06/08/2025
Thứ
Tư tuần 18 thường niên.
CHÚA
HIỂN DUNG năm C.
Lễ
Kính.
* Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung
nhắc cho các tín hữu nhớ rằng Chúa Kitô đã muốn ‘chuẩn bị tâm hồn các môn đệ khỏi
vấp phạm vì khổ hình thập giá’. Nhưng đồng thời lễ này cũng loan báo cho mọi
tín hữu biết mình được nhận làm con cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa là Đức
Giêsu, và loan báo ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời trên toàn thân thể
nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.
Bài Ðọc I: Ðn 7, 9-10. 13-14
“Áo Người trắng như tuyết”.
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Tôi ngắm nhìn cho đến khi đặt ngai toà xong, và một vị Bô
Lão ngự trên ngai: áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người như những ngọn
lửa, các bánh xe như lửa cháy. Một con sông lửa chảy lan tràn trước mặt Người.
Hằng ngàn kẻ phụng sự Người, và muôn vàn kẻ chầu chực Người. Người ngự toà xét
xử, và các quyển sách đều mở ra.
Trong một thị kiến ban đêm, tôi đã ngắm nhìn, và đây tôi thấy
như Con Người đến trong đám mây trên trời. Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta
dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão. Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và
vương quốc: Tất cả các dân tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: quyền
năng của Ngài là quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất: vương quốc của
Ngài không khi nào bị phá huỷ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96, 1-2. 5-6. 9
Ðáp: Chúa hiển trị,
Chúa là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất (c. 1a và 9a).
Xướng: Chúa hiển
trị, địa cầu hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương
mù bao toả chung quanh; công minh chính trực là nền kê ngai báu. – Ðáp.
Xướng: Núi non vỡ
lở như mẩu sáp ong trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi trái đất.
Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
– Ðáp.
Xướng: Lạy Chúa,
vì Ngài là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất, Ngài rất đỗi siêu phàm giữa muôn
chúa tể. – Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Pr 1, 16-19
“Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán xuống”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, chúng tôi không theo những truyện bày đặt
khôn khéo, để tỏ ra cho anh em biết quyền năng và sự hiện diện của Ðức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta; nhưng chúng tôi đã được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của
Người. Người đã được Chúa Cha ban cho vinh dự và vinh quang, khi có lời từ sự
vinh quang cao cả xuống phán về Người rằng: “Này là Con Ta yêu dấu, Người đẹp
lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người”. Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán
xuống, lúc chúng tôi ở với Người trên núi thánh. Và chúng tôi có lời nói chắc
chắn hơn nữa là lời nói tiên tri: anh em nên nghe theo lời đó, nó như ngọn đèn
sáng soi trong nơi u tối, cho đến khi rạng đông và sao mai mọc lên trong lòng
anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 17, 5c
Alleluia, alleluia! – Này là Con Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta,
các ngươi hãy nghe lời Người. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 9, 28b-36
“Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu
nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người
trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và
Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại
Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của
Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng
Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm
ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Khi nói thế, Phêrô không
rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy
các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây
có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Và
khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó,
các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
Ðó là lời Chúa.
Sự Biến Hình của
Chúa
Ghi chú: Sự Biến Hình
của Chúa tưởng niệm một sự kiện trong cuộc đời Chúa Giêsu được ghi lại trong
các sách Phúc Âm Nhất Lãm gồm Mát-thêu, Má-côc và Luca. Sự kiện
này không được ghi lại trong Phúc Âm Gioan. Nó cũng được nhắc đến trong Thư Thứ
Hai của Thánh Phêrô, được dùng làm bài đọc xen kẽ trong các ngày thường hoặc
làm Bài Đọc Thứ Hai vào Chúa Nhật. Mỗi bản Phúc Âm được đọc theo chu kỳ Phụng Vụ
của Năm A, B và C. Ba bản Phúc Âm rất giống nhau, vì vậy bài suy niệm này được
đưa ra để bao quát cả ba năm.
Chú giải về Đa-ni-en 7,9-10. 13-14 hoặc 2 Phê-rô 1,16-19; Mát-thêu 17,1-9 (Năm A); Mác-cô 9,2-10 (Năm B); Lu-ca 9,28-36 (Năm C).
Trong cả ba sách Phúc Âm Nhất Lãm, câu chuyện Biến Hình xảy
ra trong cùng một bối cảnh, và bối cảnh đó rất quan trọng. Những câu Kinh Thánh
hôm nay nằm ở giữa câu chuyện Phúc Âm và mọi thứ đang dần đi đến cao trào. Bài
đọc trước mô tả việc các tông đồ dành nhiều thời gian hơn với Chúa Giêsu, khi họ
nghe Người nói và thấy Người làm, hẳn họ đã tự hỏi: “Ráp-bi mà chúng ta đã gắn
bó là ai? Chúa Giêsu này là ai?” Kỳ lạ thay, câu trả lời lại đến từ chính miệng
họ.
Một ngày nọ, khi Chúa Giêsu ở với họ, Người hỏi họ:
Người ta bảo Con Người
là ai? (Mt 16,13)
Chúa Giêsu đã dùng danh xưng kỳ lạ này để chỉ chính mình. Dựa
trên những gì họ nghe được từ những người xung quanh, họ nói rằng có nhiều câu
trả lời mang tính suy đoán khác nhau—Gioan Tẩy Giả (sống lại từ cõi chết), Ê-li-a (tương tự) hoặc một số
tiên tri khác.
Sau đó, Chúa Giêsu hỏi họ thêm:
Còn anh em, anh em bảo
Thầy là ai? (Lc 9,20)
Lúc đó, Phê-rô
lên tiếng:
Thầy là Đấng Mê-si-a,
Con Thiên Chúa hằng sống. (Mát-thêu
16,16)
Đó là khoảnh khắc đỉnh cao trong mối quan hệ của họ với Chúa
Giê-su, và cũng là một khoảnh khắc đầy phấn khích. Trí tưởng tượng của họ hẳn
đã bắt đầu hình dung ra ý nghĩa của việc được gắn bó mật thiết với Đấng
Mê-si-a, vị Vua sẽ là Đấng Cứu Thế và Đấng Giải Phóng dân Ít-ra-en! Biết bao vinh quang và đặc ân
đang chờ đón họ với tư cách là môn đồ của Ngài!
Nhưng gần như ngay lập tức, Chúa Giê-su bắt đầu nói theo một
cách rất khác. Lần đầu tiên (điều này sẽ xảy ra tổng cộng ba lần), Ngài nói với
họ về tương lai của Ngài. Và điều đó hẳn đã gây ra một cú sốc khủng khiếp. Chúa
Giê-su nói với họ rằng Ngài sẽ chịu đau khổ rất nhiều, bị chính những người
lãnh đạo dân tộc của họ từ chối, bị giết và sau ba ngày sẽ sống lại. Họ không
thể tin vào tai mình. Làm sao điều này lại có thể xảy ra với Đấng Mê-si-a? Làm
sao những người lãnh đạo của họ lại có thể làm như vậy? Và điều đó có ý nghĩa
gì đối với tương lai huy hoàng mà họ đang thấy trước mắt?
Phê-rô
nóng nảy bước lên phía trước. Ông kêu lên:
Lạy Chúa, xin Chúa đừng
để điều đó xảy ra với Ngài! Xin đừng để điều đó xảy ra với Ngài.
(Mát-thêu
16,22)
Ông ta khó có thể ngờ được phản ứng của Chúa Giê-su:
Hỡi Sa-tan, hãy lui ra
đằng sau Ta! Vì ngươi không nghĩ đến việc Đức Chúa Trời, mà chỉ nghĩ đến việc
loài người. (Mác-cô 8,33)
Và trong khi họ đang hồi phục sau cơn đau, Chúa Giê-su tiếp
tục phán rằng không chỉ chính Ngài sẽ chịu đau khổ, mà nếu muốn làm môn đồ
Ngài, họ sẽ phải sẵn sàng bước đi trên cùng một con đường:
Nếu ai muốn theo Ta,
hãy từ bỏ chính mình, vác thập tự giá mình mà theo Ta. (Mác-cô 8,34)
Chính sau tình huống chán nản, vỡ mộng và khó hiểu này, bài
đọc hôm nay mô tả về Sự Biến Hình diễn ra. Chúng ta được biết rằng sáu ngày sau
(tám ngày trong sách Lu-ca), Chúa Giê-su đã dẫn Phê-rô, Gia-cô-bê và em trai ông là Gioan lên một ngọn núi cao. Danh
tính của ngọn núi không được nói đến và điều đó không quan trọng. Trong Kinh
thánh, núi là nơi thánh và luôn có những sự kiện đặc biệt xảy ra ở đó—ví dụ như
Núi Sinai (Mô-sê), Núi Carmel
(Ê-li-a), Bài giảng trên núi,
Chúa cho 5.000 người ăn, và Đồi Calvary (Golgotha), một ngọn đồi bên ngoài
Jerusalem.
Trước mặt họ, Chúa Giêsu bỗng nhiên biến đổi và sáng ngời rực
rỡ. Họ gần như không thể nhìn thấy Ngài. Bỗng nhiên, Môsê và Êlia xuất hiện
cùng Ngài. Họ đại diện cho toàn bộ truyền thống Do Thái về Luật pháp và các
Tiên tri. Họ được nhìn thấy đang trò chuyện với Chúa Giêsu. Thông điệp rất rõ
ràng. Họ hoàn toàn tán thành những gì Chúa Giêsu đang làm và đang nói, cũng như
tương lai mà Ngài đã báo trước về chính mình.
Phê-rô trở
nên hoàn toàn bối rối. Ông đề nghị dựng ba lều - mỗi lều cho Chúa Giêsu, Môsê
và Êlia. Như Mác-cô đã bình
luận:
Ông không biết phải
nói gì, vì họ kinh hãi. (Mác-cô 9,6)
Nhưng đó chưa phải là tất cả. Ngay lúc đó, một đám mây ập xuống
và che phủ họ. Đây không chỉ là sự thay đổi thời tiết. Theo quan điểm Kinh
Thánh, nó chỉ nói về một điều duy nhất - sự hiện diện của chính Đức Chúa. Và rồi từ trong đám mây, một
giọng nói vang lên; đó chỉ có thể là giọng nói của Một Đấng:
Đây là Con yêu dấu của
Ta, Ta hài lòng về Người; hãy nghe lời Người! (Mát-thêu 17,5)
Đây chính là sự tán thành tối cao của Chúa Cha đối với Chúa
Con. “Hãy nghe lời Người!” Vâng, hãy lắng nghe, ngay cả khi Người nói những điều
bạn không thích, những điều bạn chưa hiểu. Đó là sự xác nhận tất cả những gì đã
xảy ra trước đó—danh tính thực sự của Chúa Giêsu và sự đáng tin cậy của mọi điều
Người phán sẽ xảy ra với Người và những gì được kỳ vọng ở họ.
Đó là một khoảnh khắc khích lệ đặc biệt, giúp họ vượt qua những
ngày khó khăn sắp tới. Họ đã có câu trả lời cho câu hỏi: “Chúa Giêsu là ai?”
Nhưng giờ đây họ phải học câu trả lời cho một câu hỏi quan trọng hơn: “Chúa
Giêsu sẽ là loại Đấng Messia nào?” Họ sẽ không hoàn toàn chấp nhận điều đó cho
đến sau khi Chúa Giêsu phục sinh và lên trời, khi đó họ sẽ mạnh dạn tiếp tục sứ
mệnh của Người và không ngần ngại vác thập giá của mình để làm như vậy.
Chúng ta hãy bước theo bước chân của họ. Đó là nơi hạnh phúc
và sự viên mãn đích thực nằm ở đó.
Bài đọc thứ nhất (trích từ sách Đa-ni-en) ghi lại một thị kiến
mà Đa-ni-en đã thấy về Thiên Chúa trong vinh quang và nó lặp lại cảnh tượng được
mô tả trong Phúc Âm:
...một Đấng Lão Thành
ngự trên ngai vàng;
y phục Người trắng như
tuyết
và tóc trên đầu Người
như len tinh khiết;
Ngai vàng của Người là
ngọn lửa hừng,
và bánh xe của Người
cũng rực cháy.
Bài đọc thứ nhất (hoặc Bài đọc thứ hai ở một số quốc gia) được
trích từ Thư thứ hai của Thánh Phêrô, trong đó ngài nói rằng ngài và các bạn đồng
hành không phải đang truyền bá những huyền thoại khéo léo, mà đúng hơn, ngài tự
nhận mình là nhân chứng trực tiếp về vinh quang của Chúa Giêsu. Nhắc đến biến cố
Biến hình, ngài nói rằng họ đã “chứng kiến sự uy nghi của Người”. Ngài và các bạn
đồng hành đã nghe những lời xác nhận đến từ Thiên Chúa trong vinh quang của Người:
Đây là Con Ta, Đấng Ta
đã tuyển chọn; hãy vâng nghe lời Người! (Lc 9,35)
Thánh Phêrô nói rằng họ đã nghe:
...tiếng nói này từ trời
phán xuống, khi chúng tôi đang ở với Người trên núi thánh.
Do đó, sứ điệp mà ngài và các bạn đồng hành đang rao giảng
là “hoàn toàn đáng tin cậy” và chúng ta nên hết sức coi trọng. Bởi vì, ngài nói
bằng một câu rất hay, sứ điệp này là:
...một ngọn đèn soi
sáng nơi tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên trong lòng anh
em.
https://livingspace.sacredspace.ie/f0806r/
Thần tính nơi Đức Giêsu và nơi mỗi người chúng ta
Câu hỏi gợi ý:
1. Sự hiển dung của Đức Giêsu mặc khải điều gì? Dung mạo
Ngài thay đổi, y phục chói loà, sự hiện diện của Môsê
và Êlia có ý nghĩa gì?
2. Đức Giêsu có thần tính, vì Ngài là Con Một Thiên Chúa.
Còn chúng ta, chúng ta có thần tính và có là con cái của Thiên Chúa không? Thần
tính của Ngài và của ta khác nhau chỗ nào?
3. Ý thức về thần tính của mình quan trọng thế nào trong sự
phát triển tâm linh? Bj không ý thức về nó, ta có sử dụng được nó không?
Suy tư gợi ý:
1. Thiên Chúa mặc khải thần tính của Đức Giêsu
Bài Tin Mừng nói về việc Thiên Chúa mặc khải cho các tông đồ
biết Đức Giêsu có thần tính và là Đấng mà Môsê và các ngôn sứ loan báo mấy trăm
năm trước. Trong đời sống thường ngày ở bên cạnh Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy
được nhân tính của Ngài. Vì Ngài sống không khác bất kỳ một người bình thường
nào: cũng ăn, uống, cũng vất vả, mệt nhọc, cũng vui buồn, tức giận… y hệt mọi
người. Nếu có gì khác thì chỉ là Ngài làm được những phép lạ phi thường. Điều
này chỉ gợi ý cho các ông nghĩ rằng Ngài là một người phi thường tương tự các
ngôn sứ xưa mà thôi, vì các ngôn sứ ngày xưa cũng lắm khi làm được những phép lạ.
Nhưng hôm nay Thiên Chúa tỏ cho các ông thấy Đức Giêsu không
chỉ có nhân tính, mà còn có thần tính, nghĩa là Ngài là thần linh. Tuy nhiên, tất
cả những gì các ông thấy hôm nay chỉ là những biểu tượng thần bí nói lên bản
tính thần linh nơi con người Đức Giêsu mà các ông không thể thấy được bằng trí
tuệ hay con mắt xác thịt của các ông.
- Trước hết các ông thấy: “Dung mạo Người bỗng đổi khác, y
phục Người trở nên trắng tinh chói loà”. Tin Mừng Matthêu nói: “Dung nhan Người
chói lọi như mặt trời” (Mt 17,2). Và có tiếng phán từ trong đám mây “Đây là Con
Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”. Đó là những biểu tượng
cho các ông thấy Đức Giêsu có thần tính: Ngài là Con Thiên Chúa, có bản tính
Thiên Chúa.
- Các ông còn thấy “có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là
ông Môsê và ông Êlia”. Đây là hai nhân vật quan trọng nhất trong Cựu ước, đại
diện cho hai thực tại quan trọng nhất của Do Thái giáo. Môsê đại diện cho luật
pháp, vì ông là người lập ra luật pháp, nền tảng thành văn của Do Thái giáo.
Êlia, ngôn sứ vĩ đại nhất, đại diện cho các ngôn sứ là những tiếng nói của
Thiên Chúa giữa con người. Hai ông là biểu tượng tiên báo sự ra đời của Đức
Giêsu. Trong sách Đệ Nhị Luật, Môsê viết: “Từ giữa anh em, trong số các anh em
của anh em, Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh
em hãy nghe vị ấy” (Đnl 18,15). Còn Êlia được ngôn sứ Malakia tiên báo là sẽ trở
lại trước khi Đức Giêsu đến: “Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước
khi ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và kinh
hoàng” (Ml 3,23). Đức Giêsu cũng xác nhận Êlia phải trở lại trước khi Ngài đến
(x. Mt 17,10-12; Mc 9,12-13).
2. Thần tính của chúng ta, những người Kitô hữu
Đức Giêsu có thần tính, nghĩa là Ngài là thần linh, cũng là
Thiên Chúa. Thế còn chúng ta, những con người được Thiên Chúa tạo dựng thì sao?
Kinh Thánh mặc khải cho ta biết con người là “hình ảnh của Thiên Chúa” (St
1,26-27; 9,6), được tạo dựng “giống như Thiên Chúa” (St 1,26b). Hình ảnh của một
người không phải là người ấy nhưng giống hệt như người ấy, khiến ai nhìn vào
hình ảnh ấy có thể phần nào thấy được chính người ấy. Hai vật hay hai người đã
gọi là giống nhau, nhất là khi nói người này là hình ảnh của người kia, ắt phải
giống rất nhiều điểm, hay rất giống ở những điểm cốt yếu. Người và chó đều có
thân xác vật chất (cũng có đầu, mình, tứ chi, mắt mũi, v.v…), nhưng không ai
nói người và chó giống nhau. Vậy, con người “giống như Thiên Chúa” ở chỗ nào?
Thánh Phêrô hé mở cho chúng ta biết: “Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì
rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản
tính Thiên Chúa” (2Pr 1,4). Như vậy, điều khiến con người giống Thiên Chúa
chính là bản tính thần linh mà Thiên Chúa thông ban cho chúng ta. Bản tính thần
linh chúng ta có được là do Ngài thông ban cho khi tạo dựng nên ta, khác với bản
tính thần linh ở nơi Ngài là do tự bản chất vốn có của Ngài.
Nếu không có bản tính thần linh này trong chúng ta, chúng ta
không bao giờ có thể nên thánh như Thiên Chúa đúng như Đức Giêsu đã mời gọi ta
được: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”
(Mt 5,48). Cũng như con chó không có bản tính người nên không thể có những đặc
tính như con người (suy nghĩ, nói năng, yêu thương, hướng thượng, tự do…).
Thiên Chúa tự bản chất là tình thương và là thánh, con người vì giống Thiên
Chúa từ bản chất nên cũng có khả năng yêu thương và nên thánh. Vua Đavít đã được
thần hứng để nhận ra và nói lên chân lý này: “Ta đã phán: Hết thảy các ngươi
đây đều là bậc thần thánh, là con Đấng Tối Cao” (Tv 82,6; x. Ga 10,34-35). Nếu
chúng ta không có bản tính thần linh, chúng ta không thể là con cái Thiên Chúa
đúng nghĩa như Kinh Thánh vẫn nói: chúng ta “là con cái Thiên Chúa” (Lc 20,36;
Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6). Chính vì chúng ta có thần tính mà Đức Giêsu dám quả
quyết: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi
này: "rời khỏi đây, qua bên kia!" nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì
mà anh em không làm được” (Mt 17,20). Điều quan trọng để thần tính ấy hoạt động
là đức tin.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, biểu tượng nói lên bản tính thần
linh của các tông đồ là: “có một đám mây bao phủ các ông”. Tiếng của Thiên Chúa
phán ra từ đám mây, vì thế đám mây tượng trưng cho thần tính. Và trong bài đọc
II, thánh Phaolô cho ta thấy nguồn gốc hay “quê hương của chúng ta là ở trên trời”
(Pl 3,20; x. Dt 11,16). Đó cũng là một biểu trưng cho thần tính của chúng ta.
3. Ý thức bản tính thần linh của mình và sống với bản
tính ấy là cốt tuỷ của đời sống tâm linh Kitô hữu
Cuộc hiển dung của Đức Giêsu cho thấy bản tính thần linh của
Ngài. Chỉ những ai được Thiên Chúa mặc khải mới biết bản tính ẩn dấu này ở nơi
Ngài. Thần tính của Đức Giêsu là thần tính thường hằng, không thay đổi. Còn thần
tính của chúng ta là thần tính cần phải vun trồng mới phát triển. Có thể
minh hoạ điều này bằng sự phát triển của một cái
cây. Thần tính được Thiên Chúa thông phần và ươm sẵn trong chúng ta tương tự
như một cái hạt có thể nảy mầm và phát triển thành cây tuỳ theo
sự vun trồng, chăm sóc của mỗi người. Nếu không có sự quan tâm, chăm sóc, vun
trồng, thì cái hạt tâm linh của ta vẫn mãi mãi là một cái hạt, hoặc nếu có nẩy
mầm thì sẽ thành một cái cây èo ọt, không sinh hoa kết trái. Trái lại, nếu được
vun trồng và chăm sóc cẩn thận, nó sẽ phát triển thành một cây lớn với cành lá
xum xuê và sinh nhiều hoa trái. Dụ ngôn hạt cải của Đức Giêsu (x. Mt 13,31-32;
Mc 4,30-32; Lc 13,18-19) có thể áp dụng cho thần tính hay Nước Trời, được ươm
giống trong bản thân mỗi người chúng ta.
Điều quan trọng nhất để hạt giống thần linh hay mầm thần
tính ấy phát triển là phải tin vào thần tính ấy, thường xuyên ý thức về nó, và
sống phù hợp với thần tính ấy. Nếu không có thần tính, chúng ta không thể có sự
sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh. Nếu không ý thức về thần tính ấy, sự sống
siêu nhiên hay đời sống tâm linh của ta không phát triển được. Thật vậy, làm
sao sự sống siêu nhiên hay đời sống tâm linh có thể phát triển khi ta không hề
ý thức mình có nó hay không hề cảm nghiệm được nó nơi bản thân? Càng ý thức về
nó, càng sống phù hợp với ý thức đó thì tâm linh càng phát triển cùng với sức mạnh
và quyền năng của nó. Người có đời sống tâm linh phát triển - tức người ý thức
mạnh mẽ và thường xuyên về thần tính của mình - sẽ luôn luôn cảm thấy bình an,
hạnh phúc, đầy tự tin vào sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa nơi mình. Thánh
Phaolô kể ra những hoa trái của đời sống tâm linh hay sự sống bằng Thần Khí ấy:
“Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ
tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23). Ý thức thường xuyên về thần
tính của mình là một hình thức cầu nguyện và kết hiệp với Chúa một cách thâm
sâu. Nó sẽ đem lại một sự thay đổi sâu xa trong đời sống tâm linh của ta.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, Cha đã thông ban thần tính hay sự sống siêu nhiên của
Cha cho con người ngay từ khi tạo dựng nên con người. Con người sẽ hạnh phúc biết
bao khi biết và ý thức được điều ấy, nhất là khi hưởng được hoa trái của thần
tính ấy trong đời sống hằng ngày của mình. Xin cho con ý thức được ân huệ cao quý ấy mà Cha đã ban cho con. Đừng để con giống như
người có một kho tàng vô cùng lớn lao nhưng không hề biết đến nên không hưởng
được một ích lợi nào từ nó cả. Amen.
JKN



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét