Trang

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2012

14-08-2012 : THỨ BA TUẦN XIX MÙA THƯỜNG NIÊN


THỨ BA TUẦN XIX THƯỜNG NIÊN năm II
Thánh Mác-xi-mi-li-a-nô Maria Kon-bê,linh mục,tử đạo.
Thánh Maximilian Mary Kolbe.

BÀI ĐỌC I: Ed 2, 8 - 3, 4
"Người ban cho tôi cuốn sách ấy làm lương thực: nó trở nên ngọt ngào như mật trong miệng tôi".
Ezekel.

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Chúa phán như thế này: "Phần ngươi, hỡi con người, hãy nghe các lời Ta sẽ phán cùng ngươi; ngươi chớ phản nghịch như loài phản nghịch kia. Hãy mở miệng mà ăn những sự Ta sẽ ban cho ngươi". Tôi nhìn, thì có một bàn tay đưa về phía tôi, trong tay có cuốn sách cuộn lại. Người mở cuốn sách ra trước mặt tôi: sách viết cả mặt trong, mặt ngoài. Trong sách viết những lời than van, rên rỉ và kêu trách.
Người phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, ngươi hãy ăn sự ngươi tìm được. Hãy ăn cuốn sách này và đi nói với con cái Israel". Tôi mở miệng và Người cho tôi ăn cuốn sách ấy và bảo tôi rằng: "Hỡi con người, hãy lấy cuốn sách Ta ban cho ngươi làm lương thực mà ăn cho no". Tôi ăn và nó trở nên ngọt ngào như mật trong miệng tôi. Và Người phán cùng tôi rằng: "Hỡi con người, hãy đi đến nhà Israel và nói cho chúng nghe những lời của Ta".
 Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 118, 14. 24. 72. 103. 111. 131

Đáp: Các lời sấm của Chúa ngọt ngào trong cổ họng con là dường nào (c. 103a).
Xướng: 1) Con vui vì đường lối lời Ngài nghiêm huấn, dường bằng được mọi thứ giàu sang. - Đáp.
2) Vì lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích, các thánh chỉ của Ngài là những bậc cố vấn của con. - Đáp.
3) Đối với con, luật pháp do miệng Chúa đáng chuộng hơn vàng bạc châu báu muôn ngàn. - Đáp.
4) Các lời sấm của Ngài ngon ngọt thay cho cổ họng con, ngọt hơn cả mật ong đổ miệng con. - Đáp.
5) Lời Ngài nghiêm huấn là sản nghiệp của con muôn đời: vì những điều đó khiến cho lòng con hoan hỉ. - Đáp.
6) Con há miệng để hút nguồn sinh khí, vì con ham muốn những chỉ thị của Ngài. - Đáp.

ALLELUIA: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe: Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 18, 1-5. 10. 12-14
Chúa Giê-su yêu trẻ thơ
(tranh Trung Quốc)

"Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi: "Chớ thì ai là kẻ lớn nhất trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.
"Và kẻ nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Ta, Đấng ngự trên trời.
"Các con nghĩ sao? Nếu ai có một trăm con chiên mà lạc mất một con, thì người đó lại không bỏ chín mươi chín con trên núi, để đi tìm con chiên lạc sao? Nếu người đó tìm được, Thầy bảo thật các con, người đó sẽ vui mừng vì con chiên đó, hơn chín mươi chín con chiên không thất lạc. Cũng vậy, Cha các con trên trời không muốn để một trong những kẻ bé mọn này phải hư mất".
Đó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Ðức Giêsu đưa trẻ em làm lý tưởng sống, không chỉ vì chúng ngây thơ, vô tội, mà còn vì chúng hoàn toàn tin tưởng, cậy dựa vào cha mẹ. Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cũng cần sống gắn bó vào Ðức Giêsu, tức là từ bỏ bản thân để đi theo Ngài.
Ðức Giêsu cũng khuyên phải tôn trọng trẻ em, những kẻ bé mọn, những người yếu đuối và ngay cả những người tội lỗi... Tất cả mọi người đều là hình ảnh của Thiên Chúa, đều được giá máu cứu chuộc. Thế nên chúng ta phải đón nhận tất cả mọi người anh em, không trừ một ai.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ, để chúng con biết sống cho Chúa trong mọi biến cố thăng trầm của cuộc sống. Xin Chúa cũng cho chúng con biết yêu thương và tôn trọng những anh em bé mọn, yếu đuối. Xin giúp chúng con biết cầu nguyện, giúp đỡ họ nhiều hơn để tất cả chúng con được Chúa đón nhận và yêu thương. Amen
(Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ BA TUẦN XIX THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: Eze 2:8-3:4; Mt 18:1-5, 10, 12-14
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:

Lãnh đạo theo kiểu của Thiên Chúa.

Nước mất nhà tan phần lớn là do tội của những nhà lãnh đạo không biết cách cai trị dân chúng. Thay vì phải cai trị dân chúng trong công bằng và thương yêu, họ đối xử bất công và gây chia rẽ trong mọi giới. Thay vì chú trọng đến việc phát triển quốc gia và nâng cao đời sống dân chúng, họ bằng lòng chỉ để ý đến lợi nhuận và hưởng thụ.

Các bài đọc hôm nay dạy cho con người biết cách lãnh đạo làm sao để mang lại hòa bình và cơm no áo ấm cho dân. Trong bài đọc I, Đức Chúa dạy cho ngôn sứ Ezekiel điều quan trọng nhất trong cách lãnh đạo là vâng lời Ngài. Cứng lòng và phản loạn chỉ chuốc lấy thiệt hại vào thân và mang đất nước đến chỗ thảm bại và lưu đày. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ biết người lớn nhất trong Nước Trời là người biết khiêm nhường như trẻ nhỏ để biết lắng nghe Lời Chúa và để phục vụ mọi người. Ông cũng phải có lòng thương yêu để đi tìm con chiên lạc.



KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ngôn sứ phải biết vâng lời nói những gì Thiên Chúa muốn.

1.1/ Thị kiến về cuốn sách

Vì vua quan cũng như dân chúng không chịu thờ phượng Đức Chúa và tuân giữ những điều Ngài truyền, nên tất cả phải lãnh hậu quả là nước mất nhà tan, Đền Thờ bị phá hủy, và toàn dân bị đem đi lưu đày. Trong thời gian bị lưu đày bên Babylon, các ngôn sứ của Đức Chúa đã không ngừng loan báo cho dân biết Chúa sẽ cứu đám tàn dân còn lại, và cho họ hồi hương trở về kiến thiết xứ sở và xây dựng lại Đền Thờ. Để được như thế, họ phải nghe lời các ngôn sứ.

Liên tiếp các trình thuật về ơn gọi làm ngôn sứ, một người có thể thấy sự quan trọng của Lời Chúa trong sứ vụ ngôn sứ. Trong ơn gọi làm ngôn sứ của Isaiah, sứ thần của Đức Chúa đã thanh tẩy ông bằng cách gắp một cục than hồng cho chạm vào miệng để thanh tẩy ông. Trong Jeremiah, Chúa truyền cho ông ăn cuốn sách nhỏ. Và hôm nay trong Ezekiel, Chúa truyền cho ông ăn cả cuộn sách: “Còn ngươi, hỡi con người, hãy nghe điều Ta sắp nói với ngươi, đừng phản loạn như nòi phản loạn ấy! Mở miệng ra mà ăn cái Ta sắp ban cho ngươi."

Trong cuộn sách Thiên Chúa trao có cả qúa khứ đau buồn lẫn tương lai hy vọng. Những trang viết mặt trước có thể là những gì sắp tới trong tương lai, những trang viết mặt sau có thể là những gì đã xảy ra trong quá khứ. Tiên tri tường thuật: “Tôi nhìn, thì kìa có bàn tay đưa về phía tôi, bàn tay đó cầm một cuộn sách rồi mở ra trước mặt tôi; sách được viết cả mặt trước lẫn mặt sau, trong đó có viết những khúc ai ca, những lời than vãn và những câu nguyền rủa."

1.2/ Ezekiel vâng lời Thiên Chúa ăn cuốn sách.

Thái độ của ngôn sứ Ezekiel vâng lời ăn cuốn sách ngược lại với giống nòi phản loạn không chịu nghe lời Thiên Chúa. Lời của Chúa đã trở thành lời của Ezekiel. Cuốn sách ngọt như mật có ý muốn nói đến sự dịu ngọt của Lời Chúa. Khi đã thấm nhuần Lời Chúa rồi, ngôn sứ Ezekiel mới có thể đi rao truyền Lời Chúa cho nhà Israel được.

2/ Phúc Âm: Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.

2.1/ Khiêm nhường là điều kiện để được vào Nước Trời.

(1) Tham vọng của con người: Các môn đệ lại gần hỏi Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?" Các môn đệ hỏi câu hỏi này vì các ông đã quá quen với tiêu chuẩn và giá trị của thế gian: tiêu chuẩn của thế gian là địa vị, danh vọng, và quyền hành; người có giá trị là người có địa vị và quyền hành lớn nhất, chẳng hạn như vua hay một nguyên thủ của quốc gia. Có thể nói mục đích của các môn đệ khi theo Chúa lúc đầu là để được cùng thống trị với Chúa, khi Ngài khôi phục vương quốc Israel. Tham vọng này được chứng minh khi mẹ và hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin Chúa cho một người ngồi bên phải và một người ngồi bên trái Chúa khi Ngài trị vì. Mười tông-đồ kia bất mãn với hai anh em về yêu cầu này.

(2) Điều kiện để được vào Nước Trời: Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ (paidíon) đến, đặt vào giữa các ông và bảo: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời." Hai tư tưởng chính Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu ở đây: Thứ nhất, tiêu chuẩn và giá trị của Nước Trời hoàn toàn khác với tiêu chuẩn của thế gian. Thứ hai, để được vào Nước Trời, con người phải hạ mình và trở nên như một trẻ nhỏ.

2.2/ Người mục tử nhân lành: Vẫn trong chiều hướng dạy dỗ các môn đệ làm quen với tiêu chuẩn và giá trị của Nước Trời, Chúa Giêsu tiếp tục dạy các ông hai bài học:

(1) Đừng khinh thường kẻ bé mọn: "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời."

Thế gian chú trọng đến những người có địa vị, quyền thế, và giầu có; Chúa dạy các môn đệ phải thương xót và săn sóc những kẻ bé mọn (mikros). Tĩnh từ Hy-lạp dùng như danh từ ở đây khác với danh từ dùng cho trẻ nhỏ ở trên (paidíon), tĩnh từ này được dùng để chỉ:

- những người có thân hình nhỏ bé: trẻ thơ, người lùn;

- những người không quan trọng, không có địa vị trong xã hội, người nghèo khó, thất học.

Người môn đệ của Đức Kitô phải biết đứng về phía những kẻ cô thân cô thế để bênh vực và giúp đỡ họ như những con cái của Thiên Chúa. Mỗi người này đều có một thiên thần hộ thủ để bênh vực cho họ trước Thiên Chúa. Ai khinh thường và làm hại họ, thiên thần sẽ tường thuật cho Thiên Chúa (x/c Tob 3:8-9, 12:12-14).

(2) Phải đi tìm con chiên lạc: Chúa tiếp tục dạy các môn đệ: "Anh em nghĩ sao? Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc."

Người của thế gian chú trọng đến đám đông để được phổ thông và nổi tiếng; họ không thể hiểu nổi tại sao lại bỏ 99 con chiên trên núi để đi tìm con chiên lạc. Thiên Chúa như một người cha yêu thương chú trọng đến từng cá nhân một, nhất là những con chiên bị lạc đường. Ngài biết từng con chiên, yêu thương từng con chiên, không thỏa mãn cho đến khi tìm được con chiên lạc, và chỉ vui mừng khi thấy tất cả chiên được qui tụ về một đàn dưới quyền của một Chúa chiên.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Nhà lãnh đạo thành công trước hết là người biết lắng nghe Lời Chúa, sau đó phải tìm mọi dịp để rao truyền và áp dụng những lời này trong cuộc sống để sinh ích cho mọi người.

- Trở nên như trẻ thơ không phải làm tất cả những gì chúng làm, nhưng biết khiêm nhường hạ mình trước mặt Thiên Chúa và tin tưởng hoàn toàn vào sự quan phòng của Ngài.

- Nhà lãnh đạo theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa không phải là người đứng chỉ tay năm ngón, nhưng biết yêu thương và phục vụ mọi người, nhất là những người cô thân cô thế.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
****************          

Thứ Ba tuần 19 thường niên



Sứ điệp: Thiên Chúa muốn ta mang lấy những tâm tình của trẻ thơ: luôn đơn sơ, chân thành, tin tưởng, phó thác trọn vẹn vào Thiên Chúa.
Cầu nguyện: Có lẽ hình ảnh tươi đẹp nhất của cuộc sống mà ai cũng đều trân trọng, đó là quãng đời tuổi thơ. Tuổi thơ là niềm vui của cha mẹ, là mầm sống tương lai cho Giáo Hội, cho quê hương. Cái đẹp của tuổi thơ là sự vô tư hồn nhiên trước cuộc sống, luôn bình thản với hiện tại, không bon chen, không hận thù tranh chấp, lại chẳng lo lắng đến tương lai, luôn chấp nhận cuộc sống với một thái độ lạc quan. Chúa là Cha, Chúa muốn con luôn sống như một trẻ thơ trong tay cha. Càng trở nên trẻ thơ, con lại càng được Chúa yêu quý.
Lạy Chúa, trong cuộc sống đức tin, con lại muốn làm người lớn, để con được tự do làm những gì mình muốn, thay vì sống theo lề luật của Chúa. Con cũng thường hiểu Lời Chúa theo ý riêng con, thay vì nghe theo đường lối Giáo Hội chỉ dạy. Và hậu quả là con đã lầm đường lạc lối.
Cũng có nhiều lúc con tự cao tự đại, coi thường những cơn cám dỗ, con cậy dựa vào sức mình mà không chịu cậy trông vào Chúa. Và cũng có nhiều lúc tâm hồn con nuôi dưỡng những tư tưởng hận thù, âm mưu đen tối, phiền sầu lo lắng.
Lạy Chúa, như trẻ thơ nép mình trong tay người mẹ, xin cho con biết trở nên như trẻ nhỏ với một tâm hồn đơn sơ, hiền lành, tin tưởng và phó thác đời sống và bản thân con trong tay Chúa, để chính Chúa nâng đỡ, hướng dẫn con trên hành trình cuộc sống trần gian này.
Lạy Chúa Giêsu, xin thương đón nhận và chúc lành cho con. Amen.
Ghi nhớ : "Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này".

14/08/12 THỨ BA TUẦN 19 TN
Th. Mắcximilianô Maria Kônbê, linh mục, tử đạo
Mt 18,1-5.10.12-14

TÂM TÌNH MỤC TỬ

“Ai có 100 con chiên mà có một con đi lạc, lại không để 99 con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may tìm được, thì Thầy bảo thật anh em, người ấy vui mừng vì con chiên đó hơn là vì 99 con không bị lạc.” (Mt 18,12-13)

Suy niệm: Do địa hình miền núi phức tạp, người Do thái thời Chúa Giêsu thường chăn chiên chung với nhau. Mỗi đoàn vật thường gồm của nhiều chủ gộp lại chăn chung để tiết kiệm đồng cỏ, tránh tối đa nguy cơ chiên lạc bầy và bị thú dữ ăn thịt. Vì thế, khi một con chiên đi lạc, chủ chiên sẵn sàng giao đoàn chiên của mình cho những mục tử bạn để đi tìm. Chúng ta có thể hình dung tất cả dân làng lo lắng thế nào khi những người chăn trở về lại thiếu một người đang phải lang thang ngoài núi để tìm kiếm. Và niềm vui càng lớn lao biết mấy khi thấy anh ta vác chiên trên vai trở về bình an vô sự. Chúa Giêsu thích dùng hình ảnh này để diễn tả Thiên Chúa và tình yêu của Ngài.

Mời Bạn: Bạn có “cảm” được tình yêu đến độ “vô lý” của Thiên Chúa chưa? Một tình yêu coi một mình bạn cũng có giá trị ngang bằng một số đông (1=99). Tình yêu của Đấng Tạo Hoá vô biên dám tự hiến để cứu thụ tạo hư vô khỏi hư mất (tạm diễn dịch là ).

Chia sẻ về một lần bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa dành cho bạn cho dù bạn không xứng.

Sống Lời Chúa: Chỉ có một cách đáp lại tình yêu Thiên Chúa đó là… - bạn biết rồi - “lấy tình yêu đáp đền tình yêu”.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin giúp con biết lấy tình yêu của con để đáp lại tình yêu của Chúa dành cho con, lấy cuộc sống của con để đáp lại sự sống Chúa đã hy sinh vì con để con giữ nghĩa cùng Chúa cho đến hết hơi, cho đến trọn đời. 



Em nhỏ và kẻ bé mọn 

Từng con chiên lạc đều đáng chúng ta trân trọng. Khi nhìn trẻ nhỏ và kẻ bé mọn trong cộng đoàn bằng cặp mắt của Chúa, chúng ta sẽ biết cư xử tử tế và kính trọng họ hơn.

Suy nim:
Làm lớn ở trong nhóm hay trong Giáo Hội,
đó vẫn là mối bận tâm gây tranh cãi giữa các môn đệ Thầy Giêsu.
Sau khi Thầy loan báo lần thứ hai về cuộc Khổ nạn (Mt 17, 22-23),
các môn đệ vẫn bị hút vào câu hỏi ai là người lớn nhất (c. 1).
Như một nhà sư phạm khéo léo, Thầy Giêsu đã gọi một em nhỏ lại,
đặt em đứng giữa các ông, và đưa ra câu trả lời.
Câu trả lời của Thầy chắc đã làm các môn đệ bị sốc.
Trong xã hội Do thái thời Đức Giêsu, trẻ em không có vai vế gì,
cũng chẳng có chút quyền hành hay sự độc lập.
Chúng không phải là biểu tượng cho sự trong trắng, ngây thơ,
cho bằng là biểu tượng cho sự tùy thuộc, lệ thuộc vào người lớn.
Khi đặt một em nhỏ bằng xương bằng thịt giữa các ông,
Thầy Giêsu đã đưa ra câu trả lời rồi.
Đối với Thầy, điều kiện để vào Nước Trời mai sau,
là phải trở nên như trẻ em (c. 3).
Muốn trở nên như trẻ em, cần phải trở lại, nghĩa là quay lại, hoán cải.
Chỉ người lớn nào dám đổi hướng sống, mới có thể trở nên trẻ thơ.
Chỉ ai dám rũ bỏ đam mê về quyền lực và tiếng tăm, về địa vị và chỗ đứng,
người ấy mới có thể vào Nước Trời.
Nước Trời là Nước của trẻ thơ,
và những ai trở nên giống trẻ thơ nhờ hoán cải.
Vậy ai là người lớn nhất trong Nước Trời?
Thầy Giêsu trả lời, đó là người tự hạ, thấp kém như một em nhỏ (c. 4).
Để vào được Nước Trời, để làm người lớn nhất trong Nước đó,
cần trở nên như trẻ thơ, tay trắng, không tự hào, tự mãn về mình,
không cậy dựa vào đạo đức của bản thân, nhưng vào tình thương của Chúa.
Như thế người lớn nhất trong Nước Trời lại là người nhỏ bé, khiêm nhu.
Thầy Giêsu không chỉ giúp môn đệ hiểu xem ai là người lớn nhất thực sự,
Ngài còn dạy họ biết quý giá trị của từng con người trong cộng đoàn.
Cộng đoàn tín hữu nào cũng có những môn đệ yếu kém mặt này, mặt khác.
Ở đây họ được gọi là những kẻ bé mọn.
Thầy Giêsu nhấn mạnh đến phẩm giá của những kẻ bé mọn này.
Không ai được phép khinh rẻ một người nào trong nhóm họ.
Họ được bảo trợ bởi các thiên thần riêng,
và các thiên thần của họ vẫn chiêm ngưỡng nhan Cha ở trên trời (c. 10).
Có những môn đệ bé mọn bị sa ngã, lạc lối.
Thái độ của người lãnh đạo là để lại chín mươi chín con chiên
để đi tìm một con chiên lạc.
Cả con chiên lạc cũng vẫn có giá trị khiến ta phải tốn công sức để tìm về.
“Thiên Chúa không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.”
Chính vì thế từng con chiên lạc đều đáng chúng ta trân trọng.
Khi nhìn trẻ nhỏ và kẻ bé mọn trong cộng đoàn bằng cặp mắt của Chúa,
chúng ta sẽ biết cư xử tử tế và kính trọng họ hơn.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

 
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Các con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này".

Tinh thần trẻ thơ
Tin Mừng Mátthêu được cấu trúc xoay quanh năm diễn từ dài của Chúa Giêsu, và diễn từ thứ tư bắt đầu với chương 18 nói về nếp sống của người môn đệ trong cộng đoàn. Tin Mừng hôm nay nhắc đến hai đặc điểm của nếp sống người môn đệ trong cộng đoàn.
Trước hết là thái độ sống trẻ thơ. Một tiểu thuyết gia nọ đã đưa ra nhận định: "Khi người lớn chúng ta không còn giữ liên hệ nào với các trẻ nhỏ, thì chúng ta không còn giữ được tính người nữa, mà đã trở thành như những chiếc máy chỉ biết ăn uống và kiếm tiền". Lòng tin tưởng của trẻ thơ gợi lên cho chúng ta về sự tin tưởng mà Chúa Giêsu đã dạy chúng ta phải có đối với Thiên Chúa Cha, Ðấng ngự trên trời. Thái độ trẻ thơ khâm phục trước vũ trụ và thiên nhiên nhắc nhớ sự khâm phục mà chúng ta cần có đối với vũ trụ do Thiên Chúa Cha chúng ta dựng nên. Thái độ đáp trả của trẻ nhỏ trước tình yêu thương nhắc chúng ta phải đáp trả đối với tình yêu thương của Thiên Chúa.
Nhận định trên đây giúp chúng ta hiểu tại sao Chúa Giêsu muốn các môn đệ trong cộng đoàn mà Ngài thiết lập phải trở nên như những trẻ nhỏ: đơn sơ, tin tưởng phó thác, không có thái độ kẻ cả.
Những đức tính tốt của tuổi thơ sẽ giúp cho các thành phần trong cộng đoàn chấp nhận và phục vụ nhau, không kỳ thị phân biệt. Cộng đoàn những con người cụ thể dĩ nhiên có những khuyết điểm, những bất toàn, tội lỗi. Chúa Giêsu biết rõ điều đó, nhưng Ngài không muốn môn đệ Ngài có thái độ sống kỳ thị tách biệt khỏi những người khác, nhất là những người tội lỗi. Trái lại, Chúa Giêsu đã mở ra một viễn tượng mới, Ngài mạc khải thái độ nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, đến nỗi đã bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và vui mừng khi tìm được nó. Chúa Giêsu mời gọi con người ăn năn sám hối trở về với sự thật, với tình thương và với người anh em.
Xin Chúa cho chúng ta sống tinh thần trẻ thơ trước mặt Chúa và trong tương quan với người khác. Xin cho chúng ta sống tin tưởng, yêu thương phục vụ mọi người vì tình yêu Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Những trẻ nhỏ của tôi.
Lúc y các môn đ đến gn hi Đc Giêsu rng: “Thưa Thy, ai là người ln nht trong Nước Tri?” Đc Giêsu lin gi mt em nh đến, đt vào gia các ông mà bo: “Thy bo tht anh em: nếu anh em không quay tr li mà nên như tr em, thì s chng được vào Nước Tri.”
Vy ai t h, coi mình như em nh này, người y s là người ln nht Nước Tri.(Mt. 18, 1-4)
Người ln khó có lòng trông cy hoàn toàn vào Thiên Chúa, khó sng trong đc tin.
Giu có nh nghèo khó.
Nghèo khó trong mi phúc tht th nht chính là s giu có ca tui thơ u. Tr nh không phi là thiên thn. Tuy nhiên thiên thn ging như đa tr má phúng phính, chút v ngây ngô, vô tính, như nhng bc ha mô t.
Còn tr nh có nhiu lm li, nhưng có nhiu đc tính, cá tính. Nó tin cy tt c, yêu tt c. Nó biết cha nó không gt gng v tính hay thay đi ca nó. Nếu cha nó sa li nó, thì luôn luôn vì yêu nó. (tôi nghĩ đến nhng người cha bình thường ch không phi hng người cha đao ph mà báo chí đăng tin gt gân)
Cha chúng ta trên tri tha th nhng li by b ca chúng ta, khi chúng ta sng chc chn trong tình yêu ca Ngài, tin cy hoàn toàn vào Ngài.
Mt đa tr tưởng mình qua mt được Thiên Chúa, cho rng mình không cn Thiên Chúa đ được hnh phúc, thì nó đã t coi mình trưởng thành, nó đã mt tâm hn tr thơ, cn kit hnh phúc và nim vui ri.
Nhng đòi hi tr nên tr nh.
Khi kêu gi chúng ta tr nên tr nh, Chúa nhc nh chúng ta rng Nước Tri không phi là mt phn thưởng d được, phi thc hin mt đi sng toàn din. Phi tìm li v cao đp ca tui thơ, s chân tht, s hết mình và tính vui tươi ca chúng. Không lo ngày mai, nhưng lúc này là giây phút đi đi. Không d dàng tr nên tr nh, tìm li được nhit tình hăng hái trước cuc đi biết ngc nhiên trước tình yêu đang bc l ra hng ngày cho chúng ta. Không d dàng tr nên tr nh và cuc sng đy tràn sc sng mi ngày. Nếu mi vic chúng ta làm trong ngày mà đến cui ngày chúng ta thy mt mi tinh thn, thì chc chn tt c nhit tình chúng ta đ vào công vic không còn mang được ách êm ái và gánh nh nhàng ca thánh ý Chúa na, như vy cuc sng ca chúng ta đã tr thành thm kch bi đát ri.
J.M

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
14 THÁNG TÁM
Mục Đích Phổ Quát Của Con Người Trong Kế Hoạch Của Thiên Chúa
Tuy nhiên, Công Đồng không nhắm mắt trước những vấn đề ngổn ngang mà con người đối mặt khi phát triển trái đất, cả những vấn đề trong chính mình lẫn những vấn đề trong cuộc sống với người khác. Sẽ là thiếu thành thật nếu phớt lờ những vấn đề ấy; cũng vậy, sẽ là một sai lầm nếu trình bày các vấn đề ấy một cách không đúng đắn và không phù hợp qua việc không qui chiếu đến sự quan phòng và ý định của Thiên Chúa.
Công Đồng nói: “Ngày nay, tuy đã tự hào trước những khám phá và quyền lực mình, nhân loại vẫn thấy lo lắng thắc mắc về sự tiến hóa hiện nay của thế giới, về chỗ đứng và phận vụ của con người trong vũ trụ, về ý nghĩa của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể, và sau hết về cùng đích của con người và muôn loài” (MV 3).
Rồi Công Đồng tiếp tục giải thích: “Cũng như trong bất cứ cơn khủng hoảng tăng trưởng nào, sự biến đổi này kéo theo những khó khăn không nhỏ. Chẳng hạn như đang khi bành trướng quá rộng quyền lực của mình, không phải lúc nào con người cũng có thể bắt nó phục vụ mình. Cố gắng đi sâu hơn vào thâm tâm mình, con người nhiều khi lại tỏ ra hoang mang hơn về chính mình. Dò dẫm tìm hiểu rõ hơn những luật lệ của đời sống xã hội, con người lại do dự không dám định đoạt hướng đi cho mình” (MV 4).
Một cách rất ấn tượng, Công Đồng nói về “những mâu thuẫn và chênh lệch” là hệ lụy của sự thay đổi “nhanh chóng và lộn xộn” trong các điều kiện kinh tế xã hội, trong tập quán, trong văn hóa, trong suy nghĩ và trong lương tâm con người, trong gia đình, trong các mối quan hệ xã hội, trong quan hệ giữa các nhóm, các cộng đồng và các quốc gia. Điều này gây ra “những ngờ vực và thù nghịch nhau, những xung đột và thống khổ mà chính con người là nguyên nhân và nạn nhân.” (MV 8-10).
Cuối cùng, Công Đồng vạch ra gốc rễ của vấn đề nói trên khi tuyên bố: “Những chênh lệch dày vò thế giới ngày nay gắn kết với một chênh lệch căn bản hơn phát xuất từ đáy lòng con người” (MV 10).
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 14-8
THÁNH MAXIMILIANÔ MARIA KOLBÊ,
Linh mục tử đạo; Ed 2, 8-3,4; Mt 18, 1-5.10.12-14.
          LỜI SUY NIỆM: “Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời.” (Mt 18, 4).
          Các môn đệ của Chúa Giêsu muốn được biết phải là thế nào mới trở nên là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Chúa Giêsu đã đưa ra những phầm chất mà người môn đệ cần phải có: Trong đó; trước nhất và trên hết là đức tính khiêm nhường. Chỉ có kẻ nhiêm nhường tự hạ mình như một em nhỏ. Bởi ở nơi một em nhỏ, nó không có một tham vọng cá nhân, không biết tôn mình lên; không biết hạ người khác xuống với những thủ đoạn đen tối và tội lỗi để chiếm lấy địa vị lãnh đạo, thu vén tài sản về cho mình. Chính khi tự hạ mình xuống sẽ giúp cho mình quên đi bản ngã trong lúc dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa; cũng như khi phục vụ tha nhân.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
14 Tháng Tám
Còn Tình Nào Cao Quý Hơn
Vào khoảng cuối tháng 7/1941, một tù nhân đã trốn khỏi trại tập trung Auschwitz. Theo quy định của những người Ðức quốc xã đang điều khiển trại, cứ một tù nhân đào thoát, thì 10 người khác phải thế mạng.
Duyệt qua khu biệt giam, viên chỉ huy Fritsch trỏ tay vào hàng rào các tù nhân và ông đếm từ 1 đến 10. Mười người bị tử thần chiếu cố đã lần lượt tiến đến trước mặt người đồ tể. Người thứ mười đứng cạnh cha Maximiliano Kobel chợt la lên thảm thiết: "Vợ tôi, con tôi, trời ơi! Tôi sẽ không bao giờ gặp được vợ con tôi". Cha Maximiliano Kobel đã kéo người tử tội thứ mười đó lại và ngài tiến ra đứng thế chỗ cho anh...
Sau này, Francis Gajownizcek, người đàn ông đã được cha Maximiliano Kobel chết thế đã kể lại: Tinh thần trong trại thay đổi hẳn. Sự kiện này đã tạo ra một ấn tượng cao đẹp và sâu xa... Vị linh mục dòng Fanxico đó không những chỉ chia sẻ cho các bạn tù một mẩu bánh, vài muỗng xúp, nhưng là chính mạng sống của mình để chuộc mạng cho người khác...
Liên tiếp trong hai tuần, cha Maximiliano Kobel đã phải nhịn đói, nhịn khát để chờ chết. Cơn hấp hối kéo dài quá lâu khiến những người Ðức quốc xã không thể chờ đợi được. Sau cùng, viên lý hình đã kết thúc cuộc đời của cha bằng một mũi thuốc độc.
Thân xác của cha đã được hỏa táng và tro tàng đã được rắc trên đồng lúa như phân bón. Nguyện ước lúc thiếu thời của cha đã được thành tựu: "Tôi ước ao được hóa thành tro bụi vì Ðức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội. Ước gì tro đó được reo rắc khắp nơi trên thế giới để không còn một mảnh thi hài nào còn sót lại...".
Nhà tù nào cũng có thể là một hỏa ngục: hỏa ngục của hận thù, của ích kỷ, của phản bội. Có lẽ nhiều người Việt Nam đã và đang trải qua những hành hạ dã man gấp bội phần những gì đã diễn ra trong các trại tập trung thời Ðức quốc xã...
Nhà tù có thể là hỏa ngục, nhưng cũng có thể là Thiên Ðàng: Thiên Ðàng của hy sinh, nhẫn nhục, yêu thương, tha thứ, quảng đại... Biết bao nhiêu hoa thơm đã chớm nở trong cảnh khốn cùng ấy. Khốn khổ càng nhiều, hy sinh càng cao.
"Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu". Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là sự thể hiện của sự độc ác dã man của con người, nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng...
Cái chết hy sinh vì người khác, Chúa Giêsu muốn luôn được tiếp tục qua cuộc sống của người Kitô. Ðã có rất nhiều người đã lập lại cái chết đó qua suốt lịch sử của Giáo Hội và hiện nay, còn biết bao nhiêu người vẫn còn tái diễn cái chết đó qua những hy sinh hằng ngày của mình...
Hôm nay, chúng ta kính nhớ thánh Maximiliano Kobel, người đã chết thay cho một người bạn tù. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 10/10/1982 và đặt ngài làm quan thầy của thời đại khó khăn. Kinh nghiệm của ngài chắc chắn đang tái diễn hằng ngày trong xã hội chúng ta, trong đó người Kitô không ngừng được mời gọi để quên mình và sống cho người khác.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++


Ngày 14
Thánh Maximilianô Kolbê, linh muc, tử đạo
Dạo chơi qua đồng lúa vàng, thật là vui thú biết bao khi được thưởng thức tiếng chim muông ca hót. Thường thì ta chẳng thấy chim đâu, còn chim thì cứ mải mê bay lượn thánh thót, không màng chi đến chuyện có người đang lắng nghe. Tiếng chim ca vô tư và liên lỉ ấy gợi cho ta nhiều điều về lời ngợi khen. Thật vậy, lời ngợi khen phải được dâng lên một cách tự phát và chân thành. Lời ngợi khen khác với lời cảm tạ, bời lời cảm tạ phát xuất từ tâm tình tạ ơn vì một hổng ân Chúa ban. Còn lời ngợi khen đúng ra là một tiếng reo thán phục, là một thoáng "run run" của người đang hoan lạc chỉ vì Chúa là Chúa... thế thôi.
 
Lời ngợi khen cũng là kết quả của lòng trung tín. Thật vậy, nó không liên quan gì tới những điều kiện sống ít nhiều làm ta thỏa mãn hay tới việc ta có bằng chứng được sống thân mật với Chúa(qua các lần khấn hứa chẳng hạn)...Có lẽ chính vì vậy mà rất nhiều người không biết dâng lời ngợi khen hay không thể sống tâm tình ngợi khen. Họ quá quen với chuyện cầu và đón nhận, nên khi không đạt được điều mình mong muốn thì đâm ra thất vọng. Lời ngợi khen xuất phát từ con tim chân thành, đó là một chặng quan trọng trên con đường thiêng liêng.
Bernard Ugeux


THÁNH MACXIMILIANÔ MARIA KÔLBÊ, LINH MỤC TỬ ĐẠO
(1894-1941)
Tượng đài Thánh M.Kolbe
tại Chrzanow, Ba-lan.

Đức Hồng Y Karol Wojtyla - sau này là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II - Tổng Giám Mục thành Cracovie Ba Lan, đã chủ tọa một cuộc họp báo về Cha Maximilien Kolbe Dòng thánh Phanxicô, sinh quán Ba Lan, được tuyên phong chân phước Chúa nhật 17-10-1971 tại Rôma, do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI chủ lễ.
Hơn 30.000 giáo hữu từ khắp thế giới, nhất là từ Ba Lan, Đức, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã đứng chật Đền Thờ Thánh Phêrô, với sự hiện diện của các nghị phụ thượng Hội Đồng Giám mục thế giới, đã khiến cho nghi lễ phong Chân phước này có một ý nghĩa đặc biệt.
Trong bài giảng của buổi lễ, Đức Phaolô VI đã gọi Đấng Tân Chân phước là một tông đồ, một linh mục và là một của lễ Hy sinh.
Ông Phanxicô Gajowniczek, người đã được chân phước Maximilianô Kolbe thế mạng chết thay cho, cũng có mặt trong buổi lễ và rước lễ sốt sắng.
Đức Hồng y tuyên bố: “Đây không phải là một việc ngẫu nhiên, mà là một dấu chỉ của thời đại”. Cha Kolbe chết năm 1941, trong một ngục hầm của trại tập trung ở Auschwitz, cha được tuyên phong Chân phước giữa khóa họp của Thượng Hội Đồng Giám mục lần thứ III.
Trong một thời đại mà nhiều linh mục tự hỏi và muốn biết thân phận, biết “căn cước” của mình thế nào, thì Kolbe đã phúc đáp minh bạch: “Không phải bằng một bài trình bày thần học, mà bằng đời sống và sự chết của mình”. Cha muốn hình ảnh Thầy Chí Thánh căn cứ vào tình yêu Cha đã kết hợp với Đấng Kittô.
Đức Hồng Y Wojtyla nhấn mạnh: “Trong thế giới hằn thù này, tên “phạm nhân” mang số 19.670 kia đã chiến thắng, một chiến thắng khó khăn. Chiến thắng của tình yêu tha thứ. Chứng từ của cha được phơi bày một cách nóng hổi, ở ngay thời hiện tại này. Thời đại mà tình yêu bị bóp méo, bị giày đạp xuống dưới gót chân, một thời đại chỉ thấy những hằn thù về chủng tộc, về chia rẽ quốc gia”.
Đức Hồng Y kết luận: “Lối tu kín của cha và công cuộc truyền giáo bằng báo chí đã làm cho cha trở nên một trong những vị tu sĩ chiêm niệm thứ nhất của thời đại”.
Việc truyền phong Chân phước cho cha Kolbe là một việc mới lạ trong lịch sử Giáo hội từ 500 năm trở lại đây. Lần đầu tiên, một Đức Giáo Hoàng tuyên phong cho một vị Chân phước mới. Trước đây, công việc đó do Ủy Vụ Trưởng Bộ phong Thánh tuyên bố Đoản sắc công nhận vị Chân phước tại Thánh Đường Thánh Phêrô, rồi đến chiều Đức Giáo Hoàng mới tới Vương Cung Thánh Đường để tôn kính vị Tân Chân phước, Chúa nhật 17-10-1971 vừa qua, chính Đức Phaolô VI đích thân tuyên bố Chân phước cho Cha Maximilianô Kolbe.
Cha Maximilianô Kolbe trước đây đã được công nhận là “Tôi Tớ Chúa”. Việc truyền phong chân phước là một giai đoạn để đưa đến tuyên thánh.
Sắc lệnh về Tụng Khoản Chân Phước do Đức Gioan XXIII ký ngày 16-3-1960, sắc lệnh nhận thức các đức tính anh hùng do Đức Phaolô VI ký ngày 30-1-1969.
Tôn sùng một vị chân phước không được trang trọng như một vị thánh, người ta không thể cung hiến cho vị chân phước một giáo phận, một thánh đường hay một bàn thờ riêng nào. Việc tôn sùng chỉ giới hạn trong một giáo phận, một tỉnh hay một dòng tu nào, muốn mở rộng địa hạt khác, phải có một sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng cho phép, và không bao giờ được mở rộng cho toàn thể Hội Thánh.
Để được phong chân phước, phải có hai phép lạ mà Hội Thánh công nhận. Nếu là tử đạo thì không cần phép lạ.

TIỂU SỬ CHÂN PHƯỚC MAXIMILIEN KOLBE.

“Việc như vậy, chúng tôi chưa từng thấy bao giờ”. Đó là lời chứng của các cảnh vệ trại tập trung Auschwitz, khi khai cung về cha Maximilianô Kolbe.
+ “Già rồi chẳng còn ích gì nữa”.
Cuối tháng bảy năm 1941. Một phạm nhân trốn thoát khỏi trại giam. Phạm nhân còn lại bất kỳ là ai phải chết thay. Xô đẩy xuống một hầm để rồi chết vì đói, vì khát, không cho ăn uống gì. Một người trong bọn 10 người là Phanxicô Gajowniszek kêu thất thanh: “Ôi, khổ cho vợ con tôi, tôi không còn bao giờ được thấy nữa!”. Tức thì xảy ra một việc chưa từng thấy bao giờ: trong bọn tù nhân, một tên lách ra khỏi đám, cha Maximilianô Kolbe, đến trước mặt một tên cảnh vệ khát máu: “Tôi muốn chết thay cho một trong bọn 10 người này”. Mọi người kinh ngạc, cha Kolbe nói tiếp: “Tôi già rồi chẳng ích gì cho ai! Còn anh Phanxicô Gajowniszek kia có vợ và nhiều con”. Anh cảnh vệ Fritsch khát máu kia rụng rời kinh hãi. Sau một phút yên lặng, anh chấp thuận đề nghị của cha Kolbe.
Cử chỉ anh hùng ấy đã bắt nguồn từ thuở niên thiếu của Chân phước. Chân phước là con một gia đình thợ dệt nghèo, ở vùng Lods, sinh ngày 7-10-1894, cậu Raymond không có tính nết thuần hóa: nóng nảy, quả đoán, táo bạo. Bà mẹ hết sức nhịn nhục, và một hôm thất vọng thở dài phải kêu lên: “Tội nghiệp cho con, sau này con sẽ làm gì hở con?…”
+ “Con chọn cả hai…”
Phiền sầu thấy mẹ đau khổ vì mình, cậu Raymond 10 tuổi vội vào nhà thờ cầu xin Đức Maria… “Con sẽ làm gì?” Chân phước kể tiếp: Bấy giờ Đức Trinh Nữ hiện ra với tôi, cầm hai vòng hoa, một trắng một đỏ. Đức Mẹ âu yếm nhìn tôi và hỏi tôi chọn cái nào. Vòng trắng chỉ tôi sẽ luôn luôn trong sạch, vòng đỏ bảo tôi sẽ tử đạo. Tôi liền trả lời Đức Trinh Nữ: “Con xin nhận cả hai”. Người mỉm cười và biến đi.
Từ ngày ấy trở đi, con người Raymond thay đổi hẳn. Bà mẹ Kolbe làm chứng điều đó, sau khi bà đã gạn hỏi con để biết bí mật trên: ‘Đức Mẹ hiện ra với Raymond, biến cải Raymond, tạo Raymond nên một trong những Tông đồ nhiệt thành bậc nhất của Giáo hội cận kim, và nên một đồng phẩm với Louis Marie Griginon de Monfort’.
Gia nhập Dòng Anh em hèn mọn Thánh Phanxicô tại Lvnov, Maximilianô Kolbe được gửi đi học tại Rôma về triết và thần học. Ngày 16-10-1917, Maximilianô cùng với sáu bạn thành lập Đoàn “Dân Quân của Đức Vô Nhiễm”, một hội đoàn tận hiến cho Đức Trinh Nữ và rao truyền lòng sùng kính Đức Maria dưới tước hiệu Vô Nhiễm.
Trở về Ba Lan, Maximilianô dạy thần học ở Cracovie trong vài năm. Đến năm 1922, cha truyền bá lòng tôn sùng Đức Mẹ, bằng cách xuất bản tờ nguyệt san “Hiệp sĩ của Đức Vô Nhiễm”. Ban đầu mỗi tháng phát hành 5.000 cuốn và biếu không. Đến năm 1939, tăng lên một triệu số mỗi kỳ. Từ năm 1927, nguyệt san in tại Niepokalonow, là một khu nhà Dòng chuyên lo tôn sùng Đức Mẹ do Cha Kolbe thành lập cách Varsovie, thủ đô Ba Lan, 40 cây số. Cha cũng cho xuất bản một nhật báo Công giáo, một tập san có định kỳ cho trẻ em, và một tạp chí bằng La ngữ riêng cho hàng linh mục trên thế giới truyền bá về Đức Maria.
TẠI NHẬT BẢN
Được tin Đức Thánh Cha Piô XII khuyến khích, cha Kolbe sang Nhật Bản. Tiền bạc không có, ngôn ngữ bản xứ không thông, chỉ có đức tin và lòng trông cậy vững vàng vào Đức Trinh Nữ. Cha Kolbe lập ở gần Nagasaki một trung tâm tôn sùng Đức Mẹ, lấy tên là “Vô Nhiễm Hoa Viên”, cha cho phát hành một tập san về Đức Mẹ có tính cách truyền giáo, và sau này tập san trở nên một trong những tạp chí Công giáo phổ cập nhất tại Nhật Bản.
Cha Maximilianô Kolbe còn trù tính cùng với giáo quyền các xứ Ấn Độ, Cao Ly, Trung Hoa, sẽ thiết lập nhiều cơ sở khác, thế mà chưa thi hành được… Cha mơ ước với báo chí, cha có thể tiếp xúc được hàng tỷ linh hồn…
DƯỚI HẦM TỬ THẦN
Trong ba năm từ 1936-1939, cha Kolbe trở lại hoạt động tại trung tâm Niepokalanow, một nơi chứa 762 tu sĩ, trong đó có bảy vị linh mục, thật là một nhà dòng đông nhất thế giới… Trung tâm chuyên lo truyền bá lòng tôn sùng Đức Mẹ, nên được rất nhiều ơn kêu gọi, hàng năm có tới hàng ngàn người xin ứng tuyển, cha chỉ lựa chọn lấy một số người đích đáng: ba bốn chục người.
Toàn xứ Ba Lan đều biết tiếng cha Kolbe. Khởi đầu đệ II thế chiến, Ba Lan bị Đức quốc xã xâm chiếm. Cha bị đi đày lần thứ nhất vào mùa thu năm 1939. Lần thứ hai ngày 27-2-1941 cha bị bắt và giam ở ngục thất Pawiak, rồi chuyển sang trại tập trung Auschwitz, chết đói, chết khát, hôm áp lễ Mông Triệu trong “Hầm Tử Thần” sau 15 ngày hấp hối. Các cảnh vệ trại tập trung đã minh chứng nhiều việc lạ lùng về cha Kolbe.
Cha đã giúp cho chín bạn tử tù chết bằng yên. Ở ngoài hầm, người ta nghe thấy họ ca hát sung sướng được đi tới đời sống đích thực…
Cha Maximilianô Kolbe được liệt vào hạng các vị Tông đồ đại danh về lòng Tôn sùng Đức Mẹ.
Ngày 17-10-1971, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nâng ngài lên hàng Chân phước, và Đức Gioan Phaolô II đã ghi tên ngài vào sổ bộ hiển thánh.
Thứ Ba 14-8

Thánh Maximilian Mary Kolbe

(1894-1941)
K
hông hiểu tương lai của con sẽ ra sao!" Ðó là câu mà nhiều cha mẹ từng than thở với đứa con hay đau yếu. Nhưng với Thánh Maximilian Mary Kolbe thì khác. Ngay từ nhỏ, khi được cha mẹ hỏi, ngài trả lời, "Con tha thiết cầu xin với Ðức Mẹ để biết tương lai của con. Và Ðức Mẹ đã hiện ra, tay cầm hai triều thiên, một mầu trắng, một mầu đỏ. Ðức Mẹ hỏi con có muốn nhận các triều thiên ấy không -- mầu trắng là sự thanh khiết, mầu đỏ là sự tử đạo. Con trả lời, 'Con muốn cả hai.' Ðức Mẹ mỉm cười và biến mất." Sau biến cố đó, cuộc đời của Maximilian Kolbe không còn giống như trước.
Ngài gia nhập tiểu chủng viện của các cha Phanxicô ở Lwow, Ba Lan, gần nơi sinh trưởng, và lúc ấy mới 16 tuổi. Mặc dù sau này ngài đậu bằng tiến sĩ về triết học và thần học, nhưng ngài rất yêu thích khoa học, có lần ngài phác họa cả một phi thuyền không gian.
Sau khi thụ phong linh mục lúc 24 tuổi, ngài nhận thấy sự thờ ơ tôn giáo là căn bệnh nguy hiểm vào thời ấy. Nhiệm vụ của ngài là phải chiến đấu chống với căn bệnh này. Ngài sáng lập tổ chức Ðạo Binh của Ðức Vô Nhiễm mà mục đích là chống lại sự dữ qua đời sống tốt lành, siêng năng cầu nguyện, làm việc và chịu đau khổ. Ngài phát hành tờ Hiệp Sĩ của Ðức Vô Nhiễm, được đặt dưới sự phù hộ của Ðức Maria để rao giảng Phúc Âm cho mọi dân tộc. Ðể thực hiện công việc ấn loát, ngài thành lập "Thành Phố của Ðức Vô Nhiễm" - Niepolalanow -- mà trong đó có đến 700 tu sĩ Phanxicô làm việc. Sau này, ngài thành lập một thành phố khác ở Nagasaki, Nhật Bản. Cả tổ chức Ðạo Binh và tờ nguyệt san có đến 1 triệu hội viên cũng như độc giả. Tình yêu Thiên Chúa của ngài được thể hiện hằng ngày qua sự sùng kính Ðức Maria.
Năm 1939, Ðức Quốc Xã xâm lăng Ba Lan. Thành phố Niepolalanow bị dội bom. Cha Kolbe và các tu sĩ Phanxicô bị bắt, nhưng sau đó chưa đầy ba tháng, tất cả được trả tự do, vào đúng ngày lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Vào năm 1941, ngài bị bắt một lần nữa. Mục đích của Ðức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz. 
Vào ngày 31 tháng Bảy 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ huy trại bắt 10 người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. "Tên này." "Tên kia." Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt vọng.
Trong khi 10 người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số 16670 bước ra khỏi hàng. 
"Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ con."
Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng.
"Mày là ai?"
"Là một linh mục." Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng.
Và Cha Kolbe được thế chỗ cho Trung Sĩ Francis Gajowniczek.
Trong "hầm tử thần" tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân hát thánh ca. Vào ngày lễ Ðức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng Tám) chỉ còn bốn tù nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người khác.
Cha được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh năm 1982.
Ước mơ của Thánh M.Kolbe.

Lời Bàn

Cái chết của Cha Kolbe không phải là một hành động anh hùng bất chợt, bốc đồng vào giây phút cuối. Cả cuộc đời ngài đã chuẩn bị cho giây phút đó. Sự thánh thiện của ngài được thể hiện qua niềm khát khao muốn hoán cải cả thế giới mà động lực là tình yêu của ngài dành cho Ðức Mẹ Vô Nhiễm.

Lời Trích

"Hãy can đảm lên các con. Các con không thấy chúng ta đang trên đường thi hành sứ vụ hay sao? Chúng ta phải trả một giá quá rẻ. Thật may mắn biết chừng nào! Ðiều bây giờ chúng ta phải làm là chú tâm cầu nguyện để chiếm đoạt càng nhiều linh hồn càng tốt. Và sau đó, chúng ta sẽ thưa với Ðức Trinh Nữ là chúng ta rất mãn nguyện để ngài muốn làm gì với chúng ta tùy ý" (Lời Thánh Maximilian Mary Kolbe trong lần bị bắt đầu tiên).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét