Trang

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012

04-08-2012 : THỨ BẢY TUẦN XVII MÙA THƯỜNG NIÊN


THỨ BẢY TUẦN XVII THƯỜNG NIÊN năm II
Thánh Gioan Vianney, linh mục-(lễ nhớ).
Thánh Gioan Maria Vianney.

BÀI ĐỌC I: Gr 26, 11-16. 24

"Thật Chúa đã sai tôi đến nói với các ngươi những lời đó".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong những ngày ấy, các tư tế và các tiên tri nói cùng các đầu mục và toàn dân rằng: "Người này đáng xử tử, vì nó đã nói tiên tri chống lại thành này, như tai các ngươi đã nghe". Giêrêmia nói cùng tất cả các đầu mục và toàn dân rằng: "Chúa đã sai tôi đến nói tiên tri về đền thờ này và về thành này tất cả những lời các ngươi đã nghe. Vậy giờ đây, các ngươi hãy cải thiện đời sống và những điều các ngươi ưa thích, hãy nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa các ngươi, thì Chúa sẽ hối tiếc tai hoạ Người đã phán chống lại các ngươi. Phần tôi đây, tôi ở trong tay các ngươi, các ngươi cứ đối xử với tôi điều mà các ngươi cho là tốt là phải. Nhưng các ngươi hãy hiểu biết rằng: nếu các ngươi giết tôi, thì các ngươi sẽ đổ máu vô tội lên chính các ngươi, lên thành này và dân cư của nó. Vì thật Chúa đã sai tôi đến với các ngươi để nói vào tai các ngươi tất cả những lời đó".
Những đầu mục và toàn dân nói cùng các tư tế và các tiên tri rằng: "Không được xử tử người này, vì ông đã nhân danh Chúa là Thiên Chúa chúng ta mà nói với chúng ta". Vậy Ahica con của Sapha ra tay bảo vệ Giêrêmia, để ông khỏi bị nộp vào tay dân chúng định giết ông. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 68, 15-16. 30-31. 33-34

Đáp: Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương, xin nhậm lời con (c. 14).
Xướng: 1) Nguyện cứu con thoát nơi bùn nhơ kẻo bị chìm; xin giải thoát con khỏi tay những người ghen ghét, và thoát khỏi những đầm nước thẳm sâu. Xin đừng để cho ba đào lôi cuốn; xin đừng để cho vực thẳm nuốt trửng, cũng đừng để cho giếng ngậm miệng nhốt con. - Đáp.
2) Phần con, con đau khổ cơ hàn, lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân. - Đáp.
3) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ; các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù. - Đáp.

ALLELUIA: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 14, 1-12

"Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy quận vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: "Người này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được các phép lạ như vậy". Tại vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan tống ngục, bởi Gioan đã nói với vua rằng: "Nhà vua không được lấy bà ấy làm vợ". Vua muốn giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri. Nhân ngày sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước mặt mọi người, và đã làm cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó xin. Được mẹ nó dặn trước, nên nó nói: "Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa này cho con". Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người đang dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy. Ông sai người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy và chôn cất, rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu.
Đó là lời Chúa.


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ BẢY TUẦN XVII THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: Jer 26:11-16, 24; Mt 14:1-12
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Những thái độ của con người khi đương đầu với sự thật.
Đứng trước sự thật, con người có thể có hai thái độ chính: (1) Họ chấp nhận sự thật và tìm cách sửa đổi sai lầm họ gây ra để cuộc đời của họ sẽ tốt đẹp hơn. (2) Họ từ chối sự thật vì nhiều lý do: tự ái, kiêu ngạo, sợ mất lợi nhuận... Vì thế, họ sẽ phớt lờ, bóp méo, và tìm cách tiêu diệt sự thật.
Hai bài đọc hôm nay thuật lại hai thái độ chính khi con người phải đương đầu với sự thật.
Bài đọc I thuật lại phiên xử của Jeremiah và kết quả là ông đã trắng án. Các nhà lãnh đạo và dân chúng nhận ra ngôn sứ Jeremiah chỉ lặp lại những gì Thiên Chúa tuyên sấm. Vì thế, truy tố Jeremiah không làm cho những lời tuyên sấm của Thiên Chúa ra vô hiệu, mà còn làm cơn giận của Thiên Chúa mau đến, vì họ dám làm đổ máu người vô tội. Trong Phúc Âm, thánh Matthew thuật lại việc tiểu vương Herode đã bắt bỏ tù và chém đầu ông Gioan Tẩy Giả, vì ông đã ngăn cản việc tiểu vương muốn lấy bà Herodia, vợ của Philip, anh của tiểu vương, làm vợ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Sự Thật giải thoát

Có ba thành phần chính trong phiên xử của Jeremiah:
1.1/ Tuyên cáo là các tư tế và các tiên tri giả.
Họ cáo buộc Jeremiah: "Con người này đáng lãnh án tử, vì ông ta đã tuyên sấm chống lại thành này, như chính tai các ông đã nghe!" Hôm qua chúng ta đã nói, họ không đá động gì đến vế trước của lời tuyên sấm, mà chỉ chú trọng đến vế sau tức là hậu quả sẽ xảy ra nếu không chịu thi hành những đòi hỏi của vế đầu. Ngay cả khi chưng dẫn vế sau, họ cũng không chưng dẫn đúng; nhưng chỉ giữ lại những gì có lợi cho việc họ buộc tội Jeremiah. Họ cũng không thèm chú ý đến ai là tác giả của lời tuyên sấm, nhưng đã gán những lời này cho Jeremiah.
Các tư tế buộc tội Jeremiah vì ông nói đến sự sụp đổ của Đền Thờ; nếu Đền Thờ bị sụp đổ, họ sẽ thất nghiệp, vì đâu còn Đền Thờ nữa để họ phục vụ. Các tiên tri giả buộc tội Jeremiah vì ông nói ngược lại những gì họ nói. Họ không nói những lời Thiên Chúa truyền, mà chỉ nói những gì vua chúa và toàn dân thích nghe.

1.2/ Bị cáo là tiên tri Jeremiah. Ông kháng cáo hai điểm:
(1) Ông nhắc lại toàn bộ lời tuyên sấm và tác giả của nó. Ông nói với tất cả các thủ lãnh và toàn dân như sau: "Chính Đức Chúa đã sai tôi tuyên sấm mọi lời liên quan đến Nhà này cũng như thành này mà các ngươi đã nghe. Vậy giờ đây, các ngươi hãy cải thiện đường lối và hành vi của các ngươi và hãy nghe tiếng Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi; bấy giờ Đức Chúa sẽ đình chỉ những tai hoạ Người đã quyết định để lên án các ngươi.” Ông muốn nói: Đức Chúa là Người tuyên sấm, ông chỉ là người lặp lại lời tuyên sấm. Khi Đức Chúa tuyên sấm, Người chắc chắn sẽ giữ lời.
(2) Họ phải chịu trách nhiệm về việc đổ máu người vô tội. Ông nói: “Còn tôi, tôi ở trong tay các ngươi, các ngươi cứ xử với tôi thế nào như các ngươi coi là tốt đẹp và chính đáng. Có điều xin các ngươi biết rõ cho rằng: Nếu các người giết tôi, thì chính các ngươi sẽ phải chuốc lấy máu vô tội cho mình, cho thành này và dân cư trong thành. Vì quả thật là Đức Chúa đã sai tôi đến với các ngươi để công bố cho các ngươi nghe tất cả những điều trên đây.” Truy tố Jeremiah chẳng những không làm cho lời tuyên sấm ra vô hiệu, mà còn đổ thêm dầu vào cơn thịnh nộ của Thiên Chúa; vì họ đã làm đổ máu người vô tội; và nhất là người đó lại là ngôn sứ của Thiên Chúa.

1.3/ Quan tòa là các thủ lãnh và toàn dân.
Sau khi đã nghe những lời tuyên cáo của các tư tế và các ngôn sứ giả, đồng thời cũng được nghe những lời kháng cáo của Jeremiah, các thủ lãnh và toàn dân phải dùng trí khôn ngoan suy xét để nhận ra đâu là sự thật. Sau cùng, họ nói với các tư tế và các ngôn sứ giả: "Con người này không đáng lãnh án tử, vì ông ta đã nói với chúng ta nhân danh Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta." Kết quả là Jeremiah được trắng án, tiên tri được ông Akhicam, con ông Saphan ra tay che chở cho khỏi rơi vào tay dân mà bị giết.

2/ Phúc Âm: Vua Herode dùng uy quyền giết chết Gioan Tẩy Giả mà không thèm xử án.
Khi tiểu vương Herode nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: "Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ." Tiểu vương biết rành rẽ về Gioan Tẩy Giả vì chính ngài đã giết chết ông.

2.1/ Lý do tại sao Gioan Tẩy Giả bị tù: Khi vua Herode Cả băng hà, ông phân chia lãnh thổ cho ba con trai: Herode Antipas cai trị vùng tả ngạn của Galilee, Philip cai trị vùng bên kia sông Jordan, và Herode thứ cai trị vùng JerusalemJudah. Tiểu vương Herode Antipas muốn lấy bà Herodia, vợ ông Philíp, anh của nhà vua. Ông Gioan Tẩy Giả đã phản đối tiểu vương: "Ngài không được phép lấy bà ấy!" Luật pháp quốc gia ngăn cản không cho một người lấy vợ của anh em mình khi người anh em ấy còn sống. Luật Do-thái chỉ cho phép lấy vợ của anh em khi anh em mình đã chết mà không có con nối dòng. Herode Antipas đã phạm hai tội: (1) tội rẫy người vợ trước của mình là con vua Nabatean Arabs; và (2), tội loạn luân, lấy chị dâu của anh mình là Philip.

2.2/ Lý do tại sao ông không dám giết Gioan Tẩy Giả
Trình thuật Matthew nêu lý do “vì ông sợ người Do-thái.” Họ coi Gioan như tiên tri của Chúa và tiểu vương sợ dân chúng sẽ nổi loạn nếu ông bị giết. Tiểu vương Herode cho giam Gioan Tẩy Giả trong ngục để chờ thời cơ.
Sử gia Josephus cho lý do chính để Herode giết Gioan Tẩy Giả, vì ông sợ ảnh hưởng của Gioan Tẩy Giả trên dân chúng (Ant 18, 5, 2). Là tiểu vương của Galilee, ông không muốn có bất kỳ sự đối nghịch nào.

2.3/ Lý do tại sao sau cùng Gioan Tẩy Giả bị chém đầu: Nhân ngày sinh nhật của vua Herode, con gái bà Herodia đã biểu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. Nghe lời mẹ xui bảo, cô thưa rằng: "Xin ngài ban cho con, ngay tại chỗ, cái đầu ông Gioan Tẩy Giả đặt trên mâm." Nhà vua lấy làm buồn, nhưng vì đã trót thề, lại thề trước khách dự tiệc, nên truyền lệnh ban cho cô. Vua sai người vào ngục chặt đầu ông Gioan. Người ta đặt đầu ông trên mâm, mang về trao cho cô, và cô ta đem đến cho mẹ.
Tất cả những sự kiện này chứng minh Herode không phải là một vua công chính: Ông ly dị vợ, lấy vợ của anh, thề hứa vô lối, giữ lời thề cách không công bằng, và vi phạm đến sự sống của người công chính.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải tôn trọng sự thật bằng cách lắng nghe cẩn thận khi người khác trình bày ý kiến của họ, và hãy biết xét xem điều đó có đúng hay không; chứ đừng bao giờ dùng uy quyền để bóp chết sự thật.
- Nếu xét thấy điều đó là đúng, chúng ta hãy có can đảm để sửa sai để cuộc đời chúng ta mỗi ngày mỗi tốt đẹp hơn. Chúng ta cũng phải sẵn sàng nói và làm chứng cho sự thật.
Lm.Đinh Minh Tiên, OP.


Thứ Bảy tuần 17 thường niên

 Sứ điệp: Hoa trái của Xa-tan là tội lỗi. Hoa trái của Thánh Thần là công chính và tình yêu mến. Tư tưởng, lời nói, việc làm của ta phải do Chúa Thánh Thần thúc đẩy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Tin Mừng hôm nay cho con thấy hai hạng người. Hạng người thứ nhất suy nghĩ và hành động theo tinh thần xác thịt. Bà Hê-rô-đi-a vì ham danh, ham quyền, ham lợi lộc, đã bỏ chồng đuổi theo vua Hê-rô-đê. Hơn nữa, vì nuôi lòng hận thù, bà đã dạy con gái mình phạm tội ác là xin được đầu thánh Gio-an đặt trên đĩa. Còn vua Hê-rô-đê vì ham sắc dục đã cướp vợ của anh mình. Hơn nữa, vì sợ mất mặt, vua Hê-rô-đê đã liều giết thánh Gio-an Tẩy Giả cách bất công. Tội ác kéo theo tội ác.
Ngược lại thánh Gio-an Tẩy Giả đã để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Ngài đã can đảm nói lên sự thật, đã chấp nhận chết cho sự thật, chết cho công lý.
Lạy Chúa, con hiểu rằng cuộc đời là một cuộc chiến. Sự thiện và sự ác đấu tranh nơi con, giành giật từng tư tưởng, từng lời nói và từng việc làm của con. Chúa dạy con nghĩ điều thiện, nói những lời tốt đẹp và làm việc lành. Chúa ban ơn để đời con sinh ra hoa trái thánh thiện. Chúa động viên con và hé mở cho con thấy phần thưởng thiêng liêng nếu con biết sống theo Thánh Ý Chúa.
Xin Chúa đừng để con chạy theo lợi lộc, danh vọng, sắc dục, hận thù, để rồi gây ra tội ác. Xin Chúa chớ để con sa chước cám dỗ. Amen.
Ghi nhớ : "Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu".

04/08/12 THỨ BẢY ĐẦU THÁNG TUẦN 17 TN
Th. Gioan Maria Vianê, linh mục
Mt 14,1-12

VŨ ĐIỆU GIẾT NGƯỜI

Nhân ngày sinh nhật của vua Hêrôđê, con gái bà Hêrôđia đã biễu diễn một điệu vũ trước mặt quan khách, làm cho nhà vua vui thích. Bởi đó, vua thề là hễ cô xin gì, vua cũng ban cho. (Mt 14,6-7)

Suy niệm: Vũ điệu kết thúc trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt của nhà vua và quần thần. Tiếp theo là phần khen thưởng cho vũ công; thù lao của cô được hứa trước thật hậu hĩ: “Hễ cô xin gì, vua cũng ban cho.” Nhưng người “nghệ sĩ” này - cứ cho là như thế đi, biết múa may nhưng không định được cái giá cho bài vũ của mình. Suy cho cùng, cô không biết mình cần gì và mình vũ để làm gì. Cô nhờ đến người mẹ của mình, khốn thay đó lại là một người đàn bà độc ác, bất trung vì bỏ chồng đi lấy em chồng. Và bà này được cơ hội để báo thù cho người ngôn sứ đã can đảm tố giác tội ác tày trời của hai người. Bà bảo con tới xin làm phần thưởng (!) cái đầu của vị ngôn sứ Gio-an. Ở đây nghệ thuật đã bị lạm dụng vào mục tiêu báo thù thấp hèn và người nghệ sĩ bị thoái hóa đến độ “không còn gì để mất”!

Mời Bạn: Nghệ thuật có giá trị cho cuộc sống khi nó phụng sự cho chân thiện mỹ, cho thấy đời đáng sống, đáng yêu. Nhưng phải cảnh tỉnh với thứ nghệ thuật rẻ tiền, thương mại hóa, làm băng hoại tâm trí, bôi bác cuộc sống, sản sinh tội phạm.

Chia sẻ cho nhau phương thế phản ứng lại những thứ phim ảnh, quảng cáo khiêu dâm, bạo lực trên các phương tiện truyền thông (báo chí, TV, internet…).

Sống Lời Chúa: Tham dự tích cực trong các ca đoàn, phổ biến phim ảnh sách báo đạo đức, bổ ích.

Cầu nguyện: Xin Chúa cho các nghệ sĩ có tâm hồn yêu chuộng chân thiện mỹ, biết dùng khả năng Chúa ban để dẫn dắt người ta đến với Chúa. Amen.




Vì đã trót thề 
Suy nim:
Theo các sách Tin Mừng, Gioan bị giết trong khung cảnh một bữa tiệc.
Đó là tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê Antipas là tiểu vương vùng Galilê và Pêrê.
Nếu thế, bữa tiệc này hầu chắc diễn ra ở Tiberias,
một thành gần hồ Galilê, nơi Hêrôđê đặt trung tâm quyền lực của mình.
Gioan bị giết vì dám phản đối cuộc hôn nhân bất hợp pháp
giữa Hêrôđê với bà Hêrôđia là vợ của Philíp,
người anh cùng cha khác mẹ với mình.
Chuyện ngoại tình của Hêrôđê bị Gioan Tẩy giả kết án là có thể hiểu được.
“Ngài không được phép lấy bà ấy” (c. 4).
Lấy vợ của người anh em là phạm đến Luật Chúa (Lv 18, 16; 20, 21).
Gioan là một ngôn sứ không lùi bước trước sự bất công.
Ông đã sẵn sàng bênh vực sự thật, dù ông biết cái giá phải trả.
Hêrôđê đã dùng quyền lực để ép Gioan phải im miệng.
Ông bắt Gioan, xiềng lại và tống vào ngục.
Chỉ vì sợ phản ứng của dân chúng mà Hêrôđê chưa muốn giết Gioan.
Bữa tiệc sinh nhật của Hêrôđê hẳn có nhiều quan khách tham dự.
Chuyện cô công chúa như Salômê, con bà Hêrôđia, múa cho quan khách xem,
là một chuyện lạ, nhưng vẫn có thể đã xảy ra.
Không rõ vì cô xinh đẹp hay vì múa giỏi mà Hêrôđê ngây ngất (c. 6).
Từ đó Hêrôđê không còn đủ sáng suốt, tỉnh táo,
khi vội vã đưa ra một lời hứa kèm theo lời thề với cô.
Cô muốn xin gì, nhà vua cũng thề hứa ban cho (c. 7).
Chúng ta thấy Hêrôđê đã tự đưa mình vào thế kẹt dại dột và nguy hiểm.
Ông đã không lường được hậu quả của chuyện đó.
Hêrôđia chỉ chờ cơ hội này để thanh toán kẻ dám phá hạnh phúc của bà.
Bà đã xúi con gái xin ngay thủ cấp của Gioan, đặt trên mâm.
Hêrôđê hẳn đã lặng người khi nghe cô bé xin điều ấy.
Ông lấy làm đau buồn vì đây thật là chuyện không ngờ (c. 9).
Ông bị đặt trước một chọn lựa: giết hay không giết Gioan.
Đám đông quan khách tạo một áp lực vô hình trên ông.
Vì đã lỡ thề hứa trước mặt họ, nên ông không dám rút lại.
Ông sợ rút lại sẽ bị mang tiếng là nuốt lời, và sẽ bị mất uy tín.
Hêrôđê đã chọn mình, chọn danh dự và cái ghế của mình hơn.
Ông hy sinh Gioan để giữ được tiếng tăm và tình yêu với bà Hêrôđia.
Làm sao chúng ta có can đảm nhận ra mình sai lầm và dừng lại?
Làm sao chúng ta không bị cuốn từ tội này sang tội khác?
Rút lại một lời hứa có khi còn khó hơn giữ lời hứa ấy.
Hêrôđê là người bị nô lệ bởi nỗi sợ, sợ Gioan, sợ dân, sợ quan khách…
Đúng hơn là ông sợ mất chính mình, sợ người ta nghĩ xấu về mình.
Có những lúc chợt tỉnh ngộ, tôi vẫn ngần ngại không muốn nhận mình sai.
Tôi không dám nhận lỗi, vì tôi muốn mình vẫn đúng.
Xin Chúa đưa tôi ra khỏi cơn mê muội của tôi. 
Cầu nguyn:
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát,
xin cho con trở nên mù lòa
vì ánh sáng chói chang của Chúa,
để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa,
ánh sáng phá tan bóng tối trong con
và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối
chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn
để đón nhận những tia sáng nhỏ
mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý
để Chân lý cho con được tự do.

 
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Hêrôđê sai người đi chặt đầu Gioan, và các môn đệ của Gioan đi báo tin cho Chúa Giêsu".
Sức mạnh của Thiên Chúa
Ðược biết đến và được yêu mến như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị thánh được giáo hội mừng kính hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để làm rối loạn những người mạnh mẽ".
Năm 1815, thầy Gioan được truyền chức linh mục.
Sau ba năm tập sự dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến xứ Ars. Trên đường đi nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp đầu người, giữa lúc không còn biết hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười tuổi tên Anton đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.
Ngày nay tại nơi đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, gồm có tượng đồng diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu Anton, một tay ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng, người ta ghi câu cám ơn của thánh nhân: "Cám ơn con đã chỉ cho cha đường đi tới Ars. Rồi đây, cha sẽ chỉ cho con đường về Thiên Ðàng".
Thực ra, cha Gioan đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em Anton về quê Trời mà thôi, nhưng cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ khắp nơi kéo đến hành hương, để được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường ngay nẻo chính.
Ý thức bổn phận của linh mục là dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã hoạch định cho mình một chương trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém vào ba hoạt động chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép Thánh Thể và thi hành việc mục vụ qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.
Ðể thi hành việc mục vụ, cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ để nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện và giải tội.
Quỳ lâu trong nhà thờ vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể hoàn cảnh của tất cả 230 tín hữu trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của mỗi người.
Ngoài ra, mỗi ngày vào mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng 11 hay 12 tiếng đồng hồ. Vào mùa hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối nhân lại với Thiên Chúa.
Cha Gioan thường gọi những giờ giải tội lâu dài này là "Giờ của Thiên Chúa". Trong suốt 41 năm mục vụ, cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của con người, những vấn đề, những khó khăn của trần gian. Ðể xoa dịu, mỗi sáng bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện, cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.

Tương quan giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu
Trong Tin Mừng hôm nay, tác giả hai lần nhắc đến Gioan Tẩy giả trong tương quan với Chúa Giêsu.
Ở khởi đầu trình thuật, vua Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì ông cho đó chính là Gioan Tẩy giả, người mà ông đã cho chém đầu nay sống lại. Ơn gọi của Gioan Tẩy giả như chính miệng ông Zacaria loan báo trong ngày lễ đặt tên cho con mình: "Con là tiên tri của Ðấng tối cao, con sẽ đi trước dọn đường cho Ngài". Ơn gọi đó Gioan đã chu toàn một cách tốt đẹp. Gioan chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến, không những bằng việc rao giảng thống hối, mà còn bằng chính cái chết vì trung thành với sự thật. Dung mạo của Gioan Tẩy giả loan báo dung mạo của Chúa Giêsu một cách tốt đẹp, đến nỗi khi Chúa Giêsu xuất hiện, vua Hêrôđê tưởng Ngài là hiện thân của Gioan Tẩy giả sống lại.
"Các con sẽ làm chứng về Thầy", đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu cho các Tông đồ, cho mỗi môn đệ của Chúa. Chúng ta cần trở nên một Chúa Kitô cho anh em mình, vận mệnh của Chúa sẽ là vận mệnh của chúng ta.
Một chi tiết nữa, đó là các môn đệ Gioan Tẩy giả, sau khi chôn cất ông xong, thì đến báo tin cho Chúa Giêsu. Chi tiết này nói lên mối liên hệ thân tình giữa Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Gioan Tẩy giả là hướng về Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả không phải là Chúa Giêsu, nhưng là người giúp anh em mình đến với Chúa. Chính Gioan Tẩy giả đã tuyên bố: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng".
Người Kitô hữu được mời gọi sống hướng về Chúa, kết hợp với Chúa, trở thành một Chúa Kitô thứ hai cho anh em. Nhưng đó là để giúp anh em đến với Chúa, chứ không dừng lại nơi mình. Người Kitô hữu không được chiếm chỗ của Chúa trong tâm hồn anh em: Chúa Kitô phải lớn lên trong tâm hồn anh em, còn tôi chỉ là phương thế, tôi không được cản trở anh em đến với Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng ta lòng can đảm và trung thành với sự thật, dù phải hy sinh chính mạng sống mình, để giúp người khác đến với Chúa và tin nhận Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Chết cho Sự Thật
Lịch sử nhân loại lúc nào cũng có chiến tranh, lúc nào cũng có hận thù. Khi thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu cách đây hai ngàn năm, người ta cũng xôn xao bàn tán về cái chết của ngài. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mátthêu đã ghi lại hoàn cảnh cái chết của vị tiền hô. Ngài chết vì đã nói lên sự thật. Ngài chết cho sự thật. Tín hữu Kitô là những người đã đi theo Ðấng đã từng tuyên bố: "Ta là sự thật". Họ phải là những người sẵn sàng chết cho sự thật ấy.
Trong một cuộc thăm dò do viện Galup thực hiện, sáu mươi chín phần trăm người dân Mỹ cho biết họ tin là không có những chuẩn mực luân lý tuyệt đối. Trong một cuộc thăm dò khác, bảy mươi mốt phần trăm nói rằng không hề có một chân lý tuyệt đối. Không có chân lý tuyệt đối, cho nên theo họ chỉ có chân lý của số đông. Tiêu chuẩn của chân lý là số đông. Ðiều gì đám đông nghĩ, đám đông tin, đám đông bỏ phiếu, đám đông tán thành, là đúng. Chính vì tiêu chuẩn của chân lý là đám đông, nên có biết bao nhiêu hành động tội ác được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã tán thành. Còn gì độc ác dã man cho bằng hành động phá thai, nhưng nó đã được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã đồng tình.
Ðấng là sự thật đã chết trơ trụi một mình trên thập giá. Tuyên xưng mình là sự thật, sống cho sự thật, thường cũng đòi hỏi người tín hữu Kitô phải lội ngược dòng. Sự thật không có tính vụ lợi. Sự thật không được đánh giá bằng những lợi lộc hay đổi chác. Sự thật đòi hỏi con người phải hy sinh tất cả để nói lên sự thật và trung thành với sự thật. Sống chết cho sự thật, không có phần thưởng nào khác hơn là chính sự thật, bởi lẽ vì sống cho sự thật có thể mất hết mọi sự nhưng không đánh mất chính mình.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)


Chân Lý
Thời ấy tiểu vương Hê-rô-đê nghe danh tiếng Đức Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: “Đó chính là ông Gio-an Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết chỗi dậy, nên quyền làm phép lạ mới tác động nơi ông.” (Mt. 14, 1-2)
Đoạn này kề về cuối đời của thánh Gio-an Tiền Hô, một con người bảo vệ chân lý. Ngài đã trung thành sống với Lời Ngài giảng. Đó chính là đức tính của vị ngôn sứ.
Ngôn sứ là ai?
Ngày nay quá nhiều kẻ tuyên bố sự thật. Họ rêu rao sự thật đến rát cổ mỏi miệng.
Có kẻ tách khỏi Giáo Hội và xỉ nhục điều này điều kia của Giáo Hội, phỉ nhổ vị này vị kia. Kẻ đó không phải là kẻ chân chính.
Gio-an Tiền Hô thành chướng ngại vật, là lời khiển trách sống động đới với Hê-rô-đê và với chúng ta nữa. Ngài không nói: “Hãy làm như tôi!” nhưng Ngài nói: “Đó là huấn lệnh của Chúa!” Thính giả nghe Ngài, nhưng còn phải nhìn kỹ Ngài sống thế nào! cần phải chiêm ngắm chân lý của sứ ngôn và đời sống của Ngài, thì họ sẽ không còn dám sống ích kỷ nữa.
Ngày nay thì sao?
Ngày nay có nhiều ngôn sứ không?
Ngôn sứ là người loan báo Đức Giêsu Kitô. Ông phải làm chứng về Đức Kitô.
Đức Giêsu là ai? Ngôn sứ phải nói về Người như thế nào cho thế hệ hiện tại: trước hết chúng ta phải nói đến quá khứ, kể lại Tin Mừng: nói về sự sống lại của Người, về con người mới mà Người đã làm chúng ta trở lên con người mới đó.
Ngôn sứ không được vì mình, nhưng phải là chứng nhân cho thế hệ hiện tại.
J.M

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
4 THÁNG TÁM
Chúng Ta Không Đau Khổ Một Mình
Đối với câu hỏi bằng cách nào hòa giải sự dữ và đau khổ trên trần đời với chân lý về sự quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta không thể đưa ra một câu trả lời đầy đủ mà không qui chiếu đến Đức Kitô. Một đàng, qua cuộc sống khó nghèo và khiêm nhường của Người – và nhất là qua cuộc Khổ Nạn và cái chết của Người – Đức Kitô xác nhận rằng Thiên Chúa có mặt với mọi người trong đau khổ của họ.
Hơn th ế nữa, Đức Kitô đã đảm nhận nơi chính Người tất cả những đau khổ của cuộc hiện sinh con người trên trái đất này. Đồng thời, Đức Giê-su Kitô mạc khải rằng đau khổ ấy có một giá trị và năng lực cứu độ. Trong đau khổ ấy có sự chuẩn bị của “một gia tài không thể hư hại, tàn phai” mà Thánh Phêrô đề cập đến trong Thư thứ nhất của ngài: “một gia tài được giữ trên trời cho anh em” (1Pr 1,4).
Như vậy, chân lý về sự quan phòng đạt được ý nghĩa cánh chung cuối cùng của nó xuyên qua “sức mạnh và sự khôn ngoan” của Thập Giá Đức Kitô. Câu trả lời đầy đủ cho vấn đề sự dữ và đau khổ được cung ứng bởi mạc khải của Thiên Chúa qua sự tiền định nơi Đức Kitô. Vì sự tiền định này cho ta thấy rằng ơn gọi của con người là đạt đến sự sống vĩnh cửu – tức tham dự vào trong chính sự sống của Thiên Chúa. Và đây là câu trả lời chính xác mà Đức Kitô đã đem lại cho chúng ta. Người đã xác nhận câu trả lời này qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 04-8
Thánh Gioan Maria Vianey, linh mục;
Gr 26, 11-16.24; Mt 14, 1-12
LỜI SUY NIỆM: Khi vua Hêrôđê lấy bà Hêrôđia vợ ông Philípphê anh của nhà vua. Ông Gioan có nói: “Ngài không được lấy bà ấy” (Mt 14,4)
          Gioan là một người công chính, vừa là một ngôn sứ tiền hô cho Chúa Cứu thế là một gương sáng cho mọi con người trong mọi thời đại và mọi thể chế chính trị khi phải chứng kiến mọi tội phạm; chúng ta cần phải lên tiếng phê phán, chỉ rõ những tội phạm, nhất là những tội phạm do những người có quyền và có chức. Khi đối đầu những sự việc và những con người này; đương nhiên chúng ta sẽ lãnh nhận về mình tất cả mọi thiệt thòi và nguy hiểm kể cả tính mạng của mình mà có khi liên lụy đến những người thân thuộc và thân quen. Nhưng nếu chúng ta đều im lặng thì xã hội và đất nước sẽ đi đến chỗ diệt vong. Là Ki-tô hữu, mỗi người trong chúng ta phải đứng về phía chân lý và sự thật.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân

Ngày 04-08
Thánh GIOAN MARIA VIANEY
Linh Mục (1786 - 1859)
Gioan Maria Vianney sinh ngày 8 tháng 5 năm năm 1786 tại Dardilly. Cha mẹ Ngài là những nông dân trung kiên với đức tin. Suốt thời cách mạng Pháp, họ thường bí mật tiếp rước các linh mục đến trú ngụ. Vì vậy Gioan là một trẻ em có mặt trong các buổi lễ cử hành lén lút tại lẫm lúa và được chứng kiến rất nhiều mẫu gương anh hùng với đức tin.
Năm lên 11, Gioan được cha Greboz cho xưng tội lần đầu. Tháng 5 năm 1798 Gioan được mẹ dẫn sang nhà bà dì ở Ecully để dọn mình rước lễ vỡ lòng. Mùa xuân năm 1799 Gioan cùng với 15 em khác được rước lễ vỡ lòng trong một thánh lễ được cử hành giữa đống rơm. Ngài rước lễ rất sốt sắng và đã giữ cho đến chết tràng chuỗi Mân côi kỷ niệm ngày hạnh phúc này.
Năm 1800 thanh bình trở lại với các tín hữu, khi Napoléon nhận biết rằng không có tôn giáo thì không có một tổ chức nào có thể tồn tại vững bền được. Từ nhỏ Gioan đã muốn làm linh mục. Khi bày tỏ ý định tốt đẹp này, Ngài đã 17 tuổi và mới chỉ qua bậc tiểu học. Mẹ Ngài tán thành chí nguyện, nhưng cha Ngài với óc thực tế đã băn khoăn rất nhiều và không chấp nhận. Mãi tới năm 1805, Gioan đến sống với cha Belley, họ Ecully. Theo học với các bạn tuổi còn nhỏ, mà trí khôn Ngài lại quá trì trệ. Đã vậy vào năm 1890, Ngài lại còn phải nhập ngũ. Năm sau Ngài may mắn được trở về nhà.
Năm 1810, Gioan gia nhập tiểu chủng viện Verrières. Hai năm trôi qua, Ngài là một chủng sinh học hành rất kém. Dầu vậy Ngài cũng nhận vào đại chủng viện. Tại đây chuyển ngữ là tiếng Latinh, mà Gioan lại quá dở về môn này, khiến ban giám đốc khuyên thầy hồi tục. Không thất vọng một lần nữa cha Balley đảm nhận việc dạy dỗ người chủng sinh gương mẫu nhưng chậm trí này. Sau khi hoàn tất chương trình học, ngày 13 tháng 8 năm 1815, Gioan Maria Vianney thụ phong linh mục tại nguyện đường đại chủng viện Grênoble. Ngài được gọi lên chức linh mục chính vì đời sống đạo đức.
Sau khi thụ phong, cha Gioan Maria Vianney được cử làm phó xứ Ecully. Tháng 12 năm 1817, cha Balley qua đời, cha Vianney được cử về làm chánh sở họ Ars. Khi bổ nhiệm, cha tổng đại diện nhắn nhủ : - "Đây là một họ đạo nhỏ bé nghèo nàn, thiếu vắng tình yêu Chúa. Cha hãy mang tình yêu đến cho họ".
Ngày 9 tháng 2 năm 1818 cha đến xứ lần đầu với hành lý khiêm tốn chất trên một chiếc xe tay, gồm một chiếc giường cũ, một rương sách và ít đồ vặt vãnh khác. Tới gần làng, Ngài dừng chân hỏi đường. Bọn trẻ chăn chiên không hiểu tiếng nói khác với thổ ngữ chúng vẫn dùng nhưng cũng đoán biết và chỉ lối cho cha. Khi biết được điạ sở, cha Gioan quì gối cầu nguyện cho những người sẽ là đoàn chiên của mình. Tới nơi Ngài vào thẳng nhà thờ và chìm trong kinh nguyện.
Nhà xứ Ars thật nghèo nàn với vài đồ vật thật sơ sài. Chính cha sở trẻ họ đạo lại coi đời sống cầu nguyện hãm mình là phương thế để thành công. Trong khi mọi người còn triền miên giấc điệp, Ngài đã xách đèn từ nhà xứ sang nhà thờ để cầu nguyện. Trước nhà tạm, nhiều lần với nước mắt ướt cả sàn nhà, Ngài tha thiết cầu nguyện : - Lạy Chúa, con xin lãnh chịu tất cả, nhưng xin Chúa cải hóa họ đạo của con... Con bằng lòng chịu mọi đau khổ như Chúa muốn, miễn sao họ biết hồi tâm hối cải.
Chìm đắm trong kinh nguyện, cha Gioan không quan tâm tới nhu cầu thể xác, mà Ngài coi như cái thây ma. Ngủ đã ít, Ngài lại thường nằm trên sàn nhà. Đồ đạc người ta dâng cúng, Ngài đem cho người nghèo... Vui cười Ngài nói: - Tôi không hề mất áo choàng bao giờ. Chuyện ăn uống Ngài cũng chẳng quan tâm đến, tự mình nấu ăn, Ngài chỉ nấu một nồi khoai rồi treo lên tường.
Khi đói Ngài ăn một hai củ và củ thứ ba là "để cho vui miệng". Nồi khoai thường để lâu cho đến nỗi những củ cuối cùng thường bị mốc meo. Ngài hãm mình như vậy cho tới năm 1827, khi các chị dòng Chúa quan phòng nấu ăn cho Ngài.
Hơn nữa thánh nhân còn tự ý hãm mình. Mỗi đêm Ngài đều đánh tội trước khi ngủ. Trên tường phòng Ngài còn loang lổ nhiều vết máu.
Với một đời sống cầu nguyện hy sinh như vậy, thánh nhân nỗ lực canh tân họ đạo. Về xứ được ít lâu, Ngài sớm nhận ra được ba tệ đoan trong họ đạo là sự lãnh đạm với việc đạo đức, thói quen làm việc xác ngày Chúa nhật và tật ham khiêu vũ.
Để chấn hưng lại tình trạng suy dồi kia, dĩ nhiên thánh nhân gia tăng lời cầu nguyện và việc hãm mình. Trong hoạt động Ngài đi thăm viếng các gia đình. Sửa lại tình trạng thiếu hiểu biết về đạo, Ngài lo dạy giáo lý cho trẻ em. Suốt 27 năm, cha thánh Gioan ngày nào cũng trung thành với viêc dạy giáo lý. Đối với người lớn cha dọn bài giảng rất kỹ lưỡng. Ngồi trong phòng thánh cạnh nhà tạm, cha viết bài giảng, Đêm thứ bảy cha học và tập giảng - cho hôm sau lời giảng của cha rất đơn sơ, nhưng xoáy vào lòng người nghe.
Chẳng hạn Ngài nói: - Không có gì vững bền cả. Đời sống sẽ qua đi... danh giá cũng sụp đổ, của cải rồi sẽ tiêu tan, sức khỏe cũng bị tấn công, chúng ta ra đi như làn gió.
- Càng cầu nguyện người ta càng ham thích, như một con cá trồi lên mặt nước rồi chìm mình trở lại và luôn bơi đi mãi. Linh hồn đắm chìm trong lời cầu nguyện sẽ mất hút trong sự êm dịu của cuộc đàm thoại với Chúa.
Các câu chuyện nhỏ cha kể nhiều khi có giá trị như một bài giảng. Chẳng hạn cha nói về một em nhỏ bị đau bịnh :- Con đau đớn lắm không ?
Cậu bé trả lời "Hôm qua con không đau đớn gì và ngày mai con cũng hết khổ". 
Cha hỏi lại : - Vậy con muốn được lành bệnh không ?
- Trước khi bệnh con hung dữ, khỏi bệnh con dám như vậy lắm. Để như thế nầy là tốt hơn cả.
Chống lại tật làm việc xác, cha nói: - Ngày chủ nhật là của Chúa. Mà anh em ăn trộm cũng chẳng lợi ích gì cho anh em. Tôi biết có hai phương thế chắc chắn để nên nghèo khó là làm việc ngày Chúa nhật và lấy của kẻ khác.
Để chống lại tật ham khiêu vũ, đã có lần cha đến giữa đám để giải tán. Lần khác cha bỏ tiền trả cho nhạc công để anh rút lui. Tích cực hơn, cha lập hội Mân Côi để tập họp các thiếu nữ vào việc thực hành đạo đức này.
Hơn nữa, trong họ có bảy quán rượu cha hết sức khuyên nhủ và cả chúc dữ nữa để họ đổi nghề. Cuối cùng cả 7 quán đều đóng cửa.
Thấy trọng trách của một chủ chiên quá nặng nề. Đã bốn lần cha Gioan tìm cách trốn khỏi họ đạo. Nhưng rồi cha đã bị phát giác, tiếng chuông reo vang và người ta đổ xô ra đường để giữ cha lại. Nỗ lực của cha không dễ dàng được tiếp nhận. Người ta tìm nhiều cách để vu khống cho cha nhiều tội tày trời. Thành công của cha khiến cho nhiều người nghi ngờ và ghen tị, đến nỗi tòa giám mục phải mở cuộc điều tra. Sau nữa chính quỉ dữ cũng phải công khai phá cha dưới nhiều hình thức như xê dịch đồ đạc, la lối om sòm, hiện hình kỳ quái... đến độ đốt cháy cả giường nằm.
Nhớ lại tất cả những gì đã trải qua, cha nói: 
- Khi đến Ars, nếu biết được tất cả những gì tôi phải chịu chắc tôi chết liền.
Nhưng ơn thánh Chúa đã nâng đỡ Ngài. Mỗi ngày trong thánh lễ, Ngài được thấy chính Chúa Giêsu. Dần dần họ Ars đã được biến đổi, hương thơm thánh thiện còn bay lan rộng ra khỏi ngôi làng bé nhỏ và hẻo lánh này. Khách thập phương từ khắp nơi đổ xô đến, để được chiêm ngưỡng một cha sở thánh thiện, để được nghe lời Ngài, để xưng tội. Cha Gioan đã làm vui lòng mọi người.
Suốt hai mươi năm trời, cha như chôn mình trong tòa giải tội, từ sau lễ tới 11 giờ trưa, rồi từ 1 giờ chiều tới 8 giờ tối. Sau này khi được qua đời, cha được chôn cất tại nhà nguyện thánh Gioan tẩy giả, cạnh tòa giải tội mà người ta gọi là phép lạ lớn nhất ở Ars.
Tận tụy với các linh hồn, cha Gioan cũng được ơn thấu tỏ lòng người. Ngày kia có một du khách tới Ars để đi săn. Nhìn ông với con chó bên cạnh, Ngài nói : "Con chó của ông thật đẹp, nhưng linh hồn chẳng đẹp tí nào". Cúi mặt người du khách vào toà xưng tội.
Một người đàn bà khác nghe cha nói: "Ông ấy đã được rỗi. Giữa thành cầu và giòng nước, ông đã kịp ăn năn tội...". Thế là cha đã biết nỗi lo âu sầu của bà, vì cái chết mới đây của chồng bà. Ngài đã mang lại cho bà niềm an ủi khi cho biết rằng: nhờ những bó hoa và vài lần cầu nguyện với vợ mỗi tháng Đức Mẹ, mà người chồng xấu số kia đã được cứu rỗi.
Đời sống của cha Gioan là một mẫu gương tận tụy vì Chúa và vì các linh hồn, Ngài thường nói: "Hạnh phúc cho một vị linh mục được hao mòn vì Chúa và các linh hồn".
Quả thực, cha Gioan đã hao mòn vì phụng sự. Ngày 2 tháng 8 năm 1859 cha chịu các phép bí tích sau hết. Ngày 4 tháng 8 năm 1859 cha trút hơi thở cuối cùng với sự mãn nguyện.
- Phải chết lành khi người ta sống trên thánh giá.
Ngày tháng 5 năm 1925, cha Gioan được tôn phong hiển thánh và năm 1925 được đặt làm bổn mạng các cha sở trên toàn thế giới.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++
04 Tháng Tám
Sức mạnh Của Thiên Chúa
Ðược biết đến và được yêu mến như cha sở họ Ars, cha Gioan Maria Vianney, vị thánh được giáo hội mừng kính hôm nay, là một trong những người làm chứng về lời thánh Phaolô đã nói: "Thiên Chúa đã chọn những người không ra gì, để làm rối loạn những người mạnh mẽ".
Năm 1815, thầy Gioan được truyền chức linh mục.
Sau ba năm tập sự dưới sự hướng dẫn của cha Balley, cha Gioan được chỉ định đến xứ Ars. Trên đường đi nhận họ đạo, khi đi đến khúc đường chật hẹp, cỏ mọc ngụp đầu người, giữa lúc không còn biết hướng đi, cha Gioan đã dừng lại hỏi cậu bé mười tuổi tên Anton đang chăn cừu gần đấy. Cậu bé lịch sự chỉ lối cho cha.
Ngày nay tại nơi đây, dân làng Ars đã dựng một tượng đài để kỷ niệm cuộc gặp gỡ này, gồm có tượng đồng diễn tả thánh Gioan Vianney đang đứng trò chuyện với cậu Anton, một tay ngài đặt lên vai cậu, một tay chỉ lên trời. Dưới chân tượng, người ta ghi câu cám ơn của thánh nhân: "Cám ơn con đã chỉ cho cha đường đi tới Ars. Rồi đây, cha sẽ chỉ cho con đường về Thiên Ðàng".
Thực ra, cha Gioan đã không những giữ lời mình đã hứa chỉ đường cho một mình em Anton về quê Trời mà thôi, nhưng cho cả giáo xứ Ars và trăm ngàn người khác từ khắp nơi kéo đến hành hương, để được xưng tội và được hướng dẫn trở về đường ngay nẻo chính.
Ý thức bổn phận của linh mục là dấn thân phục vụ cho đàn chiên, cha Gioan đã hoạch định cho mình một chương trình sống, một chương trình chúng ta có thể gói gém vào ba hoạt động chính sau đây: Nếp sống khắc khổ hy sinh, tôn sùng Phép Thánh Thể và thi hành việc mục vụ qua lời giảng dạy cũng như trong tòa Giải Tội.
Ðể thi hành việc mục vụ, cha Gioan đã cho tha nhân thời giờ của mình: Mỗi ngày cha chỉ dùng 2 hay 3 giờ để nghỉ ngơi lấy sức. Giờ còn lại cha dùng để cầu nguyện và giải tội.
Quỳ lâu trong nhà thờ vào lúc canh khuya, cha Gioan duyệt lại trước Thánh Thể hoàn cảnh của tất cả 230 tín hữu trong họ đạo Ars, từng người một, từng nhu cầu của mỗi người.
Ngoài ra, mỗi ngày vào mùa đông lạnh lẽo, cha Gioan giải tội trung bình khoảng 11 hay 12 tiếng đồng hồ. Vào mùa hè, có khi ngài sử dụng đến 16 giờ để giao hòa các hối nhân lại với Thiên Chúa.
Cha Gioan thường gọi những giờ giải tội lâu dài này là "Giờ của Thiên Chúa". Trong suốt 41 năm mục vụ, cha Gioan có dịp nghe những tội lỗi của con người, những vấn đề, những khó khăn của trần gian. Ðể xoa dịu, mỗi sáng bước lên bàn thờ dâng Thánh Lễ, cha mang theo hết mọi ý nguyện, mọi hoài bão cũng như mọi yếu đuối, mọi lỗi lầm của toàn dân, để xin Thiên Chúa thanh luyện, cải hóa. Qua đó, tòa giải tội trở nên như một giếng nước trong lành, nơi giáo dân đến múc lấy Tình Thương Yêu của Thiên Chúa.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++


Ngày 04
Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục
Thứ bảy đầu tháng



Chúng ta tôn kính trái tim Mẹ và cả con người Mẹ vì Mẹ là Thánh Mẫu của Đấng Cứu Độ chúng ta. Sở dĩ chúng ta noi gương Mẹ, chính là vì thái độ của Mẹ đối với con của Mẹ - là Chúa của chúng ta và cũng là Chúa của Mẹ. Trái tim của Mẹ tràn đầy Chúa Giêsu. Mẹ luôn miệt mài suy đi gẫm lại trong lòng những gì liên quan đến Chúa. Chính ở điều này mà Mẹ là gương mẫu cho chúng ta. Giữ Chúa Giêsu trong lòng, đó không chỉ là giữ một kỷ niệm êm đềm, nhưng là giữ Lời Ngài, và đem Lời ấy ra thực hành. Chắc hẳn là ta sẽ giữ Chúa Giêsu, theo cách thế đơn sơ của ta, nhưng cũng cần phải giữ Ngài một cách trọn vẹn như Đức Maria đã giữ, theo cách thế của riêng Mẹ.
 
Tuy nhiên, đối với Mẹ, vẫn còn cái gì đó rất đặc biệt mà ta không bao giờ có thể bắt chước được. Người mà Mẹ sinh ra không phải là một con người lẻ loi, đơn độc. Đó là một con người có liên hệ với toàn thể nhân loại, với tất cả vũ hoàn. Từ trong cung lòng của Mẹ, Đức Giêsu, Đấng chẳng bao lâu nữa sẽ là Đấng Kitô, đã mặc lấy phẩm tính là Đầu của Hội Thánh, là Đầu của Thân Thể mẩu nhiệm mà chúng ta là chi thể.
 
J.P. Torrell, o.p.
www.tinmung.net

Thánh Gioan Maria Vianney


Hồi thiếu niên, tôi được biết Thánh Gioan Maria Vianney qua các tập truyện hạnh các thánh, và tôi đã rất “ấn tượng” với vị thánh “không giống ai” này. Việc Chúa làm quá kỳ lạ! Quả thật, “điều gì là không thể với loài người thì vẫn có thể đối với Thiên Chúa” (x. Mt 19,26).
Ngày 4-8 hằng năm là lễ Thánh Gioan Tẩy giả Maria Vianney (1786-1859), cha sở họ Ars (curé d’Ars), bổn mạng các linh mục. Ngài là người sống khiêm nhường và thánh thiện khác thường.
Ngài dâng mình vì vinh danh Thiên Chúa và cứu các linh hồn. Ngài chấp nhận phải thánh thiện từ nhỏ, và điều đó đã hoàn tất nơi ngài. Mọi lời ngài nói ra đều được nói bằng tâm tình sùng kính. Thành công của ngài khó ai có thể bắt chước. Ảnh hưởng của ngài không thể bỏ qua, và kết quả không thể tranh luận.
Mẹ của Thánh Gioan Vianney là một phụ nữ rất sùng đạo, bà cho con trai biết đạo rất sớm. Thánh Gioan Vianney nói: “Tôi mắc nợ mẹ tôi, các nhân đức của mẹ tôi dễ dàng đi vào lòng con cái, và con cái sẵn sàng làm những gì được nhìn thấy”. Ngài có bản chất tốt, với đôi mắt xanh và tóc nâu. Về sau, ngài nói: “Khi tôi còn nhỏ, tôi không biết điều xấu. Tôi quen như thế nơi tòa cáo giải, từ miệng của các hối nhân”.
Sau nhiều gian truân, Thánh Gioan Vianney mới được chấp nhận trở thành linh mục. Lúc 20 tuổi, ngài rất khó khăn để học làm linh mục. Mathias Loras, có thể là người thông minh nhất của ngài trong chủng viện, được phân công giúp ngài học, và cũng rất nóng tính. Một hôm, hết chịu nổi khả năng của Gioan Vianney, Mathias Loras (12 tuổi) đã bạt tai Gioan Vianney trước mặt các chủng sinh khác. Mathias Loras thấy nóng mặt, nhưng cậu vẫn quỳ xuống trước mặt Gioan Vianney để xin lỗi. Mathias Loras có một trái tim vàng. Gioan Vianney cảm thấy buồn và bật khóc, rồi ôm lấy Mathias Loras đang quỳ dưới chân mình. Việc này bắt đầu một tình bạn khăng khít. Mathias Loras về sau làm nhà truyền giáo tại Hoa Kỳ, rồi làm giám mục giáo phận Dubuque, nhưng không bao giờ quên kỷ niệm xưa.
Thánh Gioan Vianney là người có cách nhìn vượt qua mọi trở ngại và có những hành vi tưởng chừng như không thể. Ngài khao khát làm linh mục, nhưng ngài phải cố vượt qua sức học yếu kém của mình, không đủ điều kiện vào chủng viện.
Ngài không học nổi tiếng Latin nên buộc ngài phải dừng bước. Nhưng mơ ước làm linh mục trong ngài khiến ngài tự tìm thầy dạy riêng. Sau thời gian dài vật lộn với sách vở, ngài được thụ phong linh mục.
Lúc còn là chủng sinh, Gioan Vianney học rất chậm. Một ngày kia, một giáo sư thần học thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục không. Tuy đã cố hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy. Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì”?
Gioan Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3.000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?”.
Và “con lừa” Gioan Vianney đã làm nên trò trống là làm rạng danh Thiên Chúa và mưu ích cho Giáo hội. Cùng với Catherine Lassagne và Benedicta Lardet, ngài lập La Providence (Chúa quan phòng), một nhà dành cho các cô gái. Ngài tín thác Thiên Chúa sẽ ban các điều cần cho tinh thần và thể lý của những người coi nhà “Chúa Quan Phòng” là nhà của mình.
Những việc “bất khả thi” luôn ám ảnh ngài. Tài mọn, học kém, nhưng ngài vẫn được “đặc cách” thụ phong linh mục năm 1815. Sau 3 năm ở Ecully, ngài được bổ nhiệm về xứ Ars. Khi quản nhiệm xứ Ars, ngài gặp nhiều người lạnh nhạt và sống khá thoải mái. Ngài muốn giúp họ ăn chay nghiêm ngặt và ngủ ít ban đêm: Một số quỷ chỉ có thể bị xua đuổi bằng việc cầu nguyện và ăn chay.
Lm Gioan Vianney cố gắng đạt được điều mà nhiều linh mục ước muốn, nhưng đó là điều khó. Không thể làm trong một sớm một chiều, mà phải kiên nhẫn thay đổi từng chút. Đây là một xứ nhỏ nhưng “rắc rối” đủ chuyện. Khi đến nơi, Lm Gioan Vianney quỳ xuống hôn đất và cầu nguyện. Hành động đặc biệt này đã được Chân phước GH Gioan Phaolô II noi gương mỗi khi ngài đến nơi nào đó. Thánh Gioan Vianney nói: “Nếu một linh mục không muốn mất linh hồn, thì ngay khi giáo xứ gặp rắc rối, linh mục đó phải vượt qua mọi toan tính của con người, không sợ bị khinh thường và bị thù ghét. Linh mục đó không cần phải biện hộ, dù bị sát hại. Mục tử muốn làm sứ vụ thì luôn phải cầm gươm trong tay. Chính Thánh Phaolô đã nói với giáo đoàn Corintô: Phần tôi, tôi rất vui lòng tiêu phí tiền của, và tiêu phí cả sức lực lẫn con người của tôi vì linh hồn anh em. Phải chăng vì yêu mến anh em nhiều hơn mà tôi được yêu mến ít hơn?”. (*)
Trong các bài giảng đầu tiên, Thánh Gioan Vianney đã phản đối các thói hư tật xấu của dân xứ Ars: Báng bổ, nguyền rủa, coi thường ngày Chúa nhật, tụ tập ăn nhậu và múa hát ở các quán xá, những bài hát trơ trẽn và ăn nói tục tĩu. Ngài nói: “Quán xá là cửa hàng của ma quỷ, là trường học của hỏa ngục, là thị trường buôn bán các linh hồn, là nơi làm tan vỡ các gia đình, là nơi làm cho sức khỏe bị hao mòn, là nơi xảy ra các cuộc cãi vã và giết người”.
Thánh Gioan Vianney không bao giờ nghĩ xứ Ars sẽ thay đổi cho đến khi có 200 người sống theo Mười Điều Răn của Chúa, Sáu Điều Răn của Giáo hội và hoàn tất nhiệm vụ trong cuộc sống. Điều này có đòi hỏi quá nhiều để đổi lấy Nước Trời?  Chúa Giêsu nói: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26; Mc 8,34; Lc 9,22). Nếu chúng ta hỏi họ làm gì trong ngày Chúa nhật, có thể họ sẽ trả lời:  “Tôi bán linh hồn cho ma quỷ và đóng đinh Chúa Giêsu... Tôi đã được tiền định xuống hỏa ngục...”.  Đó có thể là lời được nói ra hoặc chỉ được nói thầm trong lòng!
Thánh Gioan Vianney phải mất 10 năm mới có thể thay đổi dân xứ Ars. Không còn làm việc ngày Chúa nhật, nhà thờ càng ngày càng đông người, không còn say xỉn. Cuối cùng, các quán rượu đóng cửa vì không có khách, và các cuộc cãi vã trong gia đình cũng hết. Lòng chân thật trở nên tính cách chung. Thánh Gioan Vianney viết: “Xứ Ars không còn là xứ Ars nữa”, vì cả xứ đã thay đổi tận gốc rễ. Cả xứ Ars trở nên một cộng đoàn đạo hạnh. Ngài vui mừng dạy giáo lý cho trẻ em và dạy chúng làm bổn phận.
Thánh Gioan Vianney thánh hóa mình trong công việc và luôn sống trong thế giới siêu nhiên, nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ của một con người và một linh mục. Ngài nói: “Thật tốt đẹp biết bao khi làm mọi việc đều kết hiệp với Thiên Chúa nhân lành! Hồn tôi ơi, hãy can đảm! Nếu ngươi làm việc với Thiên Chúa, ngươi sẽ thực sự làm việc, và Ngài sẽ chúc lành cho công việc. Ngươi sẽ bước đi và Ngài sẽ chúc lành cho những bước chân. Mọi thứ đều được ghi công. Hãy dâng mọi đau khổ nhỏ lên cho Chúa. Tốt đẹp biết bao nếu biết dâng mình, dâng ngày, dâng mọi sự cho Chúa!”.
Trong thư an ủi người anh em họ là Lm Chalovet, Thánh Gioan Vianney viết: “Tôi vội viết những dòng này để nói anh đừng bỏ đi, dù có những thử thách mà Chúa muốn anh chịu đựng. Hãy can đảm! Nước Trời đủ để làm phần thưởng cho anh. Hãy nhớ rằng ma quỷ trong thế giới này muốn giành lấy các Kitô hữu tốt lành. Anh đang trong hành trình tử đạo. Nhưng phúc thay nếu anh là người tử đạo vì bác ái! Đừng để mất triều thiên vinh hiển đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: ‘Phúc cho ai chịu bách hại vì Ta’. Xin chào tạm biệt. Hãy kiên trì và chúng ta sẽ gặp lại nhau trên Nước Trời... Hãy can đảm lên, hỡi người anh em! Chúng ta sẽ sớm thấy Thiên đàn vinh quang. Sẽ không còn thập giá cho chúng ta! Thật là thiên phúc! Chúa Giêsu đã yêu chúng ta quá nhiều và Ngài sẽ làm cho chúng ta hạnh phúc!”.
Từ nhỏ, Thánh Gioan Vianney đã yêu mến Đức Mẹ. Khi là linh mục, ngài luôn cố gắng truyền bá lòng sùng kính Đức Mẹ. Các gia đình trong xứ Ars đều có tượng Đức Mẹ trước nhà, và trong nhà nào cũng có ảnh Đức Mẹ với chữ ký “M. le Curé” (Cha sở Maria, tức là Lm Gioan Maria Vianney). Năm 1814, ngài cho dựng tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm tại nhà thờ xứ. Tám năm trước đó, ngày 1-5-1836, ngài đã dâng xứ Ars cho Đức Mẹ Vô Nhiễm. Những ngày lễ Đức Mẹ, giáo dân rước lễ rất đông, và nhà thờ không bao giờ vắng người. Chiều các ngày lễ Đức Mẹ, không ai muốn bỏ lỡ các bài giảng của ngài về Đức Mẹ. Người nghe rất phấn khởi khi nghe ngài nói về sự thánh thiện, sức mạnh và tình yêu của Đức Mẹ.
Giáo dân xứ Ars nói với nhau: “Cha xứ của chúng tôi luôn làm những điều ngài nói và thực hiện những điều ngài giảng. Không bao giờ thấy ngài nghỉ ngơi thoải mái”. Ngài ăn chay nghiêm ngặt, đến nỗi chỉ còn da bọc xương. Ngài ngủ ít, mà chỉ nằm trên chiếc chiếu giản dị, và việc ăn uống của ngài cũng rất sơ sài, có khi chỉ là mấy củ khoai. Thánh Gioan Vianney đọc sách nhiều, và thường đọc hạnh các thánh. Ngài ấn tượng với cách sống thánh thiện của các thánh, ngài muốn chính ngài và người khác cũng noi theo những tấm gương đạo đức đó. Cách sống của ngài khiến chúng ta phải thẳng thắn tự xét mình rất nhiều!
Ngài nói: “Nếu chúng ta không là thánh bây giờ, thật bất hạnh cho chúng ta, vì thế mà chúng ta phải nên thánh ngay bây giờ. Trong lòng chúng ta không có tình yêu thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể làm thánh”.
Từ năm 1827, bắt đầu có nhiều người đổ về xứ Ars. Khách hành hương đến từ Pháp, Bỉ, Anh và từ Mỹ châu. Động lức chính của khách hành hương là muốn xưng tội với vị thánh sống và nghe lời khuyên của cha sở thánh thiện của xứ Ars. Tất cả là hồng ân Chúa, việc Chúa làm, chứ ngài không bao giờ xía vào chuyện riêng của người khác. Ngài hoàn toàn không tò mò, thọc mạch, hoặc chỉ trích giáo dân. Cũng như Thánh Giám mục Phanxicô Salê, ngài có biệt tài “thấy những cái mà người khác không thấy”. Khi giải tội, ngài thực sự thương yêu các hối nhân, đến nỗi ngài thường khóc ngay tòa giải tội. Người ta hỏi sao ngài khóc thì ngài trả lời: “Tôi khóc vì bạn không khóc”.
Người ta nói rằng “phép lạ vĩ đại của cha sở xứ Ars là tòa cáo giải”, vì ngài giải tội suốt ngày suốt đêm. Cũng có người nói rằng “phép lạ vĩ đại nhất của cha sở xứ Ars là hoán cải tội nhân”. Một hôm, có người tới xưng tội, người này chỉ đến nhà thờ vào ngày lễ Giáng sinh và Phục sinh. Thánh Gioan Vianney hỏi:“Ông xưng tội bao lâu rồi?”. Người này trả lời: “Bốn mươi năm rồi”. Ngài ngạc nhiên: “Bốn mươi năm?”. Người này nói: “Dạ, đúng là bốn mươi năm”. Và rồi người đàn ông này đã trở lại và chết tốt lành.
Ngày 4-8-1859, Lm Gioan Vianney trút hơi thở cuối cùng để về với Chúa. Ngài làm cha sở xứ Ars được 41 năm. Ngài được Giáo hội phong thánh năm 1925. Ngày nay, mỗi năm có hơn 500.000 lượt người đến thăm giáo xứ nhỏ bé Ars để kính viếng thi-hài-không-hư-nát của một Đại thánh nhân của Giáo hội Công giáo. Cuộc đời Thánh Gioan Vianney là câu chuyện dài về sự thánh thiện và đức khiêm nhường, ngài có trí thông minh kém cỏi nhưng rất thông minh về Thiên Chúa. Ngài chỉ thành công khi trở thành linh mục, ngài đã hoán cải cuộc đời rất nhiều tội nhân và ảnh hưởng mọi lớp người.
Suốt đời linh mục, ngài rất coi trọng việc giải tội vì ngài muốn giải hòa người ta với Thiên Chúa. Có những ngày ngài giải tội khoảng 12 giờ vào mùa Đông, và 16 giờ vào mùa Hè. Ngài không hề nghĩ tới việc nghỉ hưu. Khi nhiều người biết đến ngài, ngài dành thêm thời gian để phục vụ Thiên Chúa, thậm chí ngài có ít thời gian để ngủ vì thường xuyên bị ma quỷ “quấy rầy”.
Ngài sinh tại Dardilly và qua đời tại Ars, Pháp. Ngài được ĐGH Piô X phong chân phước, và được ĐGH Piô XI phong thánh. Ngài được tôn phong là bổn mạng các linh mục, nhưng nhiều linh mục chưa thực sự noi gương ngài để trở thành khí cụ như Ý Chúa!
Cuộc đời Thánh Gioan Vianney đã hoàn tất theo Ý Chúa: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28; Mc 10,45).
Có quy-trình-trao-đổi thế này: Nếu linh mục là vị Thánh, giáo dân sẽ thánh thiện; nếu linh mục thánh thiện, giáo dân sẽ tốt lành; nếu linh mục tốt lành, giáo dân sẽ tử tế; nếu linh mục tử tế, giáo dân sẽ vô tín ngưỡng. Chân phước Mẹ Teresa Calcutta ghi một bảng chữ ở phòng áo nhà nguyện thế này: “Xin các linh mục hãy dân thánh lễ sốt sắng như thánh lễ đầu tiên và như thánh lễ cuối cùng”. Mẹ Teresa rất sâu sắc và thánh thiện, vì cử hành thánh lễ là cử hành bí tích, rất quan trọng!
Thánh Gioan Vianney đang nhắc nhở chúng ta nhiều điều lắm!

Lạy Thánh Gioan Vianney, xin cho chúng con biết noi gương thánh thiện của ngài, và xin nguyện giúp cầu thay cho chúng con để chúng con có thể mau mắn hoán cải và sống theo lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48).
---------------------------
(*) 2 Cr 12,15.


Trầm Thiên Thu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét