Trang

Thứ Sáu, 10 tháng 8, 2012

11-08-2012 : THỨ BẢY TUẦN XVIII MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Bảy sau Chúa Nhật 18 Quanh Năm
Thánh CLARA, Trinh Nữ 
Thánh nữ Clara


Bài Ðọc I: (Năm II) Kb 1, 12 - 2, 4
"Người công chính sống được nhờ trung tín".
Trích sách Tiên tri Khabacúc.
Chớ thì ngàn xưa Chúa chẳng phải là Thiên Chúa, Chúa của tôi, là Ðấng Thánh của tôi? Vậy là chúng tôi không sao chết được. Lạy Chúa, Chúa đã đặt nó lên để xét xử, làm cho nó vững mạnh để trừng phạt. Mắt Chúa tinh sạch, không thể nhìn sự dữ, không thể xem sự gian ác. Tại sao Chúa lại nhìn những kẻ gian ác, và kẻ bất lương nuốt người công chính hơn nó, sao Chúa vẫn làm thinh?
Chúa để loài người như cá biển, như sâu bọ không có vua quan. Nó lấy lưỡi câu mà bắt hết, lấy chài mà kéo mọi sự, lấy lưới mà thu lượm: bởi thế nó hớn hở vui mừng. Vì vậy, nó cúng tế cho chài, nó dâng lễ vật cho lưới, vì bởi đấy nó được phần béo tốt và món ăn ngon. Lẽ nào nó cứ thả lưới không ngừng và luôn luôn tàn nhẫn sát hại các dân?
Tôi sẽ đứng ở vọng canh của tôi, đứng yên nơi thành lũy của tôi, tôi chờ xem Chúa dạy tôi thế nào, và trả lời ra sao cho điều tôi biện bạch? Chúa đáp lại tôi rằng: "Hãy chép điều ngươi thấy, hãy khắc nó vào tấm bảng để đọc được dễ dàng. Bởi hình lạ còn xa, nó sẽ xuất hiện trong thời sau hết và sẽ chẳng hư không. Nó kết duyên với ngươi, hãy chờ đợi nó, vì nó sẽ đến không trì hoãn. Chắc chắn nó sẽ đến, không sai. Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người công chính sẽ sống nhờ trung tín".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 9, 8-9. 10-11. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa, Chúa không bỏ rơi kẻ kiếm tìm Chúa (c. 11b).
Xướng: 1) Chúa ngự trị tới muôn đời, Người dựng vững ngai vàng ngõ hầu cai trị. Người công minh thống trị địa cầu, Người chính trực xét xử chư dân. - Ðáp.
2) Chúa là chỗ dung thân cho người bị ức, chỗ dung thân dành cho những lúc gian truân, để những ai nhìn biết uy danh, cậy trông vào Chúa, vì lạy Chúa, Chúa không bỏ rơi kẻ kiếm tìm Ngài. - Ðáp.
3) Hãy đàn ca Chúa, Người ngự ở Sion; hãy loan truyền công cuộc Chúa khắp chư dân: vì Ðấng đòi nợ máu, Người nhớ họ, Người không quên tiếng kêu của những kẻ cơ bần. - Ðáp.

* * *

Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 17, 14-19
"Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Trước khi làm phép lạ, Ðức Giêsu thường đòi hỏi niềm tin nơi người thỉnh nguyện. Khi tin vào Chúa là một cách người ta nhìn nhận sự bất lực của mình và hoàn toàn cậy dựa vào Chúa. Không có Chúa, chúng ta không thể làm được gì. Khi có Chúa, chắc chắn chúng ta vượt thắng được tất cả mọi khó khăn.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, những tính mê nết xấu đang hoành hành nơi mỗi người chúng con. Chúng con muốn chống trả nhưng nhiều khi không thắng được. Chúng con tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Chúa. Xin giúp chúng con cố gắng từng ngày, từng giờ để chiến đấu với chính mình. Amen.

(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)


 Ðức Tin Rất Cần Thiết
(Mt 17,14-20)


Suy Niệm:
Ðức Tin Rất Cần Thiết
Thánh Augustinô nói: "Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Ngài cần đến sự cộng tác của con người". Sở dĩ như vậy là vì Thiên Chúa dựng nên con người có tự do, và tự do bao hàm sự lựa chọn tin nhận hoặc khước từ Thiên Chúa. Ðức tin cần thiết cho con người, không những để được cứu rỗi, mà còn để biết vui tươi đón nhận những biến cố trong đời sống theo thánh ý Chúa.
Tin Mừng hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu chữa một đứa bé bị kinh phong. Có thể nói, không có gì đặc biệt, nếu phép lạ được thực hiện do Chúa Giêsu, bởi vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng làm được mọi sự. Nhưng điều quan trọng là phép lạ có thể xẩy ra là do đức tin của con người. Thật thế, trong bất cứ phép lạ nào, Chúa Giêsu cũng đòi hỏi con người phải tin, hoặc chính đương sự hoặc cha mẹ hay người bảo trợ. Là Ðấng Cứu Thế, Chúa Giêsu yêu thương và muốn cứu chữa con người khỏi mọi tật bệnh; nhưng mỗi khi thực hiện phép lạ để cứu chữa một người nào, Ngài cũng đòi phải có đức tin. Nếu việc cứu chữa riêng lẻ đó chỉ là hình ảnh lu mờ của việc cứu chữa tối hậu mà Chúa còn đòi hỏi đức tin, thì để được cứu rỗi trong thời cứu độ viên mãn, đức tin còn cần thiết biết chừng nào.
Kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì chẳng có gì các con không làm được. Ðức tin làm cho chúng ta từ con người tội lỗi trở thành con cái Thiên Chúa; đức tin giúp cho những việc tầm thường trong đời sống trở thành có giá trị vĩnh cửu; đức tin cho chúng ta có cái nhìn lạc quan tin tưởng vào mọi biến cố cuộc sống; đức tin giúp con người làm được những điều mà người không có đức tin không hiểu nổi: các thánh tử đạo can đảm chấp nhận cái chết đau thương, các thánh hiển tu đã từ bỏ tất cả để hoàn toàn sống theo Chúa.
Nguyện xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta để nhận ra bàn tay Chúa luôn dẫn dắt chúng ta và luôn sống trong bình an dưới sự chăm sóc của Ðấng Toàn Năng.

(Veritas Asia)

LỜI CHÚA MỖI NGÀY

THỨ BẢY TUẦN XVIII THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: Hab 1:12-2:4; Mt 17:14-20

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:

Kiên nhẫn cậy trông trong đức tin.

Mặc dù chúng ta là những tội nhân xứng đáng để chịu đau khổ vì những tội chúng ta đã phạm, nhưng chúng ta rất dễ nổi nóng khi thấy những người chúng ta nghĩ là tội lỗi hơn chúng ta, lại sống sung sướng hạnh phúc hơn chúng ta. Rồi chúng ta tự hỏi: Chúa ở đâu? Tại sao Ngài không có mắt? Tại sao Ngài để kẻ “lương thiện”phải chịu nhiều gian nan khốn khó trong khi kẻ ác nhân được cuộc sống dễ dãi giàu sang? Từ câu hỏi này, chúng ta sẽ dễ dàng đi vào hai kết luận: hoặc không tin có Thiên Chúa hay có một Thiên Chúa bất công.

Hai bài đọc hôm nay cho chúng ta hai ví dụ tại sao phải kiên trì trong đức tin. Trong bài đọc I, tiên tri Habakkuk không hiểu lý do tại sao Thiên Chúa để vương quốc Israel miền Bắc rơi vào tay của Assyria, một dân tộc hung ác và không biết gì đến Thiên Chúa. Thiên Chúa khuyên ông cứ kiên nhẫn chờ thời gian, ông sẽ biết lý do của tất cả những việc Ngài làm. Trong Phúc Âm, các môn đệ chất vấn Chúa Giêsu tại sao họ không thể trừ quỉ cho đứa bé mà cha nó mang tới. Chúa Giêsu trả lời rất đơn giản: vì các con yếu lòng tin!



KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Người công chính sẽ sống bởi niềm tin.

1.1/ Sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình?

Tiên tri Habakkuk có lẽ họat động đồng thời với tiên tri Nahum, trong thời gian từ 640-598 BC, thời kỳ lưu đày của Israel bên Assyria. Lý do tại sao vương quốc Israel bị thất thủ và vua quan cùng dân chúng bị lưu đày là tội bất trung với Chúa chạy theo các thần ngọai như tiên tri Hosea đã tuyên cáo, và tội bất công chèn ép dân nghèo như tiên tri Amos đã tuyên cáo.

Nhưng tiên tri Habakkuk đã mất kiên nhẫn chờ đợi khi thấy Assyria tội lỗi hơn Israel, tại sao Chúa lại để một đứa ác nhân như thế mặc sức chà đạp Dân Chúa và ông đặt câu hỏi với Thiên Chúa: “Từ muôn thuở, Ngài chẳng là Đức Chúa, là Thiên Chúa con thờ, là Đức Thánh của con, là Đấng Bất Tử sao? Lạy Đức Chúa, chính vì để xét xử mà Ngài đã đặt dân ấy lên. Lạy Đức Chúa là đá tảng, chính vì để thi hành án phạt mà Ngài đã cho nó được mạnh sức. Mắt của Ngài thật quá tinh tuyền không thể chịu được điều gian ác, Ngài không thể nhìn xem cảnh khốn cùng, tại sao Ngài cứ đứng nhìn quân phản bội, sao Ngài lặng thinh khi kẻ gian ác nuốt trửng người chính trực hơn mình?”

1.2/ “Ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của mình."

Habakkuk, cũng như Job, muốn hiểu lý do tại sao Chúa lại làm như thế: Tôi sẽ ra đứng ở chòi canh, đứng gác trên tường luỹ canh chừng xem Người nói với tôi điều gì và đáp lại nỗi bất bình của tôi ra sao! Và Đức Chúa trả lời và nói với tôi: "Hãy viết lại thị kiến và khắc vào tấm bia cho ai nấy đọc được xuôi chảy. Đó là một thị kiến sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành, chứ không làm cho ai thất vọng. Nếu nó chậm tới, thì cứ đợi chờ, vì thế nào nó cũng đến, chứ không trì hoãn đâu.”

Chúa có chương trình và thời giờ của Chúa, Ngài không cần ai làm cố vấn cho Ngài. Chúa có thể dùng kẻ gian ác như Assyria như cái roi để sửa phạt Israel, Ngài cũng có thể dùng quân thù khác để trừng trị kẻ cầm roi. Con người có tội không có quyền để tra vấn Chúa, nhưng phải kiên nhẫn chờ đợi trong đức tin ngày Chúa cất đi những hình phạt cho mình: “Này đây, ai không có tâm hồn ngay thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống nhờ lòng thành tín của mình."

2/ Phúc Âm: Đức tin của người cha có con trai bị kinh phong.

2.1/ Đức tin của người cha:

Giống như người đàn bà xứ Canaan đã kiên trì trong đức tin mặc dầu bị Chúa thử thách, người cha có đứa con trai bị kinh phong hôm nay cũng vậy. Ông đã mang con đến cho các môn đệ của Chúa, nhưng họ không chữa được; nhưng ông không nản lòng, ông cố tìm cơ hội cho được gặp Chúa vì ông tin chắc Chúa sẽ cứu con ông khỏi bệnh.

2.2/ Đức tin yếu kém của các môn đệ:

Khi nghe lời ông nói “Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không chữa được," Chúa Giêsu phải kêu lên: "Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin và gian tà! Tôi còn phải ở với các người cho đến bao giờ, còn phải chịu đựng các người cho đến bao giờ nữa? Đem cháu lại đây cho tôi."

Tại sao Chúa thốt lên những lời này? Chắc chắn không phải vì người cha thiếu đức tin, nhưng là do sự cứng lòng tin của các môn đệ. Chúa mất kiên nhẫn vì Chúa đã dạy dỗ và làm quá nhiều phép lạ trước các ông mà vẫn chưa đủ để các ông đặt trọn vẹn niềm tin vào Ngài.

Chúa Giêsu quát mắng tên quỷ, quỷ liền xuất, và đứa bé được khỏi ngay từ giờ đó. Bấy giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: "Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?" Ngài trả lời: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: "rời khỏi đây, qua bên kia!" nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” 



ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta rất dễ bị lung lay đức tin như tiên tri Habakkuk và các môn đệ hôm nay khi đứng trước thử thách và đau khổ trong cuộc đời.

- Thay vì kiên trì hy vọng trong đức tin như người cha có con bị kinh phong, chúng ta mất kiên nhẫn và chất vấn Chúa tại sao để chúng ta phải đau khổ, tại sao chúng ta không làm được những gì người khác làm?

- Một đức tin vững mạnh nơi Chúa sẽ giúp chúng ta chịu đựng đau khổ cách bình an và nhất là không bao giờ dám chất vấn Chúa.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

****************

Thứ Bảy tuần 18 thường niên
Sứ điệp: Sức mạnh của đời sống người Kitô hữu tùy thuộc vào mức độ của lòng tin. Lòng tin yếu, người Kitô hữu sẽ bất lực; còn lòng tin mạnh, người Kitô hữu sẽ vượt qua mọi thử thách.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, sau khi chứng kiến Chúa trừ quỷ kinh phong, các tông đồ đã hỏi Chúa: “Tại sao chúng con không trừ được quỷ ấy?”. Bản thân con cũng nhiều lần tự hỏi: “Tại sao mình cứ sống tầm thường mãi?”. Câu trả lời của Chúa thật rõ ràng: “Vì các ngươi yếu lòng tin”.
Vì yếu lòng tin mà con chưa cảm nhận được hết ánh nhìn yêu thương của Chúa, cái nhìn trìu mến, mời gọi, khích lệ. Và vì thế con chưa một lần mạnh dạn thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?”. Con thường tránh né ánh nhìn của Chúa, vội cúi đầu quay đi. Vì yếu lòng tin mà con làm ngơ trước tiếng gọi của người anh em đang cần giúp đỡ. Vì yếu lòng tin mà con dè dặt tính toán mỗi khi cần hy sinh, con ngại ngùng đứng dưới chân dốc cuộc đời, thu hẹp khát vọng của mình lại. Đời con vẫn cứ tầm thường vì tự thâm tâm con đã cam nhận sống tầm thường. Con tự vạch ra xung quanh mình những chuẩn mực an toàn, không được lỗi luật và cũng chớ phiêu lưu. Con chôn nén bạc Chúa trao xuống lòng đất và chịu đựng quãng đời vô vị trôi qua. Lạy Chúa, con yếu tin quá.
Giờ đây con muốn tìm lại ánh mắt của Chúa, muốn lắng nghe tiếng Chúa thôi thúc trong tâm tư con. Xin Chúa củng cố đức tin yếu ớt của con. Chúa muốn con vươn cao và sẵn sàng ban ơn để con có thể vươn lên. Với lòng tin mạnh mẽ mà Chúa ban cho con, con sẽ cố gắng sống thánh và sẵn sàng chấp nhận mọi thách đố của cuộc sống. Với lòng tin mạnh mẽ, con sẽ dấn thân trọn vẹn để sống cho Chúa và cho anh chị em. Và với lòng tin mạnh mẽ, con sẽ có đủ sức mạnh để chiếm được Nước Trời. Amen.
Ghi nhớ : "Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được".

11/08/12 THỨ BẢY TUẦN 18 TN
Th. Clara, trinh nữ
Mt 17,14-20

LÀM ĐƯỢC MỌI SỰ VỚI LÒNG TIN

“Nếu anh em có lòng tin, sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17,20)

Suy niệm: Bệnh kinh phong tưởng chừng chỉ là một căn bệnh thể lý, có thể chữa trị bằng phương pháp y học tự nhiên, nhưng trong trường hợp bé trai này, Chúa Giêsu cho thấy nó có liên hệ với tội lỗi, và do đó, với ma quỷ. Phần các tông đồ, có lẽ các ông cứ tưởng với quyền trừ quỷ và chữa bệnh Chúa đã trao cho, các ông chỉ việc nắm vài “bí quyết gia truyền” là có thể trở thành thầy lang chữa được bá bệnh. Chúa Giêsu trách móc các tông đồ đã kém lòng tin, đó là lý do thất bại của các ông trước tên quỷ kinh phong này. Biết bao lần Ngài đã nói cho các ông biết vai trò ưu tiên thiết yếu của lòng tin mỗi khi Ngài chữa lành những bệnh hoạn tật nguyền cho dân chúng; lần này, Ngài nhấn mạnh cho các tông đồ chỉ cần có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi thì đã có thể chuyển núi, rời non và thậm chí, còn làm được mọi sự (c. 20).

Mời Bạn: Một mẫu gương chứng thực sức mạnh của lòng tin đó là Đức Maria. Mẹ tin rằng: “không có gì mà Thiên Chúa không làm được,” lòng tin đó của Mẹ không phải đã chuyển được núi dời được non mà đã khiến Ngôi Hai “rời” cung lòng Chúa Cha mà ngự xuống cung lòng rất trinh khiết của Mẹ. Nhờ cầu nguyện với lòng tin, bạn có thể thấy được nhiều phép lạ Thiên Chúa thực hiện trong cuộc đời bạn.

Sống Lời Chúa: Trước một công việc, bạn nhớ cầu nguyện và trao phó hoàn toàn để Chúa hành động, nhất là những khi gặp gian nan thử thách.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con tin, nhưng xin thêm lòng tin cho chúng con nhờ được kết hiệp với Chúa trong cầu nguyện và đón nhận Mình Máu Thánh Ngài. 



Tại anh em kém tin

 Những thừa tác viên của Giáo Hội nhiều khi thấy mình bất lực trước sự dữ. Chúng ta cần xin Chúa thêm cho ta đức tin để có thể chuyển được những đồi núi nơi lòng con người hôm nay. 

Suy nim:
Thầy Giêsu và ba môn đệ xuống từ trên núi, nơi Thầy mới hiển dung.
Bốn Thầy trò gặp ngay một đám đông.
Một người cha chạy đến, quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu.
Ông xin Ngài thương xót đứa con trai của ông bị kinh phong nặng lắm.
Những mô tả của ông về bệnh tình của con đúng là triệu chứng kinh phong.
Cậu bé không làm chủ được mình, dễ ngã vào nước, vào lửa.
Tính mạng cậu lúc nào cũng bị đe dọa (c. 15).
Điều đáng lưu ý ở đây là chín môn đệ khác đã bó tay.
“Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài,
nhưng các ông không chữa được” (c. 16).
Chính những người đã được Thầy trao quyền để chữa bệnh và trừ quỷ
lại không thể giải quyết được trường hợp này.
Phải chăng vì không có sự hiện diện của Thầy, hay vì đám đông cứng lòng,
hay vì cơn bệnh quá nặng khiến các môn đệ không đủ tự tin và mạnh mẽ?
Dù sao Thầy Giêsu cũng phải ra tay, để làm điều cần làm.
Với thái độ hơi mất kiên nhẫn, Ngài đã trách móc đám đông (c. 17).
Ngài gọi họ là một thế hệ không tin và gian tà.
Đức Giêsu thấy mình vẫn còn phải ở lại với họ và chịu đựng họ (c. 17)
“Đem cháu lại đây cho tôi”
Đức Giêsu quát mắng quỷ, quỷ liền xuất, và cậu bé được khỏi lập tức.
Các môn đệ hẳn bối rối và xấu hổ vì không đuổi được quỷ.
Chắc họ cũng ngạc nhiên vì thấy mình thất bại trong trường hợp này,
tuy họ đã thành công trong nhiều trường hợp khác (x. Lc 10, 17).
Họ chờ lúc riêng tư giữa Thầy trò để hỏi lý do tại sao (c. 19).
Câu trả lời của Thầy Giêsu ở đây là khá rõ ràng.
“Tại anh em kém tin!” (c. 20).
Kém tin là một từ đặc biệt chỉ có trong Tin Mừng Mátthêu.
Từ này được dùng nhiều lần (6, 30; 8, 26; 14, 31; 16, 8).
Người kém tin là người có lòng tin nhỏ bé (oligopistia),
chứ không phải là hoàn toàn không tin chút nào (apistia).
Nhưng lòng tin nhỏ bé này thật sự cũng chẳng đem lại hiệu quả gì.
Nó chưa đáng được gọi là tin theo đúng nghĩa.
Một lòng tin đúng nghĩa thì dù nhỏ bé như một hạt cải
cũng có thể chuyển núi dời non (c. 20b; 1 Cr 13, 2).
Chỉ với lòng tin nhỏ như vậy, sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.
Dĩ nhiên, câu này không có nghĩa là họ làm được mọi sự.
Các môn đệ chỉ làm được những gì liên quan đến việc loan báo Nước Trời,
như chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền và trừ quỷ (Mt 10).
Họ chỉ làm được phép lạ khi người bệnh có lòng tin,
và khi việc họ làm nằm trong ý định của Thiên Chúa.
Những thừa tác viên của Giáo Hội nhiều khi thấy mình bất lực trước sự dữ.
Chúng ta cần xin Chúa thêm cho ta đức tin để có thể chuyển được
những đồi núi nơi lòng con người hôm nay.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa,
xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải,
để con làm bật rễ khỏi lòng con
những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm
để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến,
chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt
để con thấy được thế giới
mà mắt phàm không thấy,
thấy được Đấng Vô hình,
nhưng rất gần gũi thân thương,
thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh,
dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân,
dám tiến bước trong bóng đêm
chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa,
dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi,
hạnh phúc vì biết những gì
đang chờ mình ở cuối đường,
sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ xát đau thưong của phận người,
để dù bao thăng trầm dâu bể,
con cũng không để tàn lụi niềm tin
vào Thiên Chúa và vào con người.

 
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Nếu các con có lòng tin, thì chẳng có gì các con không làm được".

Lòng tin thật
Bây giờ các môn đệ đến gần hỏi riêng Đức Giêsu rằng: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Người nói với các ông: “Tại sao anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “Rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được. [Giống qủy này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện].(Mt. 17, 19-21)
Nếu người ta nhìn bề ngoài theo nghĩa đen, thì có lòng tin vào Đức Kitô đã đủ làm những điều phi thường: Chữa khỏi các bệnh tật.
Chớ gì có niềm tin vô điều kiện vào Thiên Chúa và Đức Kitô, tôi hoàn toàn đồng ý! Lời dạy của Đức Kitô được chép lại rõ ràng, cần phải đọc lại các sách Tin Mừng, đặc biệt của thánh Gio-an, để xác tín điều đó. Lòng tin là điều kiện cần cho lời cầu nguyện biết bao, nhất là lời cầu nguyện cầu xin.
Nhưng chưa đủ.
Nhưng cần thiết lời cầu nguyện phải hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, Đức Giêsu, lúc sống ở trần thế, đã không chữa mọi bệnh tật cho dân Ít-ra-en, các tông đồ cũng thế. Vì nếu đánh giá lòng tin bằng được khỏi bệnh thì lòng tin đó chỉ như một thứ tiền trả cho việc chữa bệnh. Lòng tin như thế có đủ không? Đó không phải là thứ lòng tin sống động, không phải là thứ lòng tin của thứ phần tử trong Giáo Hội, của thân thể Đức Kitô. Lòng tin như thế là của những người không tín ngưỡng.
Tôi nghĩ những đoạn Tin Mừng này có thể sẽ bị hiểu lầm và sẽ gây ra những quá đáng đạo đức.
Vâng: Một lòng tin sâu sắc.
Lòng tin trong sáng và nhiệt thành ăn rễ sâu vào tâm hồn siêng năng hơn là hành động nhất thời. Nếu người ta không thường xuyên sống với tâm tình yêu mến và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì làm sao tránh khỏi không nghi ngờ. Chỉ khi nào có một chút niềm tin hoàn hảo mới mong phát sinh ra những công cuộc kỳ diệu hữu hình và vô hình.
Có những Đấng Thánh có lòng tin, một lòng tin sâu xa, sống động! đã xẩy ra và còn xẩy ra nơi các Đấng một đức tin trọn vẹn để thực hiện ơn gọi đặc biệt trong Hội Thánh.
J.M

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
11 THÁNG TÁM
Thiên Chúa Đã Yêu Thế Giới Đến Nỗi …
“Thế giới ở đây là thế giới của con người, thế giới ấy, người Kitôhữu tin là đã được tình yêu của Đấng Tạo Hóa tác thành và bảo trì. Thế giới ấy, đã rơi vào ách nô lệ tội lỗi, nhưng, nhờ Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại mà bẻ gãy uy quyền của Thần Dữ, đã được giải thoát để thay hình đổi dạng theo dự định của Thiên Chúa mà tiến tới sự viên mãn” (MV 2).
Định nghĩa ấy gồm tóm toàn bộ giáo thuyết về sự quan phòng, hiểu như kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, hoặc hiểu như sự hoàn thành chung cục của vũ trụ. Điều này đặc biệt đúng đối với thế giới con người theo như “được tiền định trong Đức Kitô”, Đấng là trung tâm và là nguồn gốc của mọi sự.
Bằng cách này, Vatican II làm cho sắc bén giáo huấn tín lý của Công Đồng Vatican I: “Thiên Chúa gìn giữ và điều khiển mọi loài Ngài đã dựng nên với sự quan phòng của Ngài, từ chân trời này tới chân trời kia (Kn 8,1). ‘Tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Ngài’ (Dt 4,13), ngay cả những gì xảy ra thông qua sáng kiến tự do của tạo vật” (Dei Filius, DS 3003).
Ngay từ đầu, Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng tập chú đến một vấn đề vừa liên quan với chủ đề của chúng ta ở đây vừa bức thiết với con người hiện đại: Bằng cách nào sự phát triển của Nuớc Thiên Chúa và sự phát triển của thế giới có thể hòa điệu với nhau?
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 11-8
THÁNH CLARA,Trinh nữ;
Kb 1, 12-2,4; Mt 17,14-20.
LỜI SUY NIỆM: Thưa Ngài, xin thương xót con trai tôi, vì cháu bị kinh phong và bệnh tình nặng lắm: nhiều lần ngã vào lửa, và đã nhiều lần ngã xuống nước. Tôi đã đem cháu đến cho các môn đệ Ngài chữa, nhưng các ông không chữa được.” (Mt 17,15-16).
          Qua niềm tin của người cha có đứa bé bị kinh phong bước đầu ông ta đặt niềm tin vào những môn đệ của Chúa, nhưng không thành. Nhưng niềm tin của ông không dừng tại đó và đã tìm đến với Chúa Giêsu, và ông đã toại nguyện. Trong đời sống xã hội hôm nay, con người đang đặt bao niềm hy vọng vào Giáo Hội của Chúa, Bởi Giáo Hội đang quan tâm đến Công Lý và Hòa Bình; muốn Nhân phầm, nhân vị, và nhân quyền được tôn trọng trong công bằng và an bình. Mặc dù trong hiện tại Giáo Hội chưa đem lai kết quả như con người mong muốn; nhưng chúng ta còn có Chúa Giêsu; phải đặt tin tưởng vào Chúa Giêsu với quyền năng và yêu thương của Ngài; con người sẽ được hạnh phúc và bình an.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Thánh Phan-xi-cô và Thánh Clara.
Ngày 11-08
Thánh CLARA
Đồng Trinh (1193 - 1253)
Thánh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria. Thuộc dòng họ danh gái Offreducciô. Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng dinh. Nghe biết một thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân. Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ. Sau khi nghe bài giảng của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định.
Khi ấy thánh Clara 18 tuổi. Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ. Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá từ tay Đức giám mục. Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính đức giám mục phải rồi ghế đưa lá đến cho Ngài. Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncola...
Giai thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô. Giữa đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em. Clara buông xõa mái tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ. Hành động hoàn toàn ngoại lệ và không với một chút quyền hạn theo giáo luật. Phanxicô đã lãnh bản ly dị của Clara đối với thế gian, rồi gởi đi vào một nữ tu viện Benedicto gần đó.
Biến cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động. Thế gian kết án Clara. Ong Monaldo, cậu thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn Chúa mà thôi. Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu tu viện Bênêdictô khác, cùng với em của mình là Anê. Sau cùng Phanxicô thiết lập cho Clara và cộng đoàn đã tăng số một tu viện tại San Damianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập dòng. Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và chay tịnh khắc khổ.
Dầu vậy, Clara con người đi xa hơn cả ước muốn của thánh Phanxicô. Năm 1215 Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật dòng thánh Bênêdictô. Nhưng một mục chương nói rằng sự đơn sơ và nhiệt tình của chị em khiến cộng đoàn tăng số rất nhanh.
Vào những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đômianô bị gián đoạn. Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm. Nhưng cơn đau cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng tu viện Damianô, nơi Phaxicô trước tác bài ca mặt trời. Ngài ban phép lành cuối cho Clara rồi về Porziuncola và qua đời tại đó. Ngài cũng xin anh em đưa xác về Assisi qua ngã San Đamianô. Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng các vết thương ở tay và chân Ngài.
Clara thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi. Đức Innôcentê III đã đích thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối. Nhưng Đức Grêgôriô IX nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà cửa. Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện. Ngài đã thưa với Đức Grêgôriô: - Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo lời Chúa.
Năm 1247, một lần nữa đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống đời khó nghèo truyệt đối. Luật này được Đức Innocente chấp thuận vội vã, hai ngày trước khi thánh nữ qua đời. Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy trong mộ thánh nữ.
Cuộc sống còn được ghi nhớ bởi cuộc tàn phá năm 1241 của vua Frêdêrico II, nhờ lời cầu nguyện đắc lực của Ngài. Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là đức giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Chúa và khuyyên nhủ thánh nữ, thánh nữ trả lời: - Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy không còn gì làm con đau đớn nữa.
Sau khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với mình: - Hãy an tâm, ngươi đã theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng Chúa vì đã dựng nên con.
Thánh nữ qua đời ngày 11 tháng năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.
 (daminhvn.net)
++++++++++++++++++
11 Tháng Tám
Cô Bạn Của Thánh Phanxicô Assisi
Một trong những cuốn phim có giá trị diễn tả về cuộc đời của thánh Phanxicô thành Assisi mới được thực hiện cách đây vài năm đa thi vị hóa vai trò của Clara, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay. Ðạo diễn của cuốn phim đã giới thiệu Clara qua hình ảnh một nữ tài tử trẻ đẹp với mái tóc vàng óng ả, thích tung tăng chạy nhảy giữa cánh đồng hoa hướng dương chạy dài mút mắt.
Trong thực tế, quãng đời thanh xuân của Clara đã cống hiến nhiều chi tiết có thể được sử dụng làm chất liệu để quay phim. Vào tuổi trăng tròn 15, Clara đã từ chối kết hôn vì tâm hồn của nàng bị xúc động mãnh liệt qua lời rao giảng có chiều sâu của Phanxicô. Từ đó cho đến lúc Clara trút hơi thở cuối cùng, Phanxicô là một người bạn tinh thần, một cha linh hướng của nàng.
Lúc lên 18 tuổi, Clara thoát ly gia đình và trong một buổi lễ đơn sơ cử hành vào đêm, nàng đã cởi bỏ những xiêm y đắt tiền để mặc lấy một chiếc áo dòng bằng vải thô, đã thay chiếc dây nịt quý giá bằng một sợi dây thắt lưng đơn sơ và đã để cho Phanxicô cắt mái tóc óng ả của mình tượng trưng cho tinh thần từ bỏ.
Khi một số thiếu nữ khác cùng một chí hướng, kể cả Agnes, em gái của Clara, theo chân nàng vào tu viện, họ đã bắt đầu một cuộc sống nghèo nàn, khổ hạnh và ẩn dật, cắt đứt mọi giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ đi chân không, ngủ trên nền nhà, không ăn thịt và giữ thinh lặng hầu như hoàn toàn. Ðó là những dấu hiệu bên ngoài biểu lộ ý hướng bên trong của họ muốn sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm như Ðức Giêsu đã dạy.
Ðế sống cuộc đời từ bỏ, các nữ tu dòng thánh Clara khước từ quyền sở hữu của bất cứ của cải nào, kể cả với tính cách là của chung.
Nhu cầu lương thực hằng ngày được giải quyết bằng của bố thí. Khi Ðức Thánh Cha khuyên họ giảm bớt cách thực hành sống nghèo cách tuyệt đối như vậy, Clara đã khẳng khái trả lời: "Thưa Ðức Thánh Cha, chúng con cần cha tha tội, chứ chúng con không mong ước cha tha chúng con khỏi những bổn phận phải giữ để trung tín dõi theo chân Chúa Giêsu".
Trong bốn bức tường tu viện tại San Ðamianô gần Assisi, Clara ân cần chăm sóc các bệnh nhân, khiêm nhượng hầu bàn và rửa chân cho các nữ tu sau khi họ đi cầu thực trở về và dành nhiều thời giờ để tâm hồn chìm sâu trong kinh nguyện. Các nữ tu đồng thời thuật lại rằng: Khi Clara cầu nguyện xong, mặt chị chiếu sáng làm chói mắt mọi người.
Trong 27 năm cuối đời, Clara bị đau ốm luôn, nhưng chị đã thu hút được nhiều Giám Mục, Hồng Y, kể cả các giáo chủ đến để tham khảo ý kiến của chị.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 11
Thánh Clara, trinh nữ|
Thánh Suzanna, trinh nữ, tử đạo

 

Đối với chúng ta, Mẹ Maria ngày càng trở nên hình ảnh của Giáo Hội một cách rõ ràng hơn. Được hình thành từ những con người, Giáo Hội bắt đầu với con người của Đức Mẹ và qua con người của Đức Giêsu. Nhờ có Đức Mẹ, chúng ta nhìn thấy nơi Giáo Hội không phải là một cơ cấu mà là những con ngưòi, có liên hệ với nhau. Theo Thánh Ambrôxiô "Đức Maria là hiện thân, là nguyên mẫu của Giáo Hội vừa là trinh nữ vừa là mẹ." Yêu mến mầu nhiệm Giáo Hội qua lăng kính của Đức Maria, đó không chì là tự mình tìm hiểu Giáo Hội ấy, nhưng còn là đồng hóa chính mình với Giáo Hội ấỵ nữa. Sư đồng hóa này kèm theo một cảm nghiệm riêng tư đòi hỏi ta phải dâng hiến, phải dấn thân trọn vẹn ..
 
Đặc sủng cộng đoàn thâm nhuần thần khí của Đức Maria ... Mẹ đã chia sẻ mọi sự với Đức Giêsus, Mẹ đã sống những mầu nhiệm của Người; về phần chúng ta, chúng ta chia sẻ những mầu nhiệm ấy cùng với Đức Giêsu và Đức Maria một trật.
 
Đúc Maria luôn là mẹ của chúng ta, chúng ta đón nhận Mẹ như một món quà quý giá giúp chúng ta sống trung tín, ý thức rằng chúng ta thuộc về Mẹ, mang lại hoa trái và thể hiện mình trọn vẹn.
José Maria Arnaiz, s.m.

11-8
Thánh Clara.

Thánh Clara

(1194-1253)
T
hánh Clara là thiếu nữ xinh đẹp của một gia đình giầu có ở Assisi. Khi mười tám tuổi, được khích động bởi một bài giảng của Thánh Phanxicô Assisi, ngài cương quyết noi gương các tu sĩ Phanxicô, thề sống khó nghèo, tận hiến cho Thiên Chúa. Gia đình ngài hoảng sợ, dùng võ lực ép buộc ngài phải trở về nhà; nhưng một đêm kia, trong một hành động vừa có tính cách khôn khéo và vừa có ý nghĩa, ngài lẻn ra khỏi nhà qua "cánh cửa người chết" (cánh cửa nhỏ để khiêng người chết ra ngoài), và đến với các tu sĩ Phanxicô. 
Trong một nhà nguyện nhỏ bé ở ngoại ô, Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của Clara và trao cho thánh nữ chiếc áo nâu thô kệch làm chiếc áo dòng. Sau đó, thánh nữ sống với các nữ tu dòng Bênêđíctô cho đến khi có thêm sự gia nhập của các phụ nữ khác, trong đó có cả người mẹ goá bụa của ngài và các phụ nữ thuộc gia đình quý tộc ở Florence.
Cộng đoàn nhỏ bé ấy dần dà được biết đến dưới tên Các Chị Em Hèn Mọn (các tu sĩ Phanxicô là Anh Em Hèn Mọn). Khi tu hội được thành lập, Thánh Phanxicô đề nghị Clara làm bề trên, nhưng ngài từ chối cho đến khi được hai mươi mốt tuổi. Các nữ tu trong dòng tận tụy trong việc cầu nguyện, chăm sóc bệnh nhân và thi hành việc bác ái cho người nghèo và người bị ruồng bỏ.
Họ sống theo một quy luật khắc khổ hơn bất cứ nữ tu hội nào khác trong thời ấy, và tuyệt đối khó nghèo, cả về phương diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Họ đi chân đất, không có giường, mà nằm trên các khúc gỗ được kết lại và chăn mền là vỏ cây gai dệt thành. Gió mưa tha hồ lọt qua các vết nứt ở mái nhà cũng như vách gỗ. Họ ăn rất ít và không bao giờ ăn thịt. Thực phẩm của họ là tất cả những gì xin được. Bất kể sự khắc khổ của đời sống, những người theo Thánh Clara lại là những thiếu nữ xinh đẹp nhất Assisi và lúc nào họ cũng có niềm vui vì được sống gần Thiên Chúa. 
Thật vậy, Thiên Chúa đã gìn giữ họ khỏi sự nguy hiểm khi bọn lính hung dữ đến tấn công Assisi và dự định bố ráp tu viện này trước hết. Lúc ấy, dù đang đau nặng, Thánh Clara đã gắng gượng quỳ xuống trước cổng, tay nâng Mình Thánh trong mặt nhật và ngài cầu xin, "Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ các nữ tu mà con không thể nào bảo vệ nổi." Sau đó, dường như có tiếng trả lời: "Ta sẽ luôn gìn giữ họ," và đồng thời ngay lúc ấy, quân lính cảm thấy vô cùng sợ hãi và họ chạy tán loạn.
Thánh Clara làm bề trên tu viện trong bốn mươi năm mà hai mươi chín năm ngài luôn đau yếu. Nhưng lúc nào ngài cũng vui vẻ vì cho rằng đó là sự phục vụ Thiên Chúa. Nhiều người cho rằng các nữ tu đau yếu là vì quá khắc khổ. Ngài nói, "Họ nói chúng tôi quá nghèo khổ, nhưng một tâm hồn có được Thiên Chúa vĩnh cửu thì có thực sự nghèo hay không?"
Thánh Clara từ trần ngày 11 tháng Tám 1253. Chỉ hai năm sau, ngài đã được Ðức Giáo Hoàng Alexander IV phong thánh.

Thánh Susanna,trinh nữ,tử đạo.

Thánh Tiburcê và Thánh Susanna tử đạo.
Ông thánh Tiburcê và bà thánh Susanna tử đạo.

Ông thánh Tiburcê nầy là con quan Crômaco trị thành Rôma trong đời hoàng đế Điôclêianô bắt đạo. Ông thánh Sêbastianô làm đặng con quan ấy trở lại chịu phép rửa tội. Bỡi vì khi ấy cơn bắt đạo dữ tợn quá, nên đức thánh Phapha Caiô bảo Tiburcê ra khỏi thành Rôma một ít lâu, song le người ước ao chịu tử vì đạo thì nài xin cùng đức thánh Phapha cho đặng phép ở lại mà xem gương các thánh đã đổ máu mình ra vì ĐCG. Đức thánh Phapha thấy đức tin người mạnh mẽ thì cho phép ở lại.
 Chẳng khỏi bao lâu Tiburcê làm phép lạ làm chứng nhơn đức người. Có một ngày khi người ra khỏi phòng các thánh tử đạo phải cầm, người liền gặp ngoài đàng một nguời ở trên mái nhà ngã xuống gãy xương nhiều nơi, cho nên gần chết sống chẳng đặng. Tiburcê đến gần cầu xin cùng ĐCT và lấy tên ĐCG mà chữa nó. Người ấy liền trở lại theo đạo cùng các người họ hàng nó nữa. Tiburcê đem nó cho đức thánh Phapha rửa tội.
 Ông thánh này sốt sắng chẳng chịu đặng kẻ phạm đến danh rất thánh ĐCG. Vậy người thấy một người kia tên là Torquato đi cùng các anh em, mà ăn ở khác xa, ăn ở những đồ mỉ vị, mặc những áo sang trọng và chẳng giữ nết na, thì Tiburcê quở nó cùng bảo sửa lại tính nết mình. Torquato ghen ghét cùng dốc lòng báo thù, cho nên nó đi bảo quân lính này nào sẽ đi nhà thờ đọc kinh với Tiburcê thi đến mà bắt cả hai và nộp cho quan vì bổn đạo. Mà mọi sự ấy đã hóa nên như vậy. Torquatô đi nhà thờ với Tiburcê, thì quân liền vào mà bắt cả hai đoạn thì đem trứơc tòa quan Fabianô.
 Quan ấy đã biết trước, cho nên nói cùng Torquatô rằng: ớ Torquatô, mầy cũng đở lấy một người đã chịu đóng đinh trên cây thập giá làm chúa mầy sao? Torquatô nghe lời hỏi làm vậy liền cười và chỉ Tiburcê rằng: tôi chẳng biết Chúa nào trừ ra Chúa người này đã giảng cho tôi tức thì. Tiburcê liền biết tỏ lòng xấu Torquatô đã nộp người cho quan, và nhạo báng đạo thánh. Bây giờ người lớn tiếng mà nói cùng nó rằng: ớ Torquatô, ngươi chớ tưởng ta chẳng có biết chước ngươi, chúng ta chẳng hề lấy nguơi làm đầy tớ Chúa Kitô. Vì kẻ thật làm đầy tớ Chúa cao trọng ấy, chẳng đi với đàn bà trắc nết, chẳng có tính nết xấu, cũng chẳng có uống rượu say như ngươi. Những việc ngươi làm đã làm cho hội thánh xấu hổ, đã làm chứng tỏ tường ngươi chẳng tin đạo thật. Ngươi thì ở giữa chúng ta, mà ngươi chẳng là kẻ hiệp làm một cùng chúng ta, ngươi đã nộp chúng ta mà làm chứng sự ấy; nhưng mà người phải biết khi người làm như vậy thì người chẳng có làm hại ta, ngươi đã làm cho ta đặng phứơc cao trọng lắm, vì chưng ta chẳng ước ao sự gì cho bằng đổ hết máu ta ra vì Chúa là đứng đã liều mình chết trên cây thánh giá vì chúng ta.
Quan Fabianô nghe làm vậy thì giận mà nói cùng Tiburcê rằng: bây giờ chẳng phải giờ nói, song le giờ tế lễ các bụt nhà nước mà thôi.
 Tiburcê thưa rằng: tôi tế lễ một ĐCT đã dựng nên cùng cai trị trời đất, và tôi chẳng ước ao sự gì hơn là chịu tế lễ mình tôi mà làm chứng người. Fabianô rằng : Ngươi phải vưng lời ta cho chóng, hay là ngươi phải đi chơn không trên đống lửa. Tiburcê rằng: tôi sẽ bằng lòng mà đi đống lửa ấy sẽ ra đẹp đẽ cho tôi hơn đi trên hoa hồng.
Bây giờ quân đốt đống lửa lên, Tiburcê liền cởi giày, đọan lấy dấu thánh giá trên mình mà đi trên đống lửa, song chẳng phải nao, chẳng khác gì người đạp hoa, đạp cỏ vậy. Bây giờ trở mặt lại cùng quan mà nói cùng người rằng: Ớ Fabianô ông phải biết sức cùng phép tắc đức tin, và chớ chi phép lạ nầy làm cho quan đặng tỏ chẳng có chúa nào thật trừ ra Chúa tôi thờ, lại ví bằng ông chẳng vào đạo ĐCG thì ông chẳng có lẽ mà trông sẽ đặng rỗi bao giờ.
Fabiaô là người cứng lòng dẫu thấy phép lạ làm vậy thì cũng chẳng tin, lại sợ hoặc là kẻ ngọai thấy thì động lòng trở lại, cho nên người liền ra lịnh giết Tiburcê, và sai kẻ đem người ra khỏi thành ba dặm mà chém, là năm Chúa giáng sinh 286.

Bà thánh Susanna là con ông thánh Gabiniô cũng là cháu ông thánh Caiô Phapha là anh ông thánh Gabiniô, cả hai là họ hàng cùng hoàng đế Đioclêtianô. Cha bà thánh nầy ngày sau làm thầy cả còn con thì người đã nuôi dưỡng dạy dỗ theo phép đạo thánh, khi nên lớn tuổi vừa đủ thì đã hứa mình giữ lòng đồng trinh sạch sẽ.
 Nhưng mà Valêria là con hòang đế Điôclêtianô khi đã làm bạn cùng Maximianô sinh thì đoạn, thì Điôclêtiano lo xin bà Susanna làm vợ ông ấy. Khi ấy Điôclêtianô chưa ra lòng dữ ghét bổn đạo cho bằng sau này. Vậy hoàng đế ấy đòi một người bà con, tên là Claudiô sai người đi cùng cha và cô bà thánh Susanna xin bà ấy làm vợ Maximianô.
Ông thánh Gabianiô và ông thánh Caiô nghe sự ấy, thì ngờ hoặc là sự ấy sẽ làm cho hoàng đế trở ra lòng binh vực đạo thánh, cho nên cả hai chẳng có ngăn trở mà rằng; phải đi hỏi Susanna cho biết ý người. Song le ĐCT chẳng muốn dùng phép vua thế gian mà lập đạo người, nên đã in lòng ý khác trong lòng bà ấy, vậy người chối chẳng chịu. Cha và cô người chẳng ép người lại khuyên ở vững bền giữ lòng trung tín cùng Chúa.
Khỏi ba ngày Claudiô đến cùng ông thánh Gabiniô và ông thánh Caiô mà hỏi cho biết ý bà Susanna. Hai ông thành nầy liền đòi người đến. Khi bà ấy vào trong phòng Clauđiô có ý kính người thì bước tới mà rước người, và muốn hôn mặt người. Bà Susanna giơ tay ép người ra mà rằng: xưa nay tôi chẳng hề chịu người nam hôn mặt tôi huống lựa là tôi chẳng hề chịu người thờ phượng Điôclêtianô và hằm hằm ghét bổn đạo hôn mặt tôi, vì miệng nó ra dơ dáy và gớm ghiếc trước mặt ĐCT.
Claudio chữa mình bỡi chẳng có ý xấu một có ý kính người là bà con gần mà thôi, còn về sự làm người ra dơ dáy gớm ghiếc thì người hỏi cho biết phải làm thế nào cho khỏi. Bà thánh Susanna thưa rằng: phải lấy lòng ăn năn cùng chịu phép rửa tội.
 Bây giờ Caio và Gabianô cắt nghĩa mọi sự trong đạo cho người hay, thì Claudio trở lại tin chịu phép rửa tội cùng vợ con.
 Điôclêtianô chẳng thấy Claudiô trở về đem tin, thì sai kẻ đi hỏi thăm làm sao. Người ta trả lời rằng: Claudiô đau. Hoàng đế thương người lắm thì liền sai em Maximô đi viếng anh và hỏi cho biết việc bà Susanna ra làm sao.
 Maximô vào nhà anh, thấy người mặc áo nhặm thì sấp mình xuống đất than thở, đọc kinh, liền hỏi người bỡi đâu mà trở lại làm vậy. Claudiô xưng ra tỏ tường cho em hay, ĐCT đã mở lòng cho người đặng tỏ sự trong đạo, và biết tội đã phạm xưa nay khi tế lễ cho các bụt, và đổ máu kẻ có đạo; cho nên bây giờ người làm việc đền vì các tội ấy. Maximô động lòng ước cho biết sự trong đạo, thì anh đem đến ông thánh Caiô. Người nghe ông thánh ấy giảng thì đã trở lại chịu phép rửa tội cùng phép xức trán và phép thánh thể nữa. Bây giờ Clauđiô cùng Maximô sốt sắng lắm nên cả hai bán hết của mình để thí cho kẻ khó khăn và giúp bổn đạo chịu bắt bớ.
 Điôclêtianô mắng tiếng Clauđiô và Maximô không  lo việc đã phú cho, lại trở lại vào đạo cả hai, thì giận chẳng còn nhớ những kẻ ấy là bà con, mà sai kẻ đi bắt cả hai cùng vợ con đem đi thành Ostima mà giết ở dó. Gabiniô cùng con Susanna cũng phải bỏ vào tù. Khỏi 55 ngày Điôclêtianô bảo vợ là bà Sêrêna, là người có đạo hỏi Susanna có chịu vưng lời hoàng đế chăng. Bà ấy đòi Susanna đến trong phòng, song le chẳng bảo sự gì nghịch cùng lời đã khấn hứa cùng Chúa, lại khuyên ở vững bền.
Điôclêtianô nghe bà ấy bền đỗ chẳng chịu, thì dạy đem về nhà viếng mình đoạn cho phép Maimianô vào nhà ấy mà ép người, maximianô đi, song le người thấy trong phòng bà Susanna một thánh thiên thần đứng gần mà giữ gìn người, thì sợ hãi mà về chẳng làm đi gì. Điôclêtianô ngờ là sự bỡi phép phù thủy mà ra thì dạy quan Macêđôniô đi ép bà ấy tế lễ các bụt.
Quan ấy đem cho bà thánh Susanna một tượng bụt Jupiter mà rằng: hoàng đế dạy bà tế lễ bụt này. Susanna liền ngửa mặt lên trời cầu xin cùng Chúa, thì hình bụt liền biến đi và sau người ta tìm đặng trong bụi ngòai đồng. Macêđôniô thấy lời lành ra vô ích thì ngăm làm hình khổ lại lấy dây đánh người cho đến xé thịt ra hết. Sau hết hoàng đế nghe người chẳng chịu vưng theo lịnh thì dạy chém đi.
Bà hoàng hậu Serêna mắng tiếng sự ấy thì vui mừng lắm, bỡi vì bà Susanna đã giữ lòng mình sạch sẽ chẳng có sợ quan quyền dưới thế nầy. Thì ban đêm bà đi dến nơi bà thánh nầy đã chịu chém và lấy khăn che mặt mà nhúng vào trong máu người, ngày sau bà ấy đặt khăn quí báu ấy trong hộp bạc mà để trong phòng kín quen đọc kinh cầu nguyện; còn về xác bà thánh nầy thì bà hoàng hậu lấy thuốc thơm xức và chôn trong mồ ông thánh Alexandrô gần các thánh tử đạo khác. Nhà bà thánh Susanna thì đức thánh Phapha lấy làm nhà thờ để làm lễ kính bà thánh nầy. Nhà thờ này hãy còn và có một dòng nữ tu ông thánh Bernardinô ở đó.

Nhà Thờ Thánh Susanna ở Rô-ma.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét