Trang

Thứ Bảy, 4 tháng 8, 2012

05-08-2012 : CHÚA NHẬT XVIII MÙA THƯỜNG NIÊN năm B


CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN năm B
Cung Hieán Ñeàn Thôø Ñöùc Baø Caû
 

BÀI ĐỌC I: Xh 16, 2-4. 12-15

"Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, toàn thể cộng đoàn con cái Israel kêu trách Môsê và Aaron, họ nói với hai ông rằng: "Thà chúng tôi chết trong đất Ai-cập do tay Chúa, khi chúng tôi ngồi kề bên nồi thịt và ăn no nê. Tại sao các ông dẫn chúng tôi lên sa mạc này, để cả lũ phải chết đói như vầy?"
Chúa liền phán cùng Môsê rằng: "Đây Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa: dân chúng phải đi lượm bánh ăn mỗi ngày, để Ta thử coi dân có tuân giữ lề luật của Ta hay không. Ta đã nghe tiếng kêu trách của con cái Israel: ngươi hãy nói với họ rằng: 'Chiều nay các ngươi sẽ ăn thịt, và sáng mai sẽ ăn bánh no nê, như thế các ngươi sẽ biết rằng Ta là Thiên Chúa các ngươi'".
Chiều hôm ấy, có chim cút bay tới che rợp các trại, và sáng hôm sau có sương sa xuống quanh trại. Tới lúc sương tan trên mặt đất, thì thấy có vật gì nho nhỏ tròn tròn như hột sương đông đặc trên mặt đất. Con cái Israel thấy vậy, liền hỏi nhau rằng: "Man-hu", có nghĩa là: "Cái gì vậy?" vì họ không biết là thứ gì. Môsê liền nói với họ: "Đó là bánh do Chúa ban cho anh em ăn".
Đó là lời Chúa.
Xuất Hành 16,12-15


ĐÁP CA: Tv 77, 3 và 4bc. 23-24. 25 và 54

Đáp: Chúa đã ban cho họ được bánh bởi trời (c. 24b).
Xướng: 1) Điều mà chúng tôi đã nghe, đã biết mà tổ tiên đã thuật lại cho chúng tôi hay, chúng tôi sẽ kể lại cho thế hệ tương lai: đó là những lời khen ngợi và quyền năng của Chúa. - Đáp.
2) Nhưng Người đã ra lệnh cho ngàn mây trên cõi cao xanh, và Người đã mở rộng các cửa trời. Người đã làm mưa man-na xuống để họ ăn, và Người đã ban cho họ được bánh bởi trời. - Đáp.
3) Con người được ăn bánh của những bậc hùng anh; Người ban cho họ lương thực ăn tới no nê. Người đưa họ vào nơi thánh địa của Người, tới miền núi non mà tay hữu Người tậu sắm. - Đáp.

BÀI ĐỌC II: Ep 4, 17. 20-24
Thánh Phao-lô


"Hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, tôi nói với anh em điều này, và chứng thực trong Chúa là anh em chớ ăn ở như Dân Ngoại ăn ở, chiều theo sự giả trá của tâm tư mình. Phần anh em, anh em không hề học biết Đức Kitô như thế đâu, nhưng nếu anh em đã nghe biết Người và đã được thụ giáo trong Người, như sự chân thật trong Đức Giêsu dạy, là anh em hãy khử trừ lối sống xưa kia, hãy lột bỏ con người cũ, đã bị hư theo những đam mê lầm lạc. Anh em hãy trở nên mới trong lòng trí anh em, hãy mặc lấy người mới đã được tác thành theo thánh ý Chúa trong sự công chính và thánh thiện xứng với sự thật.
Đó là lời Chúa.

ALLELUIA:
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời Con Chúa. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 6, 24-35


"Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền và đến Caphar-naum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giê-su đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm Ta, không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống muôn đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu".
Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Đây là công việc của Thiên Chúa là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến".
Họ thưa Chúa Giêsu: "Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã chép rằng: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời". Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế gian".
Họ liền thưa Người rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi". Chúa Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ".
 Đó là lời Chúa.

LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chúa Nhật 18 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Exo 16:2-4, 12-15; Eph 4:17, 20-24; Jn 6:24-35.


GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:

Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát.

            Cám dỗ về bánh ăn luôn là một diệu kế ma quỉ dùng để cám dỗ con người. Chúng đã từng dùng để cám dỗ Chúa Giêsu, khi Ngài ăn chay 40 ngày trong sa mạc: "Hãy biến những hòn đá thành của ăn." Chúa trả lời: "Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng còn bởi mọi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra." Chúa muốn con người nhận ra chân lý: "Bánh cần thiết, nhưng không phải tất cả." Nếu con người chú trọng đến bánh quá nhiều, con người sẽ phát sinh nhiều bệnh: cả phần hồn lẫn phần xác.

            Các Bài Đọc hôm nay muốn nêu bật hai thực tại: lương thực mau hư nát và lương thực trường tồn. Trong Bài Đọc I, con cái Israel kêu trách Thiên Chúa vì họ bị đói và khát trong sa mạc. Thiên Chúa cho họ có manna từ trời rơi xuống ban sáng, và có thịt chim cút lúc ban chiều. Họ có thể ăn uống thỏa thuê; nhưng không được họ tích trữ. Ngài truyền chỉ lấy lương thực đủ cho ngày đó; nếu tham lam tích trữ, manna sẽ hư hại hôm sau. Trong Bài Đọc II, thánh Phaolô phân biệt hai lối sống: Dân Ngoại sống theo tư tưởng phù phiếm: họ chỉ biết ra công làm việc để có của ăn hư nát và hưởng thụ; ngược lại, các tín hữu phải sống theo Thánh Thần và tuân theo những lời chỉ dạy của Đức Kitô, để có lương thực trường tồn. Trong Phúc Âm, dân chúng đi kiếm Đức Kitô sau khi đã được Ngài làm phép lạ cho ăn uống thỏa thuê. Chúa Giêsu biết rõ họ tìm kiếm Ngài chỉ vì lý do đó; nên Ngài khuyên họ: "Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh."



 KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:  

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa đã cho dân có bánh và thịt trong sa mạc.            

            1.1/ Con cái Israel kêu trách Thiên Chúa và Moses: Trong sa mạc, toàn thể cộng đồng con cái Israel kêu trách ông Moses và ông Aaron. Con cái Israel nói với các ông: "Phải chi chúng tôi chết bởi tay Đức Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Nhưng không, các ông lại đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc này, để bắt chúng tôi phải chết đói cả lũ ở đây!" Nhiều người cho con cái Israel có lý do để than phiền, vì nếu phải "chết đói" trong sa mạc thì ở lại Ai-cập để được "chết no" còn sướng hơn. Nhưng sự thực là con cái Israel đã không phải chết đói, vì nếu Thiên Chúa đã có kế hoạch đưa dân ra khỏi Ai-cập để vào Đất Hứa, làm sao Ngài có thể để dân chết đói dọc đường được! Những lời than phiền này biểu tỏ:

            (1) Con cái Israel không có đức tin mạnh đủ vào Thiên Chúa: Họ vừa mới chứng kiến biến cố Thiên Chúa đưa toàn dân qua Biển Đỏ ráo chân; trong khi quân đội Pharao bị nhận chìm trong Biển Đỏ, và uy quyền Thiên Chúa bày tỏ qua 7 thiên tai. Tại sao họ không cầu xin Thiên Chúa ban của ăn, mà lại buông những lời vô ơn bạc nghĩa như thế?

            (2) Con cái Israel quí trọng của ăn hơn những giá trị tinh thần: Làm nô lệ cho Pharao là một cực hình; vì chính họ đã từng kêu than lên Thiên Chúa. Tại sao giờ đây họ đã được tự do rồi, lại muốn trở lại kiếp nô lệ ngày xưa để có thịt và bánh ăn thỏa thuê? Đây là một kinh nghiệm quan trọng cho chúng ta học hỏi: lòng ham muốn của ăn có thể làm lu mờ những giá trị tinh thần.

            1.2/ Thiên Chúa cho dân ăn manna và chim cút trong sa mạc:

            (1) Cho dân ăn manna: Đức Chúa phán với ông Moses: "Này, Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không." Sự thể đã xảy ra như lời Chúa hứa: Mỗi buổi sáng, có lớp sương phủ quanh trại; lúc sương tan đi thì trên mặt hoang địa, có một thứ gì nho nhỏ mịn màng, nho nhỏ như sương muối phủ mặt đất. Khi con cái Israel thấy thế, họ liền hỏi nhau: "Manhu?" Nghĩa là: "Cái gì đây?" Vì họ không biết đó là cái gì. Ông Moses bảo họ: "Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn!"

            (2) Cho dân ăn thịt chim cút: Con cái Israel không chỉ muốn ăn bánh để sống, nhưng còn ao ước được ăn ngon. Họ nói: chúng tôi đã quá nhàm chán thức ăn vô vị này (manna); và họ nhớ tới những cao lương mỹ vị khi còn ở Ai-cập. Thiên Chúa thấu tỏ lòng họ, nên Ngài lại nói với ông Moses: "Ta đã nghe tiếng con cái Israel kêu trách. Vậy, ngươi hãy bảo chúng rằng: Vào buổi chiều, các ngươi sẽ được ăn thịt, và ban sáng, các ngươi sẽ được ăn bánh thoả thuê, và các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi." Sự thể đã xảy ra như lời Chúa hứa: Buổi chiều, chim cút bay đến rợp cả trại.



2/ Bài đọc II: Anh em phải để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em.

            2.1/ Lối sống theo Dân Ngoại: Ephesô là một thành phố của Hy-lạp, các tín hữu Ephesô hầu hết là những người Dân Ngoại, và đã được Phaolô rao giảng Tin Mừng và nhận vào Đạo Thánh của Đức Kitô. Giống như con cái Israel, các tín hữu Ephesô luôn bị cám dỗ để trở về với nếp sống cũ trước khi được Rửa Tội. Thánh Phaolô nhận ra khuynh hướng này; vì thế, ngài viết thư khuyên họ: "Đây là điều tôi nói với anh em, và có Chúa chứng giám, tôi khuyên anh em: đừng ăn ở như Dân Ngoại nữa, vì họ sống theo những tư tưởng phù phiếm của họ."

            Lối sống theo Dân Ngoại mà thánh Phaolô đề cập đến ở đây bao gồm rất nhiều tật xấu, dựa trên những Thư của Ngài, chúng ta có thể liệt kê các tội như: thờ bụt thần, không tin tưởng nơi Thiên Chúa và sự sống đời sau, hưởng thụ vật chất và khoái lạc, loạn luân, ham quyền hành, và ghen tương chia rẽ ...

            2.2/ Lối sống theo Thánh Thần: Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu Ephesô hai điều quan trọng:

            (1) Sống theo sự thật của Đức Kitô: "Còn anh em, anh em đã chẳng học biết về Đức Kitô như vậy đâu; anh em đã được nghe nói về Đức Giêsu và được dạy dỗ theo tinh thần của Người, đúng như sự thật ở nơi Đức Giêsu. Vì thế, anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối."

            Tin thế nào, phải sống như thế. Nếu tin một đàng và sống một nẻo, đức tin không sinh lợi ích gì cho các tín hữu; họ chẳng khác gì những người không tin.

            (2) Sống theo sự hướng dẫn của Thánh Thần: "Anh em phải để Thánh Thần đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện."

            Chúa Thánh Thần mà các tín hữu đã lãnh nhận Ngài khi lãnh nhận Bí-tích Rửa Tội, sẽ soi sáng để họ nhận ra những gì là sự thật mà Đức Kitô đã loan báo; đồng thời, Ngài sẽ ban những ơn thánh đủ để thúc đẩy các tín hữu biết sống theo những gì Đức Kitô đã dạy bảo. Chương 8 của Thư Rôma cho chúng ta một đời sống viên mãn dưới sự hoạt động của Chúa Thánh Thần.



3/ Phúc Âm: Đừng chỉ tìm kiếm những của ăn mau hư nát.

            3.1/ Dân chúng tìm Chúa vì đã được ăn no nê: Trình thuật của Gioan hôm nay tiếp tục trình thuật của tuần trước, khi Chúa Giêsu làm phép lạ nuôi hơn 5,000 người ăn uống no nê từ năm chiếc bánh và hai con cá nhỏ, mà vẫn còn dư 12 thúng đầy những mảnh vụn. Sau đó, họ hợp lại và muốn tôn Chúa Giêsu làm vua; nhưng Chúa Giêsu truyền lệnh cho các tông-đồ qua bờ bên kia trước, còn Ngài lên núi cầu nguyện một mình. Đêm đó, biển động mạnh làm thuyền các tông-đồ gần chìm. Chúa Giêsu từ trên núi đi trên mặt biển đến để trấn an các ông, và làm cho sóng yên biển lặng. Thuyền của các tông-đồ ghé bến Capernaum bình an.

            Phần dân chúng, khi họ thấy Đức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Capernaum tìm Người. Khi gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?" Đức Giêsu đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê."

            Chúa Giêsu thấu hiểu dụng ý của dân chúng, như ma quỉ đã từng cám dỗ Ngài trong sa mạc: Họ sẽ tôn Ngài làm vua, nếu Ngài tiếp tục làm phép lạ cho họ có của ăn, mà không cần phải vất vả làm việc!

            3.2/ Chúa Giêsu chỉ dạy cho dân chúng tìm lương thực tồn tại muôn đời: Chúa từ chối dụng ý của dân chúng, như Chúa đã từ chối thẳng thừng cám dỗ của ma quỉ trong sa mạc. Tuy nhiên, Chúa vẫn kiên nhẫn dạy dỗ và cắt nghĩa cho dân chúng thấy những giá trị tốt lành và vĩnh cửu hơn là lương thực vật chất: "Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận." Lương thực mau hư nát ai cũng có thể hiểu được: ngoài đồ ăn thức uống, còn có thể hiểu là những giá trị chóng qua của thế gian như: tiền bạc, của cải, thú vui, danh vọng, chức quyền ... Về lương thực mang lại giá trị vĩnh cửu, chúng ta phải học hỏi hết chương 6 của Gioan trong ba tuần kế tiếp. Một cách tổng quát, Chúa Giêsu muốn đề cập đến hai điều căn bản:

            (1) Thánh ý Thiên Chúa: Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến."

            Điều nền tảng nhất trong cuộc đời là tìm ra và thi hành thánh ý của Thiên Chúa cho đến hơi thở cuối cùng, như Chúa Giêsu đã làm. Theo Kế Họach Cứu Độ, Đức Kitô là Con Thiên Chúa, được sai đến để cứu chuộc con người. Vì thế, theo thánh ý Thiên Chúa, con người phải tin vào Ngài để được hưởng ơn cứu độ. Việc tin vào Đức Kitô không đơn thuần là thái độ của trí khôn trong một lúc; nhưng là tin và thực hành tất cả những gì Đức Kitô đã mặc khải và truyền dạy. Hơn nữa, con người còn phải sẵn sàng chấp nhận gian khổ để làm chứng cho Ngài.

            (2) Bí-tích Thánh Thể: Không phải chuyện tình cờ mà Gioan đề cập đến biến cố Thiên Chúa cho con cái Israel ăn manna trong sa mạc, và biến cố Chúa Giêsu làm phép lạ "Bánh hóa nhiều." Thánh Gioan muốn dẫn chúng ta đến sự quan trọng của Bí-tích Thánh Thể khi Chúa Giêsu chuyển đề và trả lời người Do-thái như sau: "Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Moses đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian." Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy." Đức Giêsu bảo họ: "Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!" Chúng ta sẽ nói về BT Thánh Thể trong ba tuần tới.



ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            - Chúng ta cần khôn ngoan để phân biệt lương thực mau hư nát và lương thực trường tồn; để rồi biết dành thời gian tương xứng, và ra sức làm việc cho lương thực trường tồn.

            - Trong sự quan phòng khôn ngoan của Thiên Chúa, Ngài có dư uy quyền để ban cho chúng ta lương thực hàng ngày. Chúng ta có dám tin tưởng điều đó không?

            - Một trong những thói xấu của con người là thói quen đầu cơ tích trữ để người khác phải đói khát. Chúa dạy chúng ta xin cho đủ lương thực hàng ngày; chứ không xin cho có đủ lương thực hay có tiền đủ để mua lương thực cho cả một đời!

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP

****************

Chúa Nhật tuần 18 thường niên, năm B
Suy niệm:Với phép lạ bánh hóa nhiều, Ðức Giêsu làm để nuôi đám dân đông đúc. Hôm sau họ lại đi tìm Ngài. Nhân cơ hội đó, Ðức Giêsu dạy cho họ ý nghĩa của việc tìm kiếm đích thực: đừng làm việc vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực cho hạnh phúc trường sinh.
Cuộc sống của chúng ta hôm nay, chúng ta cũng bôn ba vất vả về nhiều chuyện: Hết lo cơm ăn, lo áo mặc, lại lo cho có tiện nghi sang trọng. Chúng ta dành hết thời giờ sức lực tìm kiếm cuộc sống hôm nay, thế nhưng cuộc sống viên mãn mai sau thế nào, chúng ta lại chẳng mấy quan tâm.
Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải tìm kiếm điều gì mới là chính đáng. 
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con cũng thưa lên với Chúa như đám dân chúng xưa: Chúng con phải làm gì để thực hiện những gì Thiên Chúa muốn?
Cuộc sống của chúng con hôm nay, tất cả đều là ơn lành của Thiên Chúa. Xin cho chúng con trong khi hưởng dùng lương thực đời này, biết tìm kiếm một lương thực vĩnh viễn. Và chỉ khi tìm thấy nguồn hạnh phúc muôn đời, chúng con mới được no thỏa. Chúng con có thể nói như thánh Augustinô: Hồn con hằng khát khao tìm kiếm, cho tới khi nghỉ an trong Chúa. Amen.
Ghi nhớ : "Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".


05/08/12 CHÚA NHẬT TUẦN 18 TN – B
Ga 6,24-35

MUỐN TRƯỜNG SINH BẤT TỬ

“Chính Tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ.” (Ga 6,35)

Suy niệm: Trong truyện Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không nhờ ăn trái đào tiên của bà Tây Vương Mẫu và linh đơn của Thái Thượng Lão Ông trên thiên đình mà được trường sinh bất tử. Trong kho chuyện thần thoại của Rôma cũng có niềm tin rằng sở dĩ các vị thần bất tử nhờ được nuôi dưỡng bằng một thứ thức ăn kỳ diệu tên là ambrosia và loại thức uống có tên nectar. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói với chúng ta rằng niềm mơ ước bao đời của nhân loại không phải là chuyện thần thoại nữa, mà đã thành sự thật: Ngài đến để ban tặng cho con người thứ thức ăn và thức uống kỳ diệu làm cho nhân loại được trường sinh bất tử và thứ lương thực kỳ diệu ấy chính là Thịt và Máu Thánh Ngài. Dĩ nhiên, đó không phải là sự sống tự nhiên được kéo dài, nhưng là một sự sống mới, hoàn toàn khác, đó là chính sự sống của Thiên Chúa thông ban cho chúng ta.

Mời Bạn: Nhớ rằng Đức Giêsu chứng minh Lời mình bằng cách ngủ một giấc ngủ sự chết, để rồi đến ngày thứ ba Ngài sống lại vinh hiển và sống mãi. Khi bạn lãnh nhận Thánh Thể là bạn đang lãnh nhận Thân Xác phục sinh ấy.

Chia sẻ: Tại sao tôi vẫn thường xuyên lãnh nhận Thánh Thể, nhưng đời tôi chưa có những thay đổi tích cực?

Sống Lời Chúa: Rước Thánh Thể mỗi tuần - và nếu có thể, mỗi ngày - và sốt sắng cám ơn sau khi rước Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, chúng con cảm tạ Chúa đã tự hạ trở thành lương thực đem lại cho chúng con sự trường sinh bất tử. Xin cho chúng con có tâm hồn trong sạch và thái độ trân trọng khi rước Chúa. Amen.



Chúa Nhật 18 Thường Niên Năm B
Câu Truyện Manna, Bánh Bởi Trời
(Xuất hành 16,2-4.12-15; Thư Êphêsô 4,17.20-24; Tin Mừng Yoan 6,24-35)

Suy Niệm:
Chúa Nhật XVIII Thường Niên Năm B
Xuất hành 16,2-4.12-15; Thư Êphêsô 4,17.20-24; Tin Mừng Yoan 6,24-35
Lời Chúa hôm nay tiếp nối giáo huấn Chúa nhật trước. Chúng ta hy vọng sẽ lĩnh hội được nhiều tư tưởng thâm thúy hơn và nhiều ơn cao cả hơn. Cho được như vậy, chúng ta phải cố gắng tìm hiểu cặn kẽ các bài Kinh Thánh vừa nghe đọc.

1. Một Câu Truyện Ðược Nghiền Ngẫm Lâu Năm
Bài đọc I thuật lại một câu truyện đã xảy ra ở thời Xuất hành, tức là vào buổi dân Chúa mới được ra khỏi Aicập, khoảng năm 1250 trước Chúa Yêsu giáng sinh, cách chúng ta chừng 32 thế kỷ rưỡi. Chúng ta cứ tưởng tượng đoàn người Dothái bấy giờ đang đi theo Môsê nơi hoang địa. Cơm ăn nước uống còn thiếu, huống nữa là những "văn phòng phẩm" để ghi chép các việc xảy ra hằng ngày. Chắc chắn ở thời bấy giờ chẳng ai đã viết nhật ký trên giấy trắng mực đen. Nhưng trái lại, trí nhớ của con người khi ấy lại dính kỹ khác thường. Người ta nhớ hết những gì xảy ra, rồi truyền lại cho hậu thế, từ cha tới con, tới cháu, tới chắt... Phải đợi đến nhiều thế kỷ sau, những truyện ngày xưa ấy mới được viết ra trên các thứ "giấy" của thời bấy giờ. Riêng trong dân Dothái, các tác giả lại không phải là những văn sĩ thường. Họ là những con người đạo đức được Thiên Chúa thúc đẩy và trợ giúp viết lại truyện xưa nhưng để "dạy đạo". Các sự việc, như thế đã được suy nghĩ lại rất nhiều. Nói rằng các tác giả đã mặc cho chúng những bộ áo màu sắc tôn giáo, cũng chưa đủ. Phải nói rằng họ đã dùng ánh sáng đức tin và ơn soi sáng của Thánh Thần để nhìn và đọc lại các biến cố ngày trước, hầu nhận ra được sự can thiệp và bàn tay hướng dẫn lịch sử của Thiên Chúa ở trong các biến cố kia. Do đó, các câu truyện viết về những thời đại xa xưa trong Cựu Ước đều có mục đích huấn giáo hơn là kể truyện.
Câu truyện Manna hôm nay cũng vậy. Nó thuật lại những sự việc xảy ra thời xưa, nhưng đã được suy nghĩ trong nhiều thế kỷ và được viết ra để giáo huấn. Ai không hiểu như vậy sẽ đọc đoạn văn này theo nghĩa đen và không thấy nó nói gì với mình hơn điều này là ngày xưa đã có một chuyện như thế. Nhiều học giả không có đức tin, khi đọc trang Kinh Thánh này, không hiểu theo nghĩa đen, nhưng cũng không thấy nó nói gì cho đời sống của mình. Họ sẽ giải thích rằng: đoàn người Dothái bấy giờ vừa ra khỏi đất Aicập màu mỡ và đang tiến về "Ðất Hứa" chảy sữa và mật. Ở giữa sa mạc hoang vu, họ thiếu lương ăn nước uống. Họ kêu trách Môsê và ông này giới thiệu với họ một thứ phấn cây ăn được để cầm cự cho đến khi ra khỏi sa mạc. Nhưng nếu dừng lại ở chỗ giải thích như vậy, người ta chưa đọc Thánh Kinh, mà mới chỉ đọc truyện. Thánh Kinh là Lời Chúa. Khi đọc Thánh Kinh, người ta phải tự hỏi Chúa muốn nói gì đây? Hay ít ra, tác giả thánh muốn thông đạt tư tưởng nào?

Chúng ta có thể đồng ý với các học giả mà quyết rằng thứ "Manna" mà dân Dothái ăn trong sa mạc là loại "lương thực bất đắc dĩ" cho kẻ chẳng tìm được thức ăn gì khác. Chính sách Dân số (11,4-6; 21,5) cũng coi khinh thứ thực phẩm này. Nhưng điều cốt yếu không ở tại giá trị của Manna. Chính lúc bấy giờ câu truyện đã quan trọng ở điểm khác. Và sau này giá trị của nó còn xê dịch thêm nữa.
Bấy giờ, câu truyện chú ý đến việc dân Dothái kêu trách Môsê và Aaron, tức là kêu trách Thiên Chúa. Có lần họ kêu trách như vậy, Người để rắn độc ra cắn nhiều người. Lần này, Người không phạt, nhưng lại "thử thách" họ. Người cho "mưa" thứ phấn cây ấy xuống và Môsê giới thiệu cho họ đó là thực phẩm mới Chúa ban. Nó chẳng ngon lắm, nhưng ăn được. Chúa đã cho họ ăn như thế để rồi xem họ có trung thành với Chúa không?
Có lẽ thoạt đầu chỉ có như vậy. Nhưng về sau qua nhiều thế kỷ suy nghĩ, trọng tâm của câu truyện xê dịch khác nhiều. Manna trở thành một thực phẩm hi hữu từ trời mưa xuống. Nó là tặng phẩm của Cha nhân ái ban cho thời đại vàng son vì thời gian sống nơi sa mạc gần gũi Chúa và được Chúa dẫn dắt không là vàng son sánh với các thời đại chung chạ với dân ngoại và trở thành dân lưu lạc sao?
Chúng ta cần nhớ lại bối cảnh xuất xứ của bản văn hôm nay để hiểu ý của tác giả. Ông sống nhiều thế kỷ sau biến cố Xuất hành. Ông là người đạo đức thấy dân Chúa càng ngày càng tội lỗi. Vì thế đối với ông, thời Chúa làm cho dân những kỳ công nơi Aicập và trong sa mạc là thời đại vàng son. Tiếng "Manna" thoát ra từ miệng dân khi thấy vật lạ, chỉ có nghiã là: "cái gì vậy". Ðối với ông, nó không còn là một dấu hỏi hay là một giọng nghi nan nữa, mà đã trở thành một ngạc nhiên, ngưỡng mộ: "cái gì (lạ) như vậy!".
Ông kinh ngạc trước lòng tốt và tặng phẩm của Chúa bao nhiêu thì lại càng rầu lòng vì thái độ bất trung, bất hiếu của dân. Ông nhấn mạnh đến ý nghĩa "thử thách" của thứ lương thực mới này. Không những nó được ban để xem dân có biết mở mắt ra mà tin tưởng và trung thành với Chúa không; mà Chúa còn cho kèm nhiều lệnh truyền: không được lấy quá mức ăn một ngày; riêng ngày áp hưu lễ được lấy gấp đôi để ngày Sabat nghỉ ngơi hoàn toàn hầu bắt chước Chúa. Những lệnh này suy ra nữa sẽ thấy tác giả muốn ngụ ý nói rằng: thời gian sa mạc là thời đại lý tưởng; ai ai cũng được nuôi dưỡng theo nhu cầu; nhưng không ai hơn ai và chẳng ai có sở hữu gì; mọi người sống "hằng ngày dùng đủ", hoàn toàn tùy thuộc ơn Chúa và không làm giàu làm có; người ta lại có nếp sống theo thời khóa biểu của Thiên Chúa.
Suy nghĩ như vậy thì đã đi xa cốt truyện lúc đầu. Nhưng đó mới là tư tưởng của tác giả Thánh Kinh và là ý Chúa muốn nói với chúng ta. Nó dẫn chúng ta vào bài Tin Mừng hôm nay, vì người Dothái, như ta sẽ thấy, có tư tưởng như thế khi họ gợi lại câu truyện Manna.

2. Một Cuộc Ðối Thoại Gay Go
Theo tác giả Yoan, thì sau khi Ðức Yêsu rút lui lên núi để tránh việc người ta tôn Người làm vua, các môn đệ đã lên thuyền trở về Capharnaum. Nhưng dùng quyền năng, Người cũng đã cùng cập bến với họ. Hôm sau, dân chúng mới về.
Gặp Người, họ muốn hỏi Người đã trở lại Capharnaum bằng cách nào? Nhưng Người đã đọc được tâm tư của họ là lại muốn được nuôi ăn như hôm trước. Người liền dạy bảo: "Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời". Có thể nói Người đã chán ngấy với thái độ của người ta chỉ muốn lợi dụng quyền năng của Người để được những sự ở đời này� đang khi Người đã giao ước cho họ kho tàng Nước Trời là sự sống đời đời. Thành ra cuộc đời... vô cùng khó khăn.
Vừa nghe Người nói phải "lao công", họ đã nghĩ ngay đến "các việc đạo đức" mà thường tiên tri nào mới cũng đề ra để hứa hẹn hạnh phúc cho những ai thi hành. Cũng có thể họ chờ đợi Người phát biểu ý kiến về các việc đạo đức mà Luật dạy phải làm. Những thứ việc này nhiều lắm, làm không hết; nên người ta thắc mắc không biết phải làm việc nào và có thể bỏ việc nào? Nhưng Ðức Yêsu không phải là luật sĩ để có ý kiến về những vấn đề tỉ mỉ này. Người cũng không phải là tiên tri như mọi tiên tri khác. Người là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến và niêm ấn bằng uy quyền trong lời nói và việc làm. Người đã giới thiệu mình như thế mà người ta vẫn không biết mở mắt ra mà nhìn. Họ cứ hỏi những câu trên để lôi Người xuống ngang hàng với họ và đáp ứng các nhu cầu vật chất của họ. Nhưng Người không thể chiều theo dục vọng của người ta. Người như khẳng định: không có vấn đề nhiều việc đạo đức mà chỉ có một: đó là tin vào Ðấng mà Thiên Chúa sai đến.
Lời tuyên bố rõ rệt quá. Người ta hiểu: Ðức Yêsu bảo họ phải tin vào Người là Ðấng Thiên Sai. Những Ngài đã làm gì để chúng tôi tin? Họ nghĩ như vậy. Tác giả Yoan diễn tả ý họ một cách hơi khác. Ông vốn có óc phụng vụ và thiên về mầu nhiệm, như chúng ta đã có lần nói. Ông đặt những từ ngữ chuyên môn của mầu nhiệm đức tin và bí tích trên môi các diễn viên. Ông viết: họ nói với Ðức Yêsu: "Vậy thì ông làm dấu gì để chúng tôi thấy mà tin ông?". Ðối với Yoan "dấu" là những việc để khơi lên niềm tin và đòi được chấp nhận. Còn đối với người Dothái, những việc khiến họ tin phải vĩ đại kỳ diệu hơn cả những kỳ công mà Thiên Chúa đã làm trong quá khứ. Chẳng hạn Môsê đã cho dân được Manna thì vị Cứu thế phải cho dân được thứ lương thực mỹ vị và lâu dài hơn... một lần hóa bánh ra nhiều chưa bảo đảm. Hơn nữa họ còn lý tưởng hóa Manna theo các tác giả thời sau (như Tv 105, 40; 78, 24-25; Ne 9, 15.20; Kng 16,20-21) chứ không như tác giả sách Dân số (11,4-6; 21,5). Dù đã bị Ðức Yêsu khước từ cử chỉ của họ muốn tôn Người làm vua và dù đã qua một đêm suy nghĩ, họ vẫn còn mơ ước một vị tiên tri hoàn toàn với những vinh quang của trần gian này.
Một lần nữa, Ðức Yêsu lại phủ nhận lập trường của họ. Ngài vạch cho họ thấy nó sai từ căn bản. Họ nhắc lại truyện Manna, nhưng họ đã không đọc được ý của tác giả thánh trong câu truyện ấy như chúng ta đã trình bày ở trên. Họ chỉ giữ lại cái cốt truyện vật chất; còn tinh thần và ý nghĩa đạo đức sâu xa của nó thì họ bỏ qua. Hơn nữa họ còn "vật chất hóa" lời Thánh Kinh. Thánh vịnh nói: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời". Câu này họ hiểu về Môsê đã ban Manna cho họ. Ðức Yêsu bảo không phải. Môsê không ban Manna, nhưng chính Thiên Chúa đã ban. Còn nói gì đến việc ông ban bánh bởi trời! Làm sao ông có thể làm được việc đó? Chính Chúa Cha đang ban bánh ấy cho họ đây là chính Người đang nói với họ những lời hằng sống.
Chúng ta có thể chắc chắn rằng: các người Dothái khi nghe nói như vậy đã chẳng hiểu gì. Vì thế Ðức Yêsu còn phải giải thích nhiều nữa như chúng ta sẽ thấy trong Chúa nhật sau.
Hôm nay phụng vụ muốn chúng ta dừng lại ở điểm này để thấy cuộc đối thoại giữa Ðức Yêsu và người Dothái đã tỏ ra gay go. Một bên quá siêu nhiên, một bên quá vật chất. Cũng một câu truyện Manna, người Dothái chỉ nhìn thấy khía cạnh vụ lợi và thỏa mãn xác thịt. Còn Ðức Yêsu và các tác giả thánh đã nhìn thấy như "dấu" chỉ về niềm tin. Manna gợi lên bánh bởi trời; chứ bánh bởi trời không phải là Manna. Người ta hãy khao khát lương thực linh thiêng ấy, chứ đừng uốn những lời Kinh Thánh trở về thứ thực phẩm tạm bợ của thời gian lữ thứ...

3. Một Cuộc Chuyển Biến Sâu Sắc
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay khuyên tín hữu Ephêsô đừng trở về nếp sống cũ của thời trước khi theo đạo, nhưng hãy mặc lấy con người mới đã được dựng nên trong sự công chính và thánh thiện, bắt nguồn trong sự thật. Lời khuyên ấy còn hợp với chúng ta. Chúng ta hết thảy đã sinh ra trong tội lỗi nhưng đã được tái sinh trong phép Rửa. Nếp sống cũ với con người cũ nơi chúng ta là các khuynh hướng và dục vọng tội lỗi mà đôi khi chúng ta còn cảm thấy mãnh liệt. Còn con người mới với nếp sống mới là sự thánh thiện và các khuynh hướng tốt lành của Chúa đã dựng nên trong chúng ta ngày rửa tội để sống theo tinh thần của Ðức Kitô.
Nếu người Dothái xưa thường có khuynh hướng vật chất hóa đến cả lời Thánh Kinh và chỉ muốn chờ đợi một vị cứu tinh để thỏa mãn những nhu cầu trần thế; nếu thánh Phaolô đã phải cảnh giác giáo dân E�phêsô đừng trở về với nếp sống của dân ngoại, thì chúng ta cũng nên đề phòng sự vùng dậy của con người cũ. Và cho được như vậy, thánh Phaolô nói chúng ta phải nhớ lại đã được biết Ðức Kitô như thế nào. Cho chắc hơn phải nhìn Ðức Kitô nơi chính Ðức Yêsu.
Tại sao vậy?
Vì người Dothái đã chờ đợi Ðức Kitô, nhưng không muốn nhận Người là chính Ðức Yêsu. Họ đòi Ðức Kitô phải thể khác, vì Ðức Yêsu không chịu đáp lại các nhu cầu thực tiễn của họ. Và ở thời thánh Phaolô, đã bắt đầu có những kẻ xuyên tạc những điều về Ðức Yêsu để, theo ý họ, Người hợp với quan niệm của họ về Ðức Kitô hơn. Nghĩa là nhiều người muốn tôn thờ Ðức Kitô và xưng mình là Kitô hữu, nhưng lại không muốn Người chỉ như Ðức Yêsu đã tử nạn và phục sinh. Họ muốn và ao ước Người "khác" một chút... để cuối cùng đời sống của họ được "lợi" hơn. Họ không muốn lột xác để biến mình nên Kitô hữu tốt hơn, nhưng lại ao ước Kitô giáo đổi đi ít nhiều cho hợp với ước nguyện của họ.
Tâm lý này phát xuất từ con người cũ. Nó đã có nơi người Dothái và Ephêsô. Nó là cám dỗ năng đến với chúng ta. Thánh Phaolô cũng như thánh Yoan và tác giả bài Xuất hành bảo chúng ta phải dẹp đi và mặc lấy con người mới, tâm lý mới, đạo đức mới của Ðức Yêsu Kitô.
Chính Người giờ đây muốn trở nên bánh bởi trời nuôi dưỡng chúng ta cho sự sống muôn đời. Chúng ta hãy rước lễ với niềm tin và lòng mến. Chúng ta tin vào giá trị đường lối Ðức Yêsu đã đi và kêu gọi chúng ta đi vào... Chúng ta nhiệt tình đi vào đường lối đó, đường lối sống theo giáo lý của Chúa và tha thiết phục vụ anh em. Nó đòi hy sinh và có thể thiệt thòi những sự ở đời này; nhưng chấp nhận quảng đại đóng đinh xác thịt vào thánh giá Chúa Yêsu chắc chắn chúng ta sẽ cứu được linh hồn mình và linh hồn anh em. Xin Mình Thánh Chúa là lương thực hành hương về Nước Trời luôn nuôi dưỡng chúng ta.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

BÁNH ĐÍCH THỰC
Suy nim:
Dân chúng vẫn còn sôi nổi sau phép lạ bánh hoá nhiều.
Hôm sau, họ lên thuyền qua bờ bên kia để tìm Ðức Giêsu.
Ðức Giêsu thấy nỗ lực tìm kiếm của họ.
Ngài biết họ tìm Ngài chỉ vì đã được ăn bánh no nê.
Có lẽ họ hy vọng sẽ được những bữa ăn tương tự...
Miếng ăn là nỗi lo của người nghèo vùng Galilê.
Ðó cũng là nỗi lo của hàng tỉ người trên thế giới.
Ðức Giêsu không trách họ về chuyện này.
Ngài chỉ muốn nâng họ lên cao hơn,
bởi lẽ con người không chỉ là thân xác.
Dân chúng vất vả tìm chút lương thực mau qua.
Ðức Giêsu muốn họ đừng quên thứ lương thực thường tồn
nhằm nuôi dưỡng tinh thần và đem lại sự sống vĩnh cửu.
Người dân Galilê chỉ nhớ đến chiếc bánh hôm qua.
Họ bị sa lầy và ngừng lại trong phép lạ.
Họ không thể đi xa hơn và cũng không mơ ước gì hơn.
Con người hôm nay có nét giống đám đông ngày xưa.
Người nghèo thì bị hút vào công việc lam lũ nhọc nhằn,
để thỏa mãn cái đói cấp bách của thân xác.
Người giàu thì mê mải với bao tiện nghi đang mời gọi.
Họ bị ám ảnh và chạy đua với những mặt hàng mới.
Rốt cuộc, kẻ nghèo người giàu đều có nguy cơ như nhau,
đó là đánh mất đi cái đói khát tinh thần,
mãn nguyện với cái bụng no, hay với thứ nữ trang đắt giá.
Thật ra, cũng khó dập tắt nỗi khát khao về Tuyệt Ðối
mà Thiên Chúa đã đặt rất sâu trong lòng người.
Mọi thứ thức ăn trần gian, con người không lấy làm đủ.
Người nghèo không chỉ cần cơm bánh, mà còn cần tình thương.
Người giàu dư cơm bánh, nhưng lại cần lẽ sống.
Không thiếu những bạn trẻ nhà giàu, có học, có tương lai,
nhưng lại thất vọng chán chường, thậm chí rơi vào trụy lạc.
Họ có tất cả, nhưng vẫn thấy thiếu cái gì đó...
Thiếu cái này thì mọi thứ khác trở thành thừa.
Có khi sống sa đọa lại là cách họ biểu lộ
cơn đói khác vô cùng về những điều cao cả.
Ðức Giêsu khơi dậy những khát khao tốt đẹp đang ngủ quên.
Ngài không cho dân chúng thứ manna từ trời rơi xuống,
để mỗi ngày họ phải lượm mà ăn.
Ngài cho họ thứ bánh bởi trời đích thực,
bánh ban sự sống đời đời cho toàn thế giới.
“Xin cho chúng tôi thứ bánh đó luôn luôn”
“Xin ông cho tôi thứ nước ấy” (Ga 4, 15).
Con người vẫn đói khát thức ăn tinh thần.
Cơn đói này còn kinh khủng hơn cả cơn đói thân xác.
Hãy đến với Giêsu! Hãy tin vào Giêsu!
Nếu bạn khao khát Tuyệt Ðối
thì chỉ Tuyệt Ðối mới làm bạn no thỏa.
Tuyệt Ðối đã hiện diện nơi Ðức Giêsu.
Ước chi bạn để cho Ngài nuôi bằng lời giáo huấn,
và tin tưởng dấn thân theo Ngài bằng cả cuộc đời.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa,
những lúc con cảm thấy đói,
xin ban cho con một ai đó đang cần của ăn.

Khi con khát,
xin gởi đến cho con
một ai đó đang cần nước uống.

Khi con lạnh lẽo,
xin gởi đến cho con
một ai đó đang cần được sưởi.

Khi con bị xúc phạm,
xin ban cho con một ai đó đang cần ủi an.

Khi thập giá của con trở nên nặng nề,
xin ban cho con
thập giá của một người khác để cùng chia sẻ.

Khi con túng nghèo,
xin dẫn đến cho con một người thiếu thốn.

Khi con không có thời giờ,
xin ban cho con ai đó để con giúp họ giây lát.

Khi con nản chí,
xin gởi đến cho con một người cần khích lệ.

Khi con chỉ biết nghĩ đến mình,
xin xoay chuyển tư tưởng con
hướng đến tha nhân.
(Trích trong PRIER)

 
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ".
 Hãy tìm lương thực trường sinh
Người ta thường hoan hô lãnh tụ muôn năm, tổng thống muôn năm, chủ tịch muôn năm … Nhưng họ chẳng sống được muôn năm, mà nấm mồ chôn vùi họ thối nát dưới lòng đất. Lãnh tụ nổi tiếng nhất trong loài người muốn sống muôn năm và lo tìm thuốc trường sinh bất tử, có lẽ là Tần thủy Hoàng của nước Tầu, đã sống trước Chúa Giáng sinh hơn 200 năm. Ông tự phong là Nhất Thế, nghĩa là vô địch nhất thế gian này về đức độ hơn cả Tam Hoàng, có công hơn cả Ngũ Đế là những vị vua có công lập quốc, kiến quốc nhất của Trung Hoa. Thủy Hoàng còn muốn được trường sinh trẻ mãi, nên tìm đủ mọi danh y, pháp thuật, bói toán, chỉ dẫn cho uống thuốc, tập luyện và sai phái quần thần đi khắp mọi nơi tìm thuốc trường sinh, với bất cứ giá nào, dù phải vượt biển Đông hão huyền cũng phải đi tìm, dù phải khổ luyện đến chết, vẫn nhắm mắt làm theo. Đồng thời, ông lại lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga, rộng lớn chín dặm vuông vức, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân hà, lấy vàng bạc xây tường và chôn sống hàng trăm cung nữ vây quanh nhà mồ của ông để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta như bảo ông phú hộ rằng : “Đồ ngốc ! nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?” (Lc. 12, 20). Quả thực, Thủy Hoàng chỉ làm vua hơn chục năm và sống hơn năm mươi tuổi. Khi chết, thây ma của ông thối tha ghê tởm đến nỗi phải gánh cá thối đi trước kẻo dân chúng nguyền rủa : “Ác giả ác báo”.
Tin mừng hôm nay cũng cho thấy dân chúng đi tìm Chúa Giêsu để được bánh ăn như hôm qua họ mới được ăn bánh hóa nhiều. Nhưng Chúa đã nhắc nhở họ : “Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông”. Họ tưởng Người sẽ ban cho họ thứ bánh như Môisen đã cho tổ tiên họ ăn man na trong sa mạc suốt thời gian bốn mươi năm về đất hứa. Họ vội vàng xin : “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh đó”. Họ sẽ sống sung sướng biết bao, không phải làm ăn cực khổ.
Trước đó mấy ngày, người phụ nữ Samaria đến giếng Giacóp lấy nước. Chị được gặp Chúa Giêsu. Người cũng nói với chị : “Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa, và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Chị đã mau lẹ xin : “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga. 4, 13-15).
Thời nào con người cũng chỉ biết tham muốn đòi hỏi những của ăn vật chất hay hư nát như vậy. Tần thủy Hoàng, dân Do thái, dân Samari và cả chúng ta nữa : “được voi đòi tiên”, không bao giờ được thỏa mãn. Lòng tham con người không đáy. Ở nước nghèo đòi ăn no mặc ấm, có nhà ở. Ở nước giàu ăn dư thừa lại luôn xuống đường đình công, biểu tình đòi tăng lương, đòi bớt ngày làm việc, từ bảy ngày xuống năm ngày, từ 48 giờ xuống 40 giờ, 30 giờ, còn để giờ đi xả hơi, đi chơi, coi phim, du lịch đua xe, đấu bóng, đấu võ, tới chỗ đánh nhau, chửi nhau, gây rối, rượu chè, cờ bạc, nghiện ma túy, phá hoại, chiến tranh, chém giết lẫn nhau. Nhàn cư vi bất thiện. Không ở đâu trên thế gian làm cho người ta được bằng lòng ! Ở Việt Nam đòi sang Mỹ, ở Mỹ lại đòi về ! Càng giàu càng lắm nhu cầu. Càng nhiều nhu cầu càng khổ vì chẳng bao giờ được thỏa mãn.
Người ta chỉ biết tìm những của hư nát và chết theo của hư nát đó thôi.
Chúa Giêsu thấy con người sống trong cảnh hư nát bi đát tội nghiệp đó, đã kêu gọi ta : “Hãy ra công làm việc của Thiên Chúa, để có lương thực không hư nát. Việc của Thiên Chúa là tin vào Đấng Ngài đã sai đến”. Chúa Giêsu đã nói rõ : “Đấng ấy chính là Tôi”, “Chính Tôi là bánh trường sinh, ai đến với Tôi, không hề đói, ai tin vào Tôi, chẳng khát bao giờ nữa”. “Đến với Tôi, tin vào Tôi” là sống như chính Chúa Giêsu sống, sống với tâm tình và hành động như Người. Sống bằng sức sống của Người đã sống và đã chết để hy sinh lấy thịt máu mình cho con người được sống và được sống dồi dào. Sống như thế sẽ không còn đói, hy sinh như thế sẽ không còn khát, không còn lòng tham không đáy nữa, không còn đau khổ, nhưng được sống trường sinh hạnh phúc muôn đời
Thánh Ignatiô, Đấng sáng lập Dòng Tên, một dòng trí thức nhất của Hội thánh, Ignatiô lúc còn là đại úy, là quan, là hiệp sĩ anh dũng đầy những tham vọng, đòi giàu sang, khát danh tiếng, mê lạc thú, khát khao đủ mọi của hư nát thế gian. Chẳng may, Ignatiô bị thương nặng, què cẳng, phải nằm nhà thương lâu dài. Ông có dịp đọc sách “Gương Chúa Giêsu”, ông cảm thấy tâm hồn thanh thoát, phấn khởi chan chứa niềm vui. Ông thấy niềm vui thánh thiện này khác hẳn với thú vui dục vọng, danh vọng, giàu sang. Niềm vui thế tục như của ăn hư nát, vui chút là hết, lại sinh ra buồn chán, khổ sở, cắn rứt bất mãn như kẻ say rượu, mê cờ bạc, nghiện ngập. Niềm vui nhân đức, thánh thiện, việc lành, tồn tại mãi, an tâm, phấn khởi, thanh thoát, giống như niềm vui của tuần tĩnh tâm, của mùa thương khó, của lễ Phục sinh và Giáng sinh.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh Ignatiô tìm được lương thực trường sinh vinh phúc, xin cho chúng con luôn luôn làm việc của Thiên Chúa là tin mến vàsống theo Đức Giêsu để được Thịt và Máu Thánh Người bổ dưỡng chúng con bây giờ và cho đến muôn đời.
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

Xin sắp xếp lại.
Nếu được núp sau tượng Chúa, ta sẽ nghe được những lời cầu xin của mọi người. Ta sẽ không ngạc nhiên, khi khám phá ra rằng: Hầu hết những lời cầu, đều là những lời xin ơn. Và trong những lời cầu xin ấy, có đến 90%, là về những nhu cầu của thân xác, như: tiền bạc, làm ăn, bệnh tật. Hình như là, trong tâm thức của những tín hữu, họ chỉ coi Chúa như là một người quản lý dễ tính và quyền năng. Chúa không trách điều ấy, nhưng Chúa buồn. Ngài buồn về hai lý do:
1- Các ngươi tìm Ta, không phải vì đã thấy những phép lạ Ta làm, mà vì đã được ăn bánh no nê.Nghĩa là, ta đến với Chúa, chỉ mang tính cách lợi dụng. Và mối quan tâm của ta, là một mối quan tâm tầm thường: lo cho miếng cơm manh áo. Dĩ nhiên, là một sinh vật, như mọi sinh vật khác, con người phải lo kiếm sống. Nhưng cái sống cần thiết của thân xác, chưa đủ để là cái sống của con người. Nơi con người, có hai phần. Xác và hồn. Chỉ loay hoay lo lắng cho thân xác, mà lãng quên, đời sống của linh hồn, là một thiếu sót vô cùng to lớn. Một người, khi gia đình hết gạo, heo chết, thì cuống cuồng lo lắng, chạy đôn chạy đáo, kể cả đến với Chúa. Nhưng khi hồn mình vướng tội trọng, linh hồn khô khan héo úa, thì vẫn cứ tỉnh bơ, bình thường. Chúa không phẩm bình gì về cách chạy đôn chạy đáo ấy, nhưng Chúa trách, là việc bỏ quên phần linh hồn; không quan tâm đến đời sống của linh hồn. Buồn thật đấy! Khi con đau răng, nhức đầu, thì đi hết bác sĩ này, y sĩ nọ. Còn khi con đã lâu không xưng tội, chẳng bao giờ rước lễ, thì cứ tỉnh bơ như không, chẳng băn khoăn lo lắng tí nào.
2- Lý do thứ hai Chúa buồn. Bởi người ta đã bỏ quên mất một chân lý quan trọng: Ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi, không khát bao giờ.Một nhận thức quan trọng, mà Chúa muốn mọi người, đừng bao giờ quên. Đó là Thiên Chúa là người cha toàn năng và nhân ái. Phải nhận thức rõ ràng điều này: Ngài là cha, vì Ngài đã dựng nên mình, Ngài luôn chăm sóc từng li từng tí cuộc đời mình. Vì vậy, với tính cách là con, ta phải luôn gắn bó, cậy dựa vào Ngài; phải có một tình yêu hiếu thảo nồng nàn. Như một em bé, luôn phải tin tưởng tuyệt đối nơi cha mình. Hãy đến với Chúa, với cung cách của một người con; chứ không phải của một người đi xin. Ngài là tình yêu, cho nên, Ngài chỉ thích tình yêu thôi. Và khi đã có một tình yêu thơm nồng, và một niềm tin phó thác, thì tất cả mọi nhu cầu của ta, chỉ là chuyện quá nhỏ.
Câu hỏi:
1- Bạn thường xin gì khi đến với Chúa?
2- Có khi nào bạn cầu xin cho những nhu cầu của linh hồn mình.
(Suy niệm của Lm Đaminh Đỗ Văn Thiêm - Trích trong ‘Tập San Tĩnh Tâm Giáo Phận Long Xuyên số 08/2012’)

Ðối xử công bằng với linh hồn ta
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Sau khi được Chúa Giê-su ban cho một bữa ăn no nê thỏa thích qua phép lạ hóa bánh ra nhiều, đám đông người Do-thái đổ xô tìm đến với Chúa mong được Người cho ăn tiếp. Chúa Giê-su không bằng lòng với toan tính đó nên Người nói thẳng với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê."
Biết rõ bận tâm của đám đông là chỉ lo cho có lương thực nuôi xác, còn lương thực nuôi dưỡng tâm hồn và đời sống thiêng liêng thì chẳng màng tới, Chúa Giê-su răn bảo họ: "hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh." (Ga 6, 27).
Khi nói như thế, Chúa Giê-su kêu gọi mỗi người hãy cố công chăm lo cho linh hồn mình được phúc đời đời chứ đừng chỉ dồn tất cả công sức chăm lo cho thân xác mau hư nát nầy.
Một nhà kia có hai người con. Người con út được cha mẹ đem hết lòng yêu thương chăm sóc: cho ăn, cho mặc, cho học hành, cho thuốc men, cho tiêu xài thoải mái, cho tất cả những gì nó muốn và không từ chối nó bất cứ điều gì.
Trong khi đó, đứa con cả không được cha mẹ đoái hoài: không được nuôi ăn, chẳng được cấp dưỡng chút gì, bị cha mẹ bỏ mặc như thể nó không hề có mặt trên đời, mặc dù nó không làm điều gì sai trái.
Cha mẹ phân biệt đối xử như thế là quá bất công, đáng bị lên án. Nếu chúng ta ở vào địa vị người cha người mẹ trên đây, chắc chắn không bao giờ chúng ta đối xử bất công như thế.
Thế nhưng, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có "hai người con" trong đời mình, đó là linh hồn và thân xác. Thân xác nầy nay còn mai mất thì được nhiều người chăm sóc chiều chuộng tối đa, còn linh hồn trường sinh bất tử thì chẳng được đoái hoài.
Châm ngôn của một số đông là: Tất cả dành cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy. Người ta không từ chối thân xác bất cứ điều gì. Dù thân xác có đòi hỏi những điều hèn hạ, vô luân, người ta cũng chiều theo nó.
24 giờ của mỗi ngày đều dành trọn cho thân xác. 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng đều dành trọn để lo cho thân xác và cứ như thế hết tháng nầy qua tháng khác, hết năm nầy qua năm kia.
Trong khi linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài!
Ðó là một bất công không thể chấp nhận được và mang lại hậu quả đau thương cho cuộc sống mai sau, vì không sớm thì muộn, cái chết cũng sẽ đến để cướp hết những gì người ta đang có và hủy hoại thân xác ra không. Cuối cùng thân xác con người chỉ là một nhúm bụi đất còn linh hồn thì phải trầm luân muôn đời muôn kiếp.
Thật là điên rồ khi người ta dành hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực của mình cho thân xác để rốt cuộc nó chỉ còn là bụi đất!
Qua sứ điệp Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su kêu gọi mọi người hãy đối xử công bằng với linh hồn mình.
Thân xác nầy nay còn mai mất thì chỉ cần chăm lo vừa đủ, còn linh hồn sống đời đời vĩnh cửu thì phải được chăm lo nhiều lần hơn.
Khi nuôi xác bằng cơm bánh được thu hoạch từ lòng đất thì cũng phải nuôi hồn bằng "Bánh từ trời xuống."
Chính Chúa Giê-su là Bánh bởi trời được Chúa Cha ban cho nhân loại để mang lại sự sống cho thế gian. (Ga 6, 32-35)
"Ăn" Chúa Giê-su (theo nội dung đoạn Tin Mừng hôm nay, Gioan 6, 24-35) không có nghĩa là nhai, là nuốt Chúa Giê-su nhưng là đến với Chúa Giê-su và tin vào Người: "Chính tôi là Bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!"
Nói khác đi, "ăn" Chúa Giê-su là đến với Chúa Giê-su, học với Chúa Giê-su, sống như Chúa Giê-su để đào tạo mình nên người có phẩm chất cao đẹp như Chúa, để rồi mỗi người chúng ta trở nên hình ảnh sống động của Chúa Giê-su và được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
5 THÁNG TÁM
Những Đường Lối Khôn Dò Của Thiên Chúa
Bây giờ chúng ta có thể nhận ra bằng cách nào mọi sự – ngay cả sự dữ và đau khổ hiện diện trong thế giới thụ tạo – hoàn toàn được kiểm soát bởi sự khôn ngoan kỳ diệu mà Thánh Phaolô đã phải thốt lên: “Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Ngài, ai dò cho thấu!” (Rm 11,33).
Thật vậy, chính trong bối cảnh của ơn cứu độ chúng ta, “sự dữ không thể lướt thắng được sự khôn ngoan” (Kn 7,30). Đó là một sự khôn ngoan đầy tình yêu, bởi vì “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài …” (Ga 3,16).
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 05-8
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN;
Xh 16, 2-4.12-15; Ep 4, 17. 20-24; Ga 6, 24-35.
LỜI SUY NIỆM: Họ liền hỏi Người: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” (Ga 6, 28-29)
          Khi người Do-thái hỏi Chúa Giêsu về những việc Thiên Chúa muốn; họ mong chờ Chúa Giêsu sẽ đưa ra một cái lịch; những gì phải làm và những gì phải tránh. Nhưng họ được một câu trả lời ngắn gọn: Tin vào Đấng Người đã sai đến. Bởi vì Chính Chúa Giêsu từ Thiên Chúa mà đến, chính Ngài hiểu biết rõ Thiên Chúa, và Ngài sống và làm những việc mà Thiên Chúa đang làm. Chúa Giêsu là tấm gương phản chiếu trung thưc về Thiên Chúa; là Đấng đã nói cho chúng ta biết: Thiên Chúa là Cha của chúng ta; Thiên Chúa là tình yêu; Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện; Thiên Chúa là Đấng đầy quyền năng và Khôn Ngoan. Đây chính là những điều Thiên Chúa muốn chúng ta biết về Ngài để sống tương quan với Ngài và Ngài sẽ giúp đỡ chúng ta có đủ khả năng để thực hiện.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
05 Tháng Tám
Tha Nhân Không Là Hỏa Ngục
Có một chàng thanh niên khao khát trở thành một thánh nhân. Chàng xin vào một dòng tu. Không mấy chốc, chàng khám phá ra tính tình nóng nảy của mình. Nhưng thay vì tìm căn nguyên nơi mình, chàng quy trách cho những người xung quanh. Tha nhân đã trở thành hỏa ngục đối với chàng.
Sau cùng, không còn chịu nổi đời sống tập thể nữa, chàng nghĩ có thể tìm thấy sự yên tĩnh trong sa mạc. Thế là chàng đã lên đường tìm đến một nơi hoang vu vắng vẻ để cắm lều sống đời ẩn sĩ. Mà thật thế, chàng đã tìm lại được sự thanh thản trong tâm hồn...
Tuy nhiên, sự bình an trong cô quạnh ấy không kéo dài được. Ma quỷ đã kéo đến và chúng đã gây xáo trộn trong căn lều xinh xắn của chàng. Không còn giữ được bình tĩnh, chàng đã nổi tam bành và đạp đổ tất cả...
Sau cơn giận dữ, trở lại trạng thái bình thường, chàng mới hồi tâm suy nghĩ: Tôi đã bỏ lại tu viện các anh em của tôi, nhưng tôi lại mang chính tôi vào sa mạc. Không phải anh em tôi là căn nguyên của đau khổ của tôi, nhưng tính tình của tôi mới là đầu mối của mọi đổ vỡ...
Chúng ta được sinh ra trong một gia đình, chúng ta được mời gọi để sống trong xã hội. Tha nhân không phải là một trở ngại, nhưng chính là một trợ giúp để chúng ta phát triển nhân cách và thành toàn. 
Tất cả mọi căn nguyên chính của thất bại và thành công đều nằm trong ta. Cuộc chiến cam go nhất và liên lỉ nhất của chúng ta, chính là chiến đấu chống lại bản thân chúng ta. Xã hội có thể thay đổi, cuộc sống có thể tốt đẹp hơn nếu chúng ta biết cải thiện con người của chúng ta trước.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 05
CHÚA NHẬT XVIII MÙA THƯỜNG NIÊN  
Cung hiến Đền Thờ Đức Maria

Thiết nghĩ cách tốt nhất để đón nhận các bài đọc hôm nay là tìm hiểu xem chính Chúa Giêsu đã dùng lương thực Chúa Cha trao ban như thế nào. Câu Ngài trả lời cho các môn đệ, khi các ông hối thúc Ngài dùng bữa sau cuộc gặp gỡ với người đàn bà xứ Samari, chắc chắn cũng có thể áp dụng cho toàn bộ sứ vụ của Ngài: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người" (Ga 4,32).
 
Khi người ta thấy dân chúng nổi lên đả kích ông Môsê trong sa mạc, lý sự rằng họ thích cảnh sống nô lệ bên Ai Cập hơn, bởi vì lúc ấy, họ còn được ăn khi bị đói, người ta tự nhủ rằng chắc là Đức Giêsu cũng có lý do để cho nghe kiểu than phiền ấy. Ngài thấy rằng người ta đang bắt làm nô lệ, trong khi Ngài đến mang sự giải thoát. Ngài có thể tự hỏi bước chân Ngài đang dẫn Ngài tới vùng đất hứa nào của sự sống và sự phục sinh, khi mà Ngài đang bị người ta điệu từ thượng hội đổng sang công đường, đến một cái chết chắc chắn.
 
Ngài phải bày tỏ thái độ nào để thì rằng mình đang dùng lương thực của Thiên Chúa, thứ lương thực mà ở Capharnaum, Ngài đã nêu ra hai đặc điểm: - Ngài từ trời mà xuống và - Ngài ban sự sống cho thế gian.
Philippe Barbarin 
Ngày 05-08

LỄ CUNG HIẾN ĐỀN THỜ ĐỨC BÀ MARIA
Đền thờ đầu tiên được cung hiến để kính đức Trinh Nữ ở Roma, ngày nay gọi là đền thờ Đức Bà cả. Truyện kể lại rằng, có hai vợ chồng không con nuôi nấng nuốn dâng gia tài của mình cho Đức Mẹ. Trong đêm 4 hay 5 tháng 8, Đức Trinh nữ đã hiện ra với họ, cùng một lúc với Đức Giáo hoàng Libêriô, bày tỏ ý muốn được thấy mọc lên trên núi Esquilin, một thánh đường dâng kính Ngài.
Hôm sau Đức giáo hoàng cùng với hàng giáo sĩ ở Roma đi lên núi Esquilin. Lúc ấy trời nóng nực nhưng tuyết vẫn còn phủ đầy một góc núi. Theo ý Đức Trinh Nữ, Đức Giáo hoàng phác họa một thánh đường, xây cất bằng tiền của cặp vợ chồng không con dâng cúng, lấy tên là đền thờ Đức Bà xuống tuyết để ghi nhớ phép lạ trên.
Truyện kể lại như vậy, nhưng tính chất chân thực của câu chuyện vẫn còn bị nghi ngờ, thực sự ở Roma đã có một đền thờ Đức Bà cổ, còn cổ kính hơn cả đền thờ Đức giáo hoàng Libêriô (352 - 366) cho xây cất nữa. Và đền thờ này được Đức Sixtô Israel (436 - 440) tái thiết. Ngài đặt tên là đền thờ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, chắc chắn là để ghi nhớ cộng đồng Ephêsô (431) biến cố dẫn tới tín điều Đức Bà Maria Mẹ Thiên Chúa.
Ngoài danh xưng là đền thờ Đức Bà xuống tuyết và đền thờ Đức Bà Maria Mẹ Thiên Chúa, ngôi đền này còn mang tên đền thờ Đức Bà Máng cỏ, và đây lưu giữ máng cỏ Chúa Giêsu sinh ra. Máng cỏ được đặt trong một cái hộp bằng bạc. Vào ngày lễ Giáng sinh, máng cỏ được đưa ra cho mọi người kính viếng.
Ngày nay người ta thường gọi là đền thờ Đức Bà cả. Danh hiệu nầy nhắc nhớ thứ bậc của đền thờ này trong các các thánh đường dâng kính Đức Maria tại kinh thành muôn thuở. Đối với Giám mục Roma, đây là nhà thờ chính tòa thứ hai.
Vậy hôm nay chúng ta kính nhớ việc dâng hiến đền thờ chính, nếu không phải là đền thờ cổ nhất được xây cất dở dang kính Đức Trinh Nữ. Chúng ta nghĩ ngay đến vô số đền thờ mà lòng tôn kính của các tín hữu đã được dựng lên để kính nhớ Mẹ Thiên Chúa.
Nhiều đền thờ trong số những đền thờ này đều ghi nhớ một giai thoại đạo đức như một ảnh lạ, vài ơn phúc đặc biệt mà tình yêu của Đức Trinh nữ đã thực hiện. Các tín hữu đến đây cầu nguyện để bày tỏ niềm cậy trông chân thành.
(daminhvn.net)
+++++++++++++++++

I.                     LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA PHỤNG VỤ
Đền thờ Đức Bà Cả cũng gọi là Vương cung Thánh đường Liberiô, được xây trên đồi Esquilinô thành Rôma. Truyền thuyết kể rằng đêm mồng 4 rạng mồng 5 tháng 8 năm 352, Đức Mẹ hiện ra với Đức Liberiô I, và truyền lệnh xây một đền thờ nơi có tuyết rơi trong đêm đó. Sáng hôm sau, Đức Giáo hoàng đến đồi Esquilinô thấy có tuyết rơi - thời kỳ này là mùa hè - đúng như lời Đức Mẹ đã nói - Vì thế, đền thờ này cũng gọi là Đền thờ Đức Mẹ xuống tuyết, nên ngài đã ra lệnh xây đền thờ kính Đức Mẹ tại đây năm 366, và đền thờ được Đức Sixtô III chỉnh trang và cung hiến năm 435 để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa mà Công đồng Ephesô đã tuyên tín năm 431, và gọi là đền thờ Đức Bà Cả vì là đền thờ đầu tiên và là một trong bốn vương cung thánh đường lớn nhất thành Rôma.
Đền thờ được xây, mở rộng ra và trùng tu nhiều lần qua nhiều thế kỷ. Tiền đường chính được xây thế kỷ XVIII. Tháp chuông kiểu Rôma tuyệt đẹp được hoàn thành năm 1377 và được kể là ngọn tháp cao nhất kinh thành Rôma.
Đền thờ Đức Bà Cả còn gọi là Đền thờ Đức Bà máng cỏ, vì thời xưa nguyện đường máng cỏ được thiết lập gần bàn thờ chính. Về sau nguyện đường này được di về nguyện đường Sixtine do Đức Sixtô V xây cất.
Đền thờ Đức Bà Cả tôn kính ảnh Đức Mẹ lừng danh nhất do thánh Luca minh hoạ, gọi là Đức Mẹ sự an lành của dân thành Rôma (Salus populi Romani), đã được đội triều thiên liên tiếp nhiều lần do Đức Clementê VIII, Đức Grêgôriô XVI, và Đức Piô XII ngày 1-11-1954, Năm Thánh Mẫu kỷ niệm 100 năm Đức Piô IX tuyên tín Đức Mẹ Vô nhiễm thai. Dịp này, Đức Piô XII, với thông điệp Ad Caeli Reginam, tuyên ngôn vương quyền của Mẹ và thành lập lễ Mẹ Nữ Vương ngày 22 tháng 8.
Ngày 12-11-1964, trong Đền thờ Đức Bà Cả, Đức Phaolô VI tuyên bố Mẹ Maria là "Mẹ Giáo hội" và dâng lời cầu nguyện lên Mẹ: "Với một tinh thần đầy tín thác và thảo mến, chúng con ngước nhìn lên Mẹ, dầu chúng con bất xứng và yếu hèn. Mẹ đã ban cho chúng con Chúa Giêsu là nguồn ơn thánh, thì Mẹ không quên hộ giúp Giáo hội của Mẹ, trong lúc Giáo hội đang thịnh đạt vì những ơn dạt dào của Chúa Thánh Linh và đang dấn thân với sự canh tân nhiệt nồng trong sứ vụ cứu rỗi".
II.                   SUY NIỆM
Ngợi khen Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Trích bài giảng của thánh Cyrillô Alexandria đọc trong Công đồng Êphêsô năm 431.
Tôi thấy hội nghị các nghị phụ đây thật hân hoan và phấn khởi. Được Đức Maria Thánh Mẫu Thiên Chúa và trọn đời đồng trinh kêu mời, các ngài đã mau mắn tựu về đây. Thế nên dù đang bị nhiều đau phiền đè nặng, nhưng nhìn vào quang cảnh của các nghị phụ khả kính đây, tôi cũng thấy vui mừng. Quả thật, giờ đây lời thánh Đavít đang thực hiện nơi chúng ta: Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau.
Vậy, chúng con xin kính chào Ba Ngôi mầu nhiệm và chí thánh đã tập họp chúng con hết thảy về trong ngôi thánh đường Đức Maria Thánh Mẫu Thiên Chúa này.
Chúng con cũng kính chào Thánh Mẫu Maria là kho tàng đáng kính của tất cả hoàn vũ, là ánh sáng không bao giờ tắt, là triều thiên của sự đồng trinh, là vương trượng của giáo lý chân chính, là đền thờ không bao giờ hư nát, là nơi chứa đựng Đấng không đâu chứa nổi, là Mẹ nhưng vẫn đồng trinh, nhờ Ngài mà, trong Tin mừng, Đấng đến nhân danh Thiên Chúa được xưng tụng là diễm phúc.
Chúng con cũng kính chào Mẹ đã mang trong lòng đồng trinh thánh thiện của Mẹ Đấng vô biên, không đâu chứa nổi; nhờ Mẹ mà Ba Ngôi rất thánh được tôn vinh và thờ lạy; nhờ Mẹ mà cả thế giới chúc tụng và thờ lạy cây Thánh giá cao quí; nhờ Mẹ mà các tầng trời được vui mừng; nhờ Mẹ mà các thiên thần và các tổng lãnh thiên thần hân hoan; nhờ Mẹ mà ma quỷ bỏ trốn; nhờ Mẹ mà tên cám dỗ đã rớt xuống khỏi trời; nhờ Mẹ mà tạo vật sa ngã được đưa lại về trời; nhờ Mẹ mà toàn thể tạo vật nô lệ tà thần đã nhận biết chân lý; nhờ Mẹ mà kẻ tin đã được thánh tẩy; nhờ Mẹ mà có dầu hoan lạc được trào đổ ra, mà các Hội Thánh được xây dựng ở khắp mặt địa cầu, và các dân tộc được đưa về sự ăn năn thống hối.
Con còn phải nói gì nữa? Nhờ Mẹ, Con Một Thiên Chúa đã là ánh sáng chiếu soi cho những kẻ ngồi trong tối tăm và trong bóng tối sự chết; nhờ Mẹ, các ngôn sứ đã tiên báo; nhờ Mẹ các tông đồ đã rao giảng ơn cứu độ cho muôn dân; nhờ Mẹ kẻ chết được sống lại; nhờ Mẹ vua chúa được cai trị nhân danh Ba Ngôi cực thánh.
Vậy ai là người có thể ngợi khen Đức Maria cho xứng đáng? Ngài vừa là Mẹ vừa là Trinh Nữ. Ôi thật lạ lùng! Lạ lùng đến nỗi tôi phải ngỡ ngàng! Có ai nghe nói rằng Đấng xây dựng đền thờ lại không được vào đền thờ mình đã xây dựng bao giờ? Và ai có thể xấu miệng trước việc Thiên Chúa đặt nữ tỳ của Người làm Mẹ?
Này, tất cả vạn vật đều hân hoan; người ta hãy để cho chúng tôi được kính tin, thờ lạy, kính sợ và tôn sùng Ba Ngôi duy nhất và bất khả phân, bằng việc ngợi khen Đức Maria trọn đời đồng trinh là Đền thờ của Thiên Chúa, và ngợi khen Con của Mẹ cũng như Bạn trăm năm vẹn sạch của Mẹ, vì Mẹ đáng được vinh quang muôn đời. Amen.

L.m. Phêrô, CMC


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét