” và “sự tương tại [périchorèse]”; mà còn là “ngôi vị” (prosôpon
và hypostasis), theo ý nghĩa đặc biệt của Kitô giáo, trong thần học Ba Ngôi,
Kitô học và nhân học.
3. Hãy chăm lo giữ gìn kho tàng đức tin: bác ái phục vụ những người bé nhỏ
3.1 Đức tin đồng tâm nhất trí của dân Chúa dành cho mọi người
116. Kinh Tin Kính và các điều luật được Công đồng Nicée thông qua không chỉ
đơn thuần là những hành vi giải thích, dịch thuật và ẩn dụ của Giáo hội, mà còn
nhằm mục đích "bảo vệ" hoặc "chăm lo giữ gìn" (phȳlaxein)
kho tàng đức tin được các Tông đồ truyền lại (1 Tm 6:20). Sự bảo vệ này đặc biệt
có lợi cho những người dễ bị ảnh hưởng nhất. Cũng như, xét về fides quae,
homoousios là nguyên tắc và nền tảng của koinonia [hiệp
thông] trong Chúa Kitô của tất cả mọi con người với nhau, cho đến những người
nhỏ nhất, thì xét về fides qua, quyết định của Công đồng nhằm xác định
một lời tuyên xưng đức tin chung bảo vệ tất cả các môn đệ. Thật vậy, sự rõ ràng
về tín lý khiến đức tin có khả năng chống lại các thế lực của chủ nghĩa khu vực
văn hóa tuyệt đối và sự chia rẽ địa chính trị cũng như các thế lực dị giáo, thường
gắn liền với một hình thức tinh vi của chủ nghĩa duy tinh hoa.
117. Chúng ta hãy nhấn mạnh vào khía cạnh cuối cùng này. Vào thế kỷ thứ 4,
trong thời đại "hoà bình của Giáo hội", khi niềm tin của Ki-tô giáo
có nguy cơ suy yếu trong quá trình truyền bá rộng rãi, những người ủng hộ chủ
nghĩa ngoại giáo cổ thời ngược lại đã cố gắng khôi phục sức sống đã mất của nó
bằng cách nhấn mạnh vào tính chất dễ tiếp cận các vị thần
trong đền thờ của họ, các tập tục và phong tục của tổ tiên họ đối với những người
tử sinh tầm thường. Thế mà, đức tin được Chúa Giêsu rao giảng cho những
người đơn sơ không phải là đức tin giản đơn. Các dụ ngôn và những câu nói
khác, hoặc một số tuyên bố của Gioan như lời tuyên bố: "Cha và Ta là một"
(Ga 10:30), chứng tỏ rằng việc tiếp cận mầu nhiệm Thiên Chúa ít nhất cũng là
nghịch lý. Cả điều Tín điều gọi là Chúa Ba Ngôi, cũng như sự hiệp nhất ngôi vị,
được nêu tại Công đồng Chalcedoine, cũng như thuyết nhị nguyên năng động được bảo
vệ bởi cứu thế học của Người Tuyên Tín Maximus, đều không thể được coi là những
đề xuất đơn giản. Tuy nhiên, Kitô giáo chưa bao giờ được biết đến như một tín
lý bí truyền dành riêng cho một nhóm tinh hoa. Chúa Kitô khẳng định điều này
trong một tuyên bố cơ bản: ““Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ; tôi hằng
giảng dạy trong hội đường và tại Đền Thờ, nơi mọi người Do-thái tụ họp. Tôi
không hề nói điều gì lén lút. Sao ông lại hỏi tôi? Điều tôi đã nói, xin cứ hỏi
những người đã nghe tôi. Chính họ biết tôi đã nói gì.” (Ga 18:20). Ngay cả kỹ
thuật khai tâm về bí thuật [dicipline d’arcane], trong một thời khắc của Kitô
giáo sơ khai, không cho thấy sự bận tâm ghen tị nào với bí mật, mà đúng hơn là
sự đánh giá cao tính nghiêm túc và các giai đoạn của sự khai tâm Kitô giáo. Và
theo thời gian, có vẻ như đức tin Kitô giáo đã hoàn toàn mang phong cách phổ biến
và công khai của nó. Cuối cùng, mỗi Kitô hữu, khi làm dấu thánh giá trên mình,
đã diễn tả đầy đủ và trọn vẹn cốt lõi của đức tin Ba Ngôi và Phục Sinh [178].
Toàn thể dân Chúa phải đưa ra lý do cho đức tin và niềm hy vọng của mình (x. 1
Pr 3:5): theo nghĩa này, họ là những nhà thần học [179].
118. Theo cùng một nghĩa, việc thực thi Huấn quyền, như được thực thi tại Công
đồng Nicée, và trao cho giáo huấn của Giáo hội "Công Giáo" một phong
cách công khai và mang tính định chế đích thực, do đó thiết lập sự bình đẳng của
tất cả mọi người liên quan đến nội dung của đức tin. Kinh Tin Kính phụng vụ, được
thực hành bởi tất cả các thành viên của Thân Thể Mầu Nhiệm, trong một phụng vụ
công khai và chung, sẽ tạo thành một chuẩn mực cho contesseratio (mối
liên hệ hiếu khách) của sự hiệp thông giáo hội, được Tertullien yêu thích
[180]. Ích chung của Mặc khải thực sự được đặt "vào quyền sử dụng tùy
ý" của tất cả các tín hữu, như được xác nhận bởi giáo lý Công Giáo về sự bất
khả ngộ in credendo của những người đã chịu phép rửa tội:
"Cộng đồng tín hữu, được xức dầu từ Đấng Thánh (x. 1 Ga 2:20, 27), không
thể sai lầm trong đức tin.[181] "Các giám mục có vai trò cụ thể trong việc
xác định đức tin nhưng không thể đảm nhận vai trò đó nếu không ở trong sự hiệp
thông giáo hội của toàn thể dân Chúa[182]. Theo nghĩa này, Luật Mới của Tân Ước
mang những đặc điểm của Luật Cũ, mà chiều kích công khai của nó thường không được
đánh giá đầy đủ: vì luật được ban hành long trọng nên mọi người đều biết đến nó
như là luật thần linh. Vì vậy, vì tính công khai của Lề Luật, cả những
người lãnh đạo cũng phải tuân thủ nó. “Việc chấp nhận của những con người”, thường
được phát hiện và lên án trong Tôra, sẽ dễ dàng xuất hiện ở đó theo cách khách
quan hơn như một lỗi lầm chống lại phẩm giá bình đẳng của con cái Thiên Chúa
(x. Lv 19:5; Hr 10:17; Cv 10:34; Rm 2:11).
3.2 Bảo vệ đức tin chống lại quyền lực chính trị
119. Do đó, Công đồng Nicée, với tất cả những gì nó mang ơn sáng kiến của Hoàng
đế Constantine, vẫn sẽ là một cột mốc trên con đường dài hướng tới libertas
Ecclesiae [tự do của giáo hội], vốn luôn là sự bảo đảm bảo vệ đức tin
của những người đơn sơ và dễ bị tổn thương nhất trước quyền lực chính trị.
Không còn nghi ngờ gì nữa, cùng lúc đó một phong trào cạnh tranh hướng tới điều
gọi là "Caesaropapism [chế độ vương giáo]" đã ra đời, và đây là một
cám dỗ dai dẳng trong các Giáo hội Ki-tô giáo. Vậy chúng ta nên xác định trong
công đồng này sự khởi đầu của một sự bảo đảm của giáo hội đối với quyền tự do
lương tâm của những người nhỏ bé, hay sự khởi đầu của một công cụ chính trị hóa
tôn giáo của Chúa Kitô? Đúng là những mối quan tâm chính trị của Hoàng đế
Constantine thường được nhấn mạnh ngày nay; người ta nhấn mạnh rằng Công đồng
Nicée có mục đích, trong số những mục đích khác, là để kỷ niệm 20 năm trị vì của
ông, và thậm chí còn ám chỉ rằng, trong một số trường hợp, lời tuyên xưng đức
tin được Nicée thông qua trước hết là nhằm khôi phục sự hòa hợp trong Đế quốc.
Tương tự như vậy, khái niệm dị giáo bị chỉ trích vì gắn liền với quyền lực áp
chế của nhà nước tôn giáo. Mặc dù không thể đi vào việc giải quyết đầy đủ những
vấn đề phức tạp này trong phạm vi của tài liệu này, chúng ta vẫn có thể phân biệt
ở đây các hình thức và mục tiêu của sự hiệp nhất, sự hiệp nhất về đức tin giữa
các Ki-tô hữu và sự hiệp nhất của các công dân. Một mặt, trên thực tế, thuyết độc
thần Ba Ngôi của Nicée, trong chân lý Tín điều của nó, cũng như thuyết Arius,
không cho phép một cách chính đáng tham vọng của Basileus [nhà vua]muốn
là biểu tượng nhà nước và tôn giáo của sự thống nhất La Mã và đặt nền tảng cho
một trật tự thần học-chính trị theo nghĩa chặt chẽ [183]. Mặt
khác, nếu không có sự cảnh giác của Giáo hội tông đồ được Chúa Thánh Thần hỗ trợ
trước sự chống đối với khía cạnh chưa từng thấy của Mặc khải là tà giáo, thì những
mầu nhiệm đức tin được truyền đạt qua sự tự mặc khải của Ngôi Lời nhập thể, chịu
đóng đinh và phục sinh sẽ không thể chống lại sự tan vỡ và hỗn loạn.
120. Bảo vệ đức tin của tất cả mọi người, cũng như tầm quan trọng của việc lắng
nghe tiếng nói của ngay cả những người thấp kém nhất và nhỏ bé nhất, được biểu
lộ ở sự kiện Nicée không đi theo con đường của thuyết Arius. Thật vậy, Thánh
Jérôme nhấn mạnh đến số lượng lớn những người theo thuyết Arius và số lượng lớn
các giám mục theo thuyết Arius. Về mặt lịch sử, chắc chắn đây là vấn đề đánh
giá cách đọc của Thánh Jérôme, bởi vì hầu hết các giám mục và Kitô hữu không trực
tiếp lựa chọn thuyết Arius, nhưng lại khá do dự trước một thuật ngữ không có
trong Tân Ước. Tuy nói vậy, nhưng vì hiệu quả của vũ lực đã xảy ra do chính quyền
chính trị khởi xướng, nên Công đồng đã có thể bảo vệ được sensus
fidelium [cảm thức đức tin] [184] vốn hiện hữu trong dân Chúa. Theo
nghĩa này, chúng ta có thể nói rằng lời tuyên xưng đức tin của Nicée là tiếng vọng
trung thành được sống trong Giáo hội của niềm hân hoan của Chúa Kitô: " Lạy
Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc
khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người
bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. " (Mt 11:25-26).
Kết luận: Công bố Chúa Giêsu là Đấng Cứu rỗi của chúng ta cho mọi người ngày
hôm nay
121. Việc cử hành 1,700 năm Công đồng Nicée là lời mời gọi khẩn thiết đối với
Giáo hội để tái khám phá kho tàng đã được trao phó cho mình và rút ra từ đó để
chia sẻ với niềm vui, trong một đà lực mới, thậm chí trong một "giai đoạn
mới của việc truyền giảng Tin mừng". [185] » Việc công bố Chúa Giêsu Ơn cứu
rỗi của chúng ta khởi đi từ đức tin được diễn tả tại Nicée, như được tuyên xưng
trong Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople, trước hết là để cho mình thán phục
trước sự bao la của Chúa Kitô để tất cả mọi người có thể thánh phục về điều đó,
để thắp lại ngọn lửa tình yêu của chúng ta đối với Chúa Giêsu, để tất cả mọi
người có thể bùng cháy tình yêu đối với Người. Không có gì và không ai đẹp hơn,
sảng khoái hơn, cần thiết hơn Người. Dostoevsky tuyên bố điều đó một cách mạnh
mẽ: “Tôi đã rèn luyện trong chính mình một Kinh Tin Kính, trong đó mọi thứ đều
rõ ràng và thánh thiêng đối với tôi. Kinh Tin Kính này rất đơn giản, đó là: tin
rằng không có gì đẹp hơn, sâu sắc hơn, cảm thông hơn, hợp lý hơn, nam tính hơn
và hoàn hảo hơn Chúa Kitô. [186] "Trong Chúa Giêsu, homoousios với
Chúa Cha, chính Thiên Chúa đến để cứu chúng ta, chính Thiên Chúa đã ràng buộc
mình với nhân loại mãi mãi, để hoàn thành ơn gọi của chúng ta là con người. Là
Con Một, Người biến đổi chúng ta nên giống Người như những người con trai, con
gái yêu dấu của Chúa Cha nhờ quyền năng ban sự sống của Chúa Thánh Thần. Những
ai đã chứng kiến vinh quang (doxă) của Chúa Kitô có thể hát bài ca này,
và để cho lời tôn vinh biến thành lời công bố quảng đại và huynh đệ, tức là
thành lời rao giảng kerygma [giáo lý sơ truyền].
122. Việc loan báo Chúa Giêsu là Đấng Cứu rỗi chúng ta qua đức tin được diễn tả
tại Công đồng Nicée không phải là bỏ qua thực tại của nhân loại. Đức tin này
không ngoảnh mặt làm ngơ trước những đau khổ và biến động đang hoành hành trên
thế giới và ngày nay dường như đang phá hoại mọi hy vọng. Ngược lại, nó đối diện
với những rắc rối này bằng cách tuyên xưng sự cứu chuộc duy nhất có thể, được đạt
tới bởi Đấng đã từng biết đến cả sự dữ dội của tội lỗi và sự chối bỏ, cảnh cô
đơn của sự bỏ rơi và cái chết, và Đấng, từ chính vực thẳm của sự dữ, đã trỗi dậy
để đưa chúng ta cũng đến với chiến thắng của Người để đến vinh quang của sự phục
sinh. Lời loan báo mới này không hề bỏ qua văn hóa và các nền văn hóa, nhưng
ngược lại, ở đấy cũng vậy với hy vọng và lòng bác ái, lắng nghe và được chúng
làm cho phong phú, mời gọi chúng thanh lọc và nâng cao chúng. Việc bước vào niềm
hy vọng như thế rõ ràng đòi hỏi sự hoán cải, nhưng trước hết là từ phía người
loan báo Chúa Giêsu bằng cuộc sống và lời nói, vì đó là sự đổi mới trí tuệ theo
tư tưởng của Chúa Kitô. Nicée là kết quả của sự biến đổi tư tưởng được ngụ ý và
thực hiện thông qua biến cố Chúa Giêsu Kitô. Tương tự như vậy, một giai đoạn
truyền giáo mới chỉ có thể thực hiện được đối với những ai để mình được đổi mới
bởi biến cố này, đối với những ai để mình được chiếm hữu bởi vinh quang của
Chúa Kitô, luôn luôn mới mẻ.
123. Việc loan báo Chúa Giêsu là Đấng Cứu rỗi của chúng ta, dựa trên đức tin được
diễn tả tại Công đồng Nicée, là phải đặc biệt chú ý đến những anh chị em nhỏ bé
và dễ bị tổn thương nhất của chúng ta. Ánh sáng mới chiếu rọi trên tình huynh đệ
giữa mọi thành viên trong gia đình nhân loại bởi Chúa Kitô, Người Con homoousios [đồng
bản tính] với Chúa Cha và chia sẻ bản chất chung của con người, đặc biệt soi
sáng cho những người cần nhất niềm hy vọng của ân sủng. Chúng ta bị ràng buộc bởi
một mối liên kết căn bản không thể phá hủy với tất cả những người đang đau khổ
và bị loại trừ; Tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm việc để ơn cứu rỗi có thể
đến với họ nói riêng. Rao giảng ở đây có nghĩa là "cho ăn", "cho
uống", "đón nhận", "cho mặc" và "đi thăm viếng"
(Mt 25:34-40), là làm sáng tỏ vinh quang khiêm nhường của đức tin, đức cậy và đức
mến cho những người không được tin, không ai hy vọng nơi họ và không được thế
gian yêu thương. Việc công bố có nghĩa là làm cho những nhân đức đối thần này tỏa
sáng trong sự khiêm nhường và đau khổ: điều này chỉ có thể đến từ Chúa Kitô, Đấng
Cứu rỗi chúng ta và do đó làm chứng về Người và cho phép chúng ta gặp gỡ Người.
Tuy nhiên, chúng ta đừng nhầm lẫn: những người đàn ông bị đóng đinh trong lịch
sử này chính là Chúa Kitô ở giữa chúng ta, theo nghĩa mạnh mẽ nhất
có thể: "các ngươi đã làm cho chính Ta" (Mt 25:40). Đấng
chịu đóng đinh và phục sinh biết rõ nỗi đau khổ của họ và họ cũng biết nỗi đau
khổ của Người. Vì vậy, họ là những tông đồ, giáo viên và nhà truyền giáo của
người giàu và người khỏe mạnh. Vấn đề là giúp đỡ người nghèo, nhưng trên hết là
bước vào mối quan hệ với họ và sống với họ để cho phép mình được họ dạy dỗ: họ
hiểu rõ hơn bất cứ ai về sự bao la của hồng phúc Chúa Con homoousios,
đi xa đến tận thập giá, được tuyên xưng tại Công đồng Nicée. Họ có thể giới thiệu
cho chúng ta niềm hy vọng mạnh hơn cái chết, theo Lời Chúa, Đấng đã xuống tận
những người thấp hèn nhất trong chúng ta để nâng chúng ta lên cao nhất với Người
[187].
124. Việc loan báo Chúa Giêsu là Đấng Cứu rỗi chúng ta nhờ đức tin được diễn tả
tại Công đồng Nicée là loan báo Người trong Giáo hội. Đó là công bố điều đó
thông qua lời chứng của tình anh em tuyệt vời được thành lập trong Chúa Kitô. Mục
đích là để làm sáng tỏ những điều kỳ diệu mà Giáo hội "duy nhất, thánh thiện,
Công Giáo và tông truyền" là "bí tích cứu rỗi phổ quát" và mở ra
con đường đến với sự sống mới: kho tàng Kinh thánh được giải thích trong Kinh
Tin Kính, sự phong phú của lời cầu nguyện, của phụng vụ và các bí tích phát xuất
từ phép rửa tội được tuyên xưng tại Công đồng Nicée, ánh sáng của giáo huấn phục
vụ cho đức tin chung. Tuy nhiên, kho tàng này “chúng ta mang nó trong những
bình đất” (2 Cô-rinh-tô 4:7). Điều này đúng, vì việc loan báo chỉ có hiệu quả
khi có sự nhất quán giữa hình thức của sứ điệp và nội dung của nó, giữa hình thức
của Chúa Kitô và hình thức truyền giảng Tin mừng. Trong thế giới ngày nay, điều
đặc biệt quan trọng là phải ghi nhớ rằng vinh quang mà chúng ta chiêm ngưỡng
chính là vinh quang của Chúa Kitô, "hiền lành và khiêm nhường trong
lòng" (Mt 11:29), Đấng đã tuyên bố: "Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ
được Đất Hứa làm gia nghiệp" (Mt 5:5). Đấng Chịu Đóng Đinh-Phục Sinh thực
sự chiến thắng, nhưng đó là chiến thắng trên sự chết và tội lỗi chứ không phải
trên kẻ thù – không có kẻ thua cuộc trong Mầu nhiệm Vượt Qua,
ngoại trừ kẻ thua cuộc về mặt cánh chung, Satan là kẻ chia rẽ [188]. Việc loan
báo Chúa Giêsu là Đấng Cứu rỗi của chúng ta không phải là một cuộc đấu tranh,
nhưng đúng hơn là một sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, Đấng đã nhìn những
ai Người gặp bằng tình yêu thương và lòng trắc ẩn (Mc 10:21; Mt 9:36) và để cho
mình được hướng dẫn bởi một người khác, bởi Thánh Thần của Chúa Cha[189]. Lời
loan báo sẽ có kết quả nếu chính Chúa Kitô hành động trong chúng ta:
“Thật tốt khi nhớ rằng khi sai các môn đệ đi truyền giáo, ‘Chúa đã làm việc với
họ’ (Mc 16:20). Người ở đó, làm việc, đấu tranh và làm điều tốt với chúng ta.
Theo một cách huyền nhiệm, chính tình yêu của Người được biểu lộ qua việc phục
vụ của chúng ta, chính Người là người nói với thế giới bằng ngôn ngữ đôi khi
không có lời nào diễn tả được[190].
Kỳ tới: Các Chú thích
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét