Trang

Thứ Sáu, 24 tháng 8, 2012

25-08-2012 : THỨ BẢY TUẦN XX MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Bảy sau Chúa Nhật 20 Quanh Năm
Thị kiến của Ê-dê-ki-en

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 43, 1-7a
"Uy nghi Chúa tiến vào đền thờ".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Thiên Thần dẫn tôi đến cửa phía đông. Và đây vinh quang Thiên Chúa Israel từ con đường phía đông tiến vào: tiếng của Người như tiếng nước lũ, và địa cầu sáng rực uy nghi của Người. Thị kiến mà tôi đã thấy giống như thị kiến trước kia tôi đã xem thấy khi Người đến huỷ diệt thành phố, và như thị kiến tôi đã xem thấy gần sông Côbar, nên tôi sấp mặt xuống đất. Uy nghi Chúa tiến vào đền thờ theo lối của hướng đông. Thần Trí đỡ tôi lên, và dẫn tôi vào hành lang phía trong. Ðây ánh vinh quang của Chúa tràn ngập đền thờ. Tôi đã nghe có người nói với tôi từ trong đền thờ và người đứng gần bên tôi, bảo tôi rằng: "Hỡi con người, đây là nơi đặt bệ ngai Ta, nơi Ta để chân, nơi Ta ngự giữa con cái Israel đến muôn đời".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 84, 9ab-10. 11-12. 13-14
Ðáp: Vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi (x. c. 10b).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an. Vâng, ơn cứu độ Chúa gần đến cho những ai tôn sợ Chúa, để vinh quang Chúa ngự trị trong đất nước chúng tôi. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng, Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. - Ðáp.

* * *

Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 23, 1-12
"Họ nói mà không làm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là "Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm:
Ðức Giêsu đưa ra hình ảnh các kinh sư và Phrisêu giả hình. Họ giảng dạy đạo lý nhưng lối sống của họ đầy ích kỷ, tự cao và thiếu công bình bác ái. Ðạo lý của Chúa là đạo yêu thương, quảng đại và phục vụ anh em trong sự khiêm tốn. Không dành phần vinh quang cho mình nhưng luôn biết quy hướng về Thiên Chúa.

Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, lời của Chúa hôm nay đang cảnh tỉnh lối sống của mỗi người chúng con. Chúng con vẫn thường gán những khó khăn, bất lợi và nặng nề cho anh em. Còn chúng con chọn phần tốt, dễ dãi cho bản thân. Chúng con vẫn tự kiêu và ích kỷ sống trên những đau khổ của tha nhân. Xin giúp chúng con nhận ra chúng con không là gì cả và tất những gì chúng con có đều do Chúa ban. Ðể chúng con biết khiêm nhường phụng sự Chúa và phục vụ anh em. Amen.
 (Lời Chúa trong giờ kinh gia đình)

Ðề phòng thái độ giả hình
(Mt 23, 1-12)
Suy Niệm:
Ðề phòng thái độ giả hình
Theo các văn thư của Ðức Giáo Hoàng Innocentê để lại, thì thời của Ngài, tức thế kỷ 12, là một trong những thời kỳ suy thoái nhất của giáo huấn về đức tin và luân lý: tệ đoan lan tràn khắp nơi, các phe phái quá khích nổi lên, nhiều người phê bình chỉ trích các vị lãnh đạo Giáo Hội vì cuộc sống phản chứng của các ngài. Lúc đó thánh Phanxicô Assisiô xuất hiện, ngài không chỉ trích ai, nhưng ý thức rằng kẻ phải ăn năn sám hối trước tiên là chính ngài; ngài không khoe khoang, không tham lam, không giả hình, nhưng cố gắng sống đạo một cách nghiêm túc; ngài đi cho đến tận cùng trọng cuộc sống nghèo khó, bác ái, phục vụ, khoan dung. Lý tưởng của thánh Phanxicô chẳng mấy chốc đã được nhiều người chia sẻ, Giáo Hội được hồi sinh, nhiều tâm hồn được đổi mới, mùa xuân thiêng liêng được nở rộ nhiều thế kỷ liên tiếp.
Trong giai đoạn hiện nay, mẫu gương của thánh Phanxicô Assisiô thôi thúc chúng ta hơn bao giờ hết.
Tin Mừng hôm nay không phải là một bản án trút xuống một vài thành phần nào đó trong Giáo Hội, mà phải là một lời mời gọi sám hối cho mọi người. Quả thật, Chúa Giêsu không chỉ kết án thái độ giả hình của những biệt phái, mà còn kêu gọi mọi người hãy đề phòng thái độ giả hình ấy. Giả hình là căn bệnh chung của tất cả những ai mang danh Kitô. Thật thế, nếu giả hình là tách biệt giữa niềm tin và cuộc sống, thì có ai trong chúng ta dám tự phụ mình không rơi vào một thái độ như thế? Giả hình vẫn là cơn cám dỗ cơ bản và triền miên trong cuộc sống người Kitô hữu. Khi căn tính Kitô chỉ là một danh xưng mà không được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày, khi sinh hoạt tôn giáo chỉ đóng khung trong bốn bức tường nhà thờ, khi lòng đạo đức được thúc đẩy bởi khoe khoang, tự phụ, khi cuộc sống đạo không là lối sống về niềm tin, mà là trở ngại cho nhiều người đến với Chúa và Giáo Hội, phải chăng đó không là một cuộc sống giả hình?
Câu hỏi mà chúng ta không ngừng đặt ra là cuộc sống đạo của tôi có thực sự là một đóng góp vào việc cải tạo một xã hội đang băng hoại về đạo đức và những giá trị tinh thần không? Giáo Hội mà tôi là thành phần, có xứng đáng là điểm tựa đạo đức cho nhiều người không?
Xin Chúa soi sáng hướng dẫn chúng ta để chúng ta không ngừng nhìn lại bản thân và nhận ra những thiếu sót lầm lỡ trong cuộc sống đạo, ngõ hầu từ đó chúng ta quyết tâm vươn lên mỗi ngày trên đường theo Chúa.
(Veritas Asia)

LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ BẢY TUẦN XX THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: Eze 43:1-7; Mt 23:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Giá trị bên trong thay vì hào nhoáng bên ngoài.
Chúa luôn đòi con người chú trọng đến đời sống tinh thần bên trong hơn là những nghi thức hoành tráng bên ngòai; đến mối liên hệ sâu đậm với Thiên Chúa và giữ các điều răn của Ngài hơn là những danh xưng hào nhoáng và giữ các tập tục của con người.
Các Bài đọc hôm nay lại một lần nữa dạy con người những nguyên tắc căn bản trên. Trong bài đọc I, ngôn sứ Ezekiel nhắc nhở cho con cái Israel sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ, để họ đừng làm cho Đền Thờ ra ô uế như vua chúa và các tiền nhân của họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên dân chúng chú trọng đến đạo lý các kinh sư và biệt phái dạy họ; nhưng đừng làm những gì họ làm, vì họ không thực hành những điều họ dạy.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Vinh quang của Thiên Chúa trở lại bao phủ Đền Thờ.

1.1/ Đền Thờ sẽ được xây dựng lại sau thời lưu đày.
Như lời Chúa đã tuyên sấm qua các tiên tri (Isaiah, Micah, Jeremiah, Ezekiel), Chúa tạo cơ hội cho Israel được hồi hương sau những năm tháng lưu đày. Điều quan trọng hàng đầu là cho họ có cơ hội xây dựng lại Đền Thờ, nơi Thiên Chúa sẽ cư ngụ giữa họ để dạy dỗ và che chở họ. Trong quá khứ, Israel đã vấp phạm hai lỗi lầm quan trọng: (1) quá để ý đến Đền Thờ mà quên đi sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa họ, và (2) quá để ý đến những nghi lễ bên ngoài mà quên đi việc thực thi hai giới răn công bằng và bác ái.
Thị kiến hôm nay nhắc nhở cho họ biết Đền Thờ sẽ chỉ là cái vỏ vô nghĩa bên ngoài nếu không có sự hiện diện của Thiên Chúa. Một khi không còn sự hiện diện của Thiên Chúa, Đền Thờ cũng chẳng khác chi các dinh thự khác. Tiên tri cho biết thị kiến ông nhìn thấy vinh quang của Chúa xuất hiện và bao trùm Đền Thờ hôm nay cũng giống như thị kiến ông đã thấy khi Người đến để huỷ diệt thành, thị kiến ông đã thấy bên sông Chebar.

1.2/ Sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ mới
Một khi Đền Thờ đã hoàn tất, cần có sự hiện diện của Thiên Chúa trong Đền Thờ. Tiên tri Ezekiel bảo đảm điều này khi ông nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa từ trời ngự xuống trên ngai Cherubim, qua cổng phía đông và ở lại trong Đền Thờ; và lời Thiên Chúa phán với ông: “Hỡi con người, đây là nơi Ta đặt ngai của Ta, đây là nơi Ta đặt các bàn chân của Ta. Ta sẽ ngự tại đây, giữa con cái Israel, cho đến muôn đời. Nhà Israel, cả chúng lẫn các vua của chúng, sẽ không còn làm ô uế danh thánh của Ta vì những sự đàng điếm và xác chết các vua của chúng nữa.”

2/ Phúc Âm: Nghe nhưng đừng làm.

2.1/ Giá trị giới hạn của kiến thức suông
Tục ngữ Việt-Nam dạy: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo.” Lời nói có thể chỉ cho con người biết điều đúng sai, nhưng gương sáng có sức hấp dẫn để người khác làm theo như vậy. Người lãnh đạo hoàn hảo là người biết dùng cả lời nói lẫn hành động để hướng dẫn những người dưới quyền mình làm theo những gì họ muốn. Tuy nhiên, nếu không tìm thấy một người lãnh đạo hoàn toàn như thế, người lãnh đạo chỉ bằng lời nói cũng có thế giá giới hạn của họ như Chúa Giêsu đã công nhận hôm nay. Người nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: "Các kinh sư và các người Pharisees ngồi trên toà ông Moses mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.”

2.2/ Những tật xấu của các luật-sĩ và Pharisees: Chúa Giêsu tố cáo họ những điều sau:

(1) Họ là những người làm luật và kiểm soát những người lỗi phạm luật; vì thế họ đặt ra rất nhiều luật đến độ quá chi li không cần thiết, chẳng hạn cách thức rửa tay trước khi ăn hay đóng thuế thập phân những lá cây như bạc hà. Chúa buộc tội: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào.”

(2) Họ làm việc cốt để cho thiên hạ thấy: Tất cả những việc đạo đức họ làm không vì Thiên Chúa, nhưng để cho người đời trông thấy để khen ngợi họ. Tuy việc đeo hộp kinh và mang tua áo trong khi cầu nguyện là việc luật buộc phải làm để nhắc nhở họ phải không ngừng nhớ tới Thiên Chúa là Chúa của họ (hộp kinh: Exo 13:16, x/c Deut 6:8, 11:18; tua áo: Num 15:37-41, Deut 22:12); nhưng để kéo sự chú ý của người khác, họ thi nhau làm những hộp kinh lớn hơn và đeo những tua áo dài hơn.

(3) Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường: Trong các đám tiệc, chỗ nào quan trọng nhất là chỗ của họ, chẳng hạn ngồi bên trái hay phải của chủ nhà hay cùng bàn với những nhân vật quan trọng. Trong hội đường Do-thái, những ghế trên đầu là những ghế dành cho những người già cả và vị vọng. Họ muốn những ghế này để tỏ cho thiên hạ biết mình quan trọng và chú ý tới cách ăn mặc của họ cũng như các việc họ làm.

(4) Họ thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “rabbi.” Người luật sĩ và Pharisees quan niệm dân chúng phải đối xử với họ như những công dân bậc nhất, hơn cả cha mẹ, vì cha mẹ chỉ có công về phần xác; trong khi họ có công về phần tinh thần và tinh thần quan trọng hơn thân xác.

Tại sao Chúa Giêsu ngăn cấm không cho các môn đệ gọi ai là "rabbi," “cha,” hay “người lãnh đạo”? Ở đây Chúa muốn nhắc nhở cho các môn đệ đừng tôn thờ ai như thần tượng của mình để bắt chước họ ngòai một mình Thiên Chúa. Sau cùng, Chúa nhắc nhở con người về tiêu chuẩn đánh giá trị của Thiên Chúa: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Đền thờ hay thánh đường là nơi Thiên Chúa ngự; mỗi khi đến những nơi đó chúng ta cần có thái độ cung kính và khiêm nhường để học hỏi và cầu nguyện với Chúa. Đó không phải là nơi phô trương các việc đạo đức hay tài năng cho người khác nhìn thấy để bái phục và khen thưởng; càng không phải là nơi để trình diễn thân thể hay thời trang làm chia trí người khác.
- Chúng ta có lý do để không theo những nhà lãnh đạo bằng miệng, nhưng những kiến thức của họ tự nó cũng có giá trị. Vì thế, chúng ta nên theo những gì họ nói mà không làm theo những gì họ làm.
- Thân xác con người là đền thờ của Thiên Chúa, chúng ta cần phải chú trọng đến sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn và biết quí những nét đẹp và giá trị bên trong thay vì những hào nhoáng và các giá trị bên ngoài.
Lm.An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.

Thứ Bảy tuần 20 thường niên
Sứ điệp: Chỉ mình Thiên Chúa là Cha, chỉ mình Đức Kitô là Thầy. Những người được trao nhiệm vụ lãnh đạo phải sống khiêm tốn và chân thành.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, có ai đó vẫn hay dùng lời Tin Mừng hôm nay để phủ nhận vai trò của những vị lãnh đạo trong Giáo Hội Chúa. Con biết Chúa không có ý dạy như thế, vì Chúa đã gọi và chọn một số người để thông chia quyền bính và nhiệm vụ thừa tác của Chúa cho họ. Con không ngần ngại gọi những vị đó là cha là thầy. Vì tin vào Danh Chúa mà con tôn trọng quý cha, quý thầy là những người đại diện cho Chúa.
Phần con, con được gọi là cha là mẹ cũng là nhờ Chúa, vì Chúa cho con được cộng tác vào công trình sáng tạo để sinh dưỡng con cái. Con chỉ đáng được gọi là cha là mẹ khi biết sống xứng đáng là người thay mặt Chúa để dạy dỗ con cái.
Lạy Chúa, con tha thiết xin Chúa ban ơn nhiều cho các bề trên trong đạo, cho chúng con là những người đang trong bậc làm cha làm mẹ, để chúng con sống xứng đáng với địa vị thay mặt Chúa. Xin cho chúng con biết suy nghĩ phù hợp ý Chúa, biết làm ý Chúa và biết nói ý Chúa cho con cái. Dù là những người thay mặt Chúa, nhưng chúng con cũng chỉ là con người mỏng dòn yếu đuối. Xin Chúa thương xót và nâng đỡ con.
Riêng phận con là con cái, con sẽ kính trọng và vâng lời cha mẹ không những theo lẽ tự nhiên, nhưng nhất là cha mẹ là người thay mặt Chúa sinh dưỡng giáo dục con. Xin Chúa chúc lành cho cha mẹ con.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết củng cố vai trò của mình bằng cách phục vụ trong khiêm tốn và chân thành. Amen.
Ghi nhớ : "Họ nói mà không làm".

25/08/12 THỨ BẢY TUẦN 20 TN
Th. Giuse Calaxan, linh mục
Mt 23,1-12

SOI GƯƠNG ĐỂ BIẾT MÌNH

“Anh em chỉ có một Thầy, còn tất cả anh em đều là anh em với nhau.” (Mt 23,8)

Suy niệm: Mỗi ngày ta thường soi gương vài ba lần, ít nhất trước khi ra đường. Nhìn vào gương, ta nhận ra khuôn mặt, vóc dáng quen thuộc của mình. Lời Đức Giêsu hôm nay như tấm gương mời gọi ta soi vào để biết chân dung con người thật của mình qua ba tương quan: (1) với bản thân: tôi có “nói mà không làm” không? (2) với tha nhân: tôi có coi “tất cả anh em đều là anh em với nhau” không? và (3) với Thiên Chúa: tôi có xác tín “vì anh em chỉ có một người lãnh đạo, là Đức Kitô” không? Sau khi soi gương thật kỹ, chúng ta được mời gọi “giải phẩu thẩm mỹ chân dung” của mình cũng qua ba tương quan. Với mình, ta làm những gì mình nói, và không nói những gì mình không làm. Với người khác, ta thành tâm nhìn nhận họ là anh em, chị em với ta, cùng mang tính độc đáo, quan trọng như nhau. Cuối cùng, với Thiên Chúa, tôi xác tín chỉ có Thiên Chúa là chủ tể, Đức Kitô là vị Thầy số một của mình.

Mời Bạn: Tin Mừng của Đức Giêsu luôn đòi hỏi, mời gọi bạn “cởi bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới.” Mời bạn can đảm tiến hành “cuộc giải phẫu” tinh thần ấy để sống trung thực với tư thế người con cái Chúa.

Sống Lời Chúa: Thử soi mình vào tấm gương Lời Chúa hôm nay để nhận dạng rõ chân dung con người Kitô hữu của mình, rồi thực hiện một cuộc đổi mới toàn diện, nhắm đặc biệt đến tương quan nào mình yếu kém nhất.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cảm tạ Chúa đã ban tặng chiếc gương Lời Chúa để chúng con soi vào và biết sự thật về mình. Xin giúp chúng con không ngừng đổi mới theo Lời Chúa dạy. Amen.


LÀ ANH EM VỚI NHAU

Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối, vì mở cho chúng ta những chân trời xa, cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm, nhưng chưa làm.

Suy nim:
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay
có thể làm chúng ta bị sốc.
Ðức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy,
vì chỉ có một Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài;
cũng đừng gọi ai là cha,
vì chỉ có một Cha là Thiên Chúa trên trời.
Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh
là cha, là Ðức Thánh Cha,
là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ...
Chúng ta có làm sai lời Chúa dạy không?
Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Ðức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen.
Thánh Phaolô đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu,
đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19).
Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28),
và những vị lãnh đạo (Cv 15,22; Rm 12,8)
Vậy đâu là điều Ðức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ
những cơ cấu cần thiết cho thân thể Hội Thánh,
Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành.
Ngài chỉ muốn chúng ta đừng quên:
mọi quyền bính trong Hội Thánh
đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Thầy của Ðức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha,
thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của Thiên Chúa.
Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh,
tôi cũng không được quên chân lý này:
còn tất cả anh em đều là anh em với nhau,
con một Cha trên trời.
Chỉ có một vị Thầy là Ðức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ,
như anh em với họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50),
và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Ðức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo.
Quyền lãnh đạo chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự giả hình
của một số người pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm điều mình dạy người khác,
là dễ dãi với chính mình,
nhưng khắt khe với tha nhân.
Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ mình,
làm việc tốt để người ta thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình,
tôi thấy tôi: háo danh, khoa trương, ích kỷ,
dám “đốc” chứ không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối,
vì mở cho chúng ta những chân trời xa,
cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm,
nhưng chưa làm.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


"Họ nói mà không làm".


Trung thực với lời nói
Những lời khiển trách của Chúa Giêsu đối với các kinh sư, những nhà thông thái Kinh Thánh biết rõ về Luật Môsê để giảng dạy cho dân chúng được hướng tới hai tật xấu quan trọng là giả hình và khoe khoang. Giả hình vì nếp sống cụ thể của họ không phù hợp với những gì họ giảng dạy cho dân chúng. Họ nói mà không làm, họ giải thích Luật Môsê cách tỉ mỉ nhưng là để cho kẻ khác tuân giữ còn họ thì không thèm động ngón tay vào đó. Thật ra không phải là họ không tuân giữ, vì họ luôn ăn chay, bố thí cho đền thờ, họ cầu nguyện, họ đọc Kinh Thánh. Nhưng họ làm tất cả những điều này để làm cho người ta trông thấy, để được khen thưởng, được danh lợi. Họ làm những điều tốt lành đó là để khoe khoang, là để được người khác nhìn thấy, là để được tranh hơn thiệt, để được chỗ ngồi danh dự, để được gọi là thầy, đó là họ thực hành những hình thức bên ngoài và không có tinh thần tôn thờ và yêu mến Chúa nơi chính họ. Chúa Giêsu trách những kinh sư và biệt phái như thế là để cảnh tỉnh các môn đệ đừng đi vào con đường không tốt.
Việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy và phơi bày những tật xấu của anh chị em nhưng lại làm ngơ hoặc che dấu những tật xấu của chính mình. Trước đó, Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh các môn đệ Người như sau: "Nếu sự công chính của các con không hơn sự công chính của các kinh sư và những biệt phái, thì các con sẽ không được vào Nước Trời; các con đừng để ai gọi mình là Thầy, vì chỉ có một Thầy, còn tất cả các con là anh chị em với nhau". Cộng đoàn các môn đệ chỉ có một Chúa Giêsu là Thầy và một Thiên Chúa là Cha. Chúng ta nên lưu ý đoạn Tin Mừng này không có ý chối bỏ quyền hành trong cộng đoàn những đồ đệ, nhưng chỉ chống lại lòng ham quyền, ham danh, lạm dụng địa vị để phục vụ cho cái tôi cao ngạo của mình. Những con người ham quyền ham danh như vậy muốn chiếm chỗ của Thiên Chúa trong tâm hồn anh chị em.
Chúa Giêsu không loại bỏ tác vụ phục vụ cộng đoàn để hướng dẫn cộng đoàn: "Ai nghe các con là nghe Thầy", nhưng Chúa muốn lưu ý rằng những thừa tác viên của Chúa có trách nhiệm đối với cộng đoàn cần sống nêu gương cho anh chị em, thực hành trung thực những gì mình rao giảng.
"Ai làm lớn trong các con phải là kẻ phục vụ cho tất cả". Quyền hành trong cộng đoàn những kẻ tin Chúa là quyền thừa tác nhân danh Chúa và phục vụ anh chị em, giúp anh chị em đến với Chúa chứ không phải là để cho quyền hưởng lợi cá nhân. Tất cả mọi thành phần trong cộng đoàn, những đồ đệ đều phải hướng về cùng một điểm trung tâm duy nhất là Thiên Chúa Cha và sống hiệp nhất, hiệp thông với nhau trong Chúa Kitô.
Lạy Chúa,
Xin giải thoát các con khỏi cám dỗ sống giả hình, khoe khoang. Xin thương củng cố chúng con tất cả trong ơn gọi và sứ mạng riêng biệt của mình nơi cộng đoàn dân Chúa. Xin đổ tràn ơn Chúa Thánh Thần xuống trên các con, giúp các con hiểu biết và yêu mến Chúa hết lòng và dấn thân hết sức mình phục vụ lẫn nhau vì yêu mến Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Phc v người khác.
By gi Đc Giêsu nói vi đám đông và các môn đ Người rng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngi trên tòa ông Mô-sê mà ging dy. Vy, nhng gì h nói thì anh em hãy làm, hãy gi; nhưng đng theo hành đng ca h ca h mà làm, vì h nói mà không làm.
Ai tôn mình lên, s b h xung; còn ai h mình xung, s được tôn lên.(Mt. 23, 1-3. 12)
Chúa nhn mnh: “Người ln hơn c phi là người phc v anh em” ln th nht, Người nói vi các môn đ: “Ai h mình xung như tr nh này, là người ln nht trong Nước Tri” (Mt. 18, 4) Khi Phê-rô lên tiếng thay cho các tông đ hi: “Chúng con s được gì?” Đc Giêsu đáp: “Nhiu k đng đu s phi xung hàng chót, nhiu k đng hàng chót s được lên đu.” (Mt. 19, 30). Ri Người kết thúc d ngôn th làm vườn nho thế này: “Thế là k đng chót s lên hàng đu, và nhng k đng hàng đu s đng chót.” (Mt. 20, 16). Sau đó mt chút, Đc Giêsu còn nhc li: “… Ai mun làm ln gia anh em, thì phi là người phc v anh em. Ai mun làm đu gia anh em, thì phi là người phc v anh em. Ai mun làm đu gia anh em, thì phi làm đy t anh em” (Mt. 20, 26-27) Chúa lên Giê-ru-sa-lem ln cui cùng, người li kêu gi các tông đ: Ai giu có v tài năng, v sáng kiến, v thông minh, v tm lòng, phi làm đy t! vì chính con người, đng hàng đu phi làm người đng chót! “Chính con người đến đ phc v, ch không đ được phc v, và thí mng sng mình” (Mt. 20, 28).
Ch cho tin …
Đc Giêsu khin trách Pha-ri-sêu và lut sĩ thi đó, và c thi chúng ta na: không giúp đ anh em! càng giu, người ta càng phi cho đi! cho đi tin ca có th là mt lăng nhc, nếu người ta ch vì cy có tin.
Tin không din t được s hy sinh hiến thân, tin ca giu sang không làm cho ai hài lòng, bi vì khi cho tin, h li tr nên k bin ln mà h có.
Chúng ta cn lưu ý Chúa luôn luôn nói vi nhng người giu: chính h cn thiết phi sng theo Tin Mng … Vy người ta có can đm dùng mi ca ci giu có, dùng mi quyn thế đ phc v người nghèo vì thc thi Tin Mng không?
J.M

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
25 THÁNG TÁM
Một Kế Hoạch Hoạt Động Mục Vụ
Đâu là ý nghĩa của cuộc họp Thượng Hội Đồng bất thường 1985? Hai mươi năm sau ngày bế mạc Công Đồng, thật hữu ích – hay đúng hơn, thật cần thiết – việc nhìn lại chiều hướng của Giáo Hội. Điều này càng đặc biệt đúng bởi vì chúng ta đã chứng kiến một số xu hướng hay những giải thích về Vatican II có thể dẫn chúng ta đi lạc ra khỏi con đường đã được Công Đồng hoạch định cho chúng ta.
Và đó chính là chỉ nam căn bản cho kỳ Thượng Hội Đồng, một biến cố thu hút rất nhiều sự chú ý của giới truyền thông và chiếm được sự quan tâm lớn lao của công luận. Như tôi đã nhấn mạnh vào dịp bế mạc kỳ Thượng Hội Đồng, tinh thần tập thể của các giám mục được biểu lộ một cách đặc biệt đậm nét trong tiến trình của kỳ Thượng Hội Đồng.
Trong biến cố quan trọng này, chúng ta đã trông thấy Giáo Hội – qua các giám mục – đã qui tụ lại để tái xác nhận công cuộc to lớn của Công Đồng Vatcan II. Hai mươi năm sau khi Vatican II bế mạc, các giám mục tụ họp lại để xem xét các kết quả của Công Đồng, để xem Giáo Hội đã triển khai những sáng kiến và những chỉ dẫn của Vatican II như thế nào suốt hai thập kỷ qua. Chúng ta nhận thấy cần phải dừng lại để suy tư – nhờ đó có thể đánh giá một cách khách quan tình trạng của Giáo Hội trong ánh sáng của Lời Chúa và với sự giúp đỡ của ơn Chúa.
Chúng ta đã qui tụ lại với sự tỉnh thức mới mẻ trong Thánh Thần để chúng ta có thể nhận ra “các dấu chỉ của thời đại” và phác họa một kế hoạch hoạt động mục vụ dựa theo tinh thần hàm chứa trong các văn kiện Công Đồng. Chúng ta muốn nhận ra những gì mình đã thực sự đạt được và những bước nào còn phải được xúc tiến để thực hiện công cuộc lớn lao này của Giáo Hội.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 25-8
THÁNH LUY, THÁNH GIUSE CALASANZ,
Linh mục; Ed 43, 1-7a; Mt 23, 1-12.
LỜI SUY NIỆM: Bấy giờ, Đức Giêsu nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các Kinh sư và các người Pharisêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng dạy. Vậy tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23,1-3).
          Lời căn dặn của Chúa Giêsu mãi đến hôm nay cũng đang là sự thật. Nên mỗi một Ki-tô hữu hãy biết giữ mình, học được những gì trong Kinh Thánh thì phải tin và phải sống cho trọn. Tất cả chúng ta đều đồng trách nhiệm với hàng giáo sĩ trong việc rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng. Thế giới hôm nay đầy những tệ nạn, nhất là sự suy đồi về luân lý; trong đó mỗi chúng ta đều đang có lỗi một phần không nhỏ; vì nói thì rất hay, mà lại không sống những điều đã rao giảng.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
Gương Thánh Nhân
Ngày 25-8
Louis IX

Thánh LUY
(1214 - 1270)
Thánh Luy sinh ngày 25 tháng 4 năm 1214. Cha Ngài là vua Luy VIII và mẹ Ngài là bà Blanche de Castille. Ngài được rửa tội tại Poissy. Để ghi nhớ ơn phúc rửa tội, Ngài thường ký tên là Luy de Poissy.
Ngay từ tuổi ấu thơ, Luy đã được hấp thụ từ nơi người mẹ thánh thiện và đầy nghị lực một nền giáo dục hoàn hảo. Chúng ta sẽ còn nhớ mãi lời khuyên mà người mẹ đạo đức đã nói với con mình: - Con ơi, mẹ yêu con trên hết mọi sự, nhưng mẹ thà thấy con chết ngay bây giờ trước mặt mẹ, còn hơn thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Năm Luy lên 12 tuổi vua cha từ trần, sau 3 năm trị vì. Ngài lên nối ngôi cha. Vì từ nhỏ tuổi mẹ Ngài nắm quyền nhiếp chính. Để bảo đảm, vị thái hậu tinh tế này đã đưa con tới Reims để được phong vương ngày 01 tháng 12 năm 1226. Nhưng điều bà tiên đoán đã xảy ra. Nhiều lãnh Chúa đã chống lại quyền cai quản của thái hậu. Họ không tới dự lễ phong vương. Trong hoàn cảnh này, thái hậu Blanche đã tỏ ra có tâm hồn cương nghị, quyết đương đầu với mọi thử thách. Cũng trong thời gian đầy sóng gió này, ưu tư lớn lao nhất của bà là huấn luyện lòng đạo đức cho người con yêu quí của mình.
Năm lên 20 tuổi, Luy vâng lời mẹ kết hôn với quận công Marguerite miền Provence. Quận công cũng là người nổi tiếng về lòng đạo đức, tinh thần và sắc đẹp. Châm ngôn của nàng là:
- Hoàng hậu của trần gian nhưng là tớ nữ của trời cao.
Năm sau, khi tới tuổi trưởng thành, Luy lãnh lấy quyền cai quản quốc gia. Những người nặng tinh thần thế tục, nghĩ rằng một khi thoát ách của thái hậu, Luy sẽ thông minh theo nếp sống lạc thú xa hoa. Họ lầm. Vua thánh Luy lại càng tỏ ra đạo đức hơn. Hàng ngày Ngài trung thành đọc kinh nhật tụng, tham dự thánh lễ và thăm viếng các nhà thương. Ngoài những ngày giữ chay theo luật buộc, Ngài ăn chay suốt mùa vọng, mọi thứ sáu trong năm và mọi ngày vọng mừng Đức Mẹ.
Có người kêu trách nếp sống đạo đức của Ngài, lấy lẽ rằng nó làm hại cho việc nước. Thánh nhân trả lời: - Nhiều người kỳ cục quá, họ cho việc siêng năng cầu nguyện của ta là một trọng tội và rồi họ sẽ chẳng nói năng gì nếu ta để giờ đi săn bắn vui chơi.
Đi đôi với lòng đạo đức, vua thánh Luy còn bày tỏ lòng thương người một cách đặc biệt. Mỗi chiều thứ bảy, Ngài có thói quen rửa chân cho một số người nghèo khổ tật bệnh và mời họ ăn cơm do chính Ngài thủ tiếp. Vị đại thần bực bội vì thói quen này. Một lần kia Ngài hỏi ông: - Một là bị phong cùi, hai là phạm một tội trọng ngươi chọn đàng nào ?
Viên quan trả lời : - Hạ thần thích 30 tội trọng hơn là bị cùi
Và vua trả lời : - Ngươi dại dột quá, nhà ngươi không biết rằng: còn có một bệnh nào ghê tởm bằng tội trọng, vì phạm tội trọng thì giống hệt như quỉ sứ.
Lòng quảng đại của Vua Luy còn lan rộng tra ngoài biên giới quốc gia. Vua Baudoin II, hoàng đế Contantinôple xin vua Luy trợ giúp và để đền ơn, ông đã biếu cho thánh Luy những báu vật liên quan đến cứu thế, như mão gai mà quân lính đã đội đầu Chúa Giêsu.
Thần dân dưới quyền vua thánh thiện được hưởng an bình thịnh vượng. Dầu vậy ngay vào năm 1242, Hugues de Lusingan nổi loạn, chống lại nhà vua, với sự trợ giúp của đứa con ghẻ là Henry III, vua nước Anh Vua Luy tỏ ra là một người có khả năng lãnh đạo, Ngài đã dẹp tan cuộc nổi loạn với chiến thắng ở Taillebourg.
Cùng với chí can trường, vua Luy còn triệu tập đoàn binh thánh giá hai năm sau đó. Cuộc xuất chinh mang lại thành quả ban đầu với chiến thắng tại Damietta, miền Châu thổ sông Nil. Nhưng vào tháng 4 năm 1250 Ngài trở thành kẻ chiến bại và bị bắt làm tù binh. Được thả, thánh nhân qua Palestina cho đến khi mẹ Ngài qua đời ngày 26 tháng 11 năm 1252, Ngài mới trở về tiếp tục công cuộc trị nước.
10 năm sau, vua Luy xuất chinh lần thứ hai. Tháng 7 năm 1270 Ngài cùng binh sĩ từ Aigues Mortes tới Africa. Nhưng ít tuần sau đó, Ngài mắc bệnh đậu lào và qua đời tại Tunis ngày 15 tháng năm 1270. Một đời sống với Chúa, thánh Luy đã chết trong bình an với lời nguyện dâng mình: - Con tiến vào nhà Chúa, con sẽ tôn thờ Chúa trong thánh điện Ngài và con sẽ tôn vinh danh Chúa.
 (daminhvn.net)
++++++++++++++++++
25 Tháng Tám
Giấc Mơ Của Một Thi Sĩ
Thi sĩ Sully Prudhomme, người Pháp đã có lần tưởng tượng ra một giấc mơ như sau:
Ông mơ thấy một nhà nông bảo ông hãy cầm cày lấy đất, trồng lấy lúa, gặt lấy thóc, làm lấy gạo mà ăn. Ông mơ thấy người thợ dệt bảo ông hãy đánh lấy chỉ, dệt lấy áo mà mặc. Ông mơ thấy người thợ nề bảo ông hòa lấy vữa, xây lấy nhà mà ở. Còn gì nữa? Ông đã thấy mọi người bỏ ông, xa lánh ông, để ông trơ trọi với cảnh vật. Ông kinh hãi. Ông kêu cầu, khẩn hứa nhưng chỉ thấy mãnh thú xuất hiện trên đường.
Có lẽ không có bao nhiêu người đã mơ giấc mơ nói trên. Nhưng chắc chắn nhiều người chỉ nghĩ đến mình, tưởng rằng một mình có thể sống giữa vũ trụ, không cần đến ai, không cần ai giúp đỡ.
Không ai là một hòn đảo. Chúng ta đều bị ràng buộc với mọi người, chúng ta đổi công việc của chúng ta với công việc của người khác, chúng ta phụng sự người vì người đã phụng sự chúng ta.
Nhưng chúng ta không chỉ sống trong tình liên đới về mặt vật chất. Con người còn liên đới nhau về mặt hạnh phúc và đau khổ. Không ai hạnh phúc một mình và không ai một mình có thể chịu nổi sự đau khổ. Nhờ người, ta mới vui và nhờ người, ta mới trút bớt những cơ cực của ta. Thế giới này quá nặng khiến một người có thể mang nổi và sự khổ cực của vũ trụ quá lớn cho một trái tim.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 25
Thánh Luy
Thánh Giuse Calasanz, linh mục



Lạy Mẹ Maria, chúng con kính chào Mẹ, là Con Gái của Thiên Chúa Cha, là Mẹ của Chúa Con, là Hôn Thê của Chúa Thánh Thần, là đền thờ của Thiên Chúa.
 
Lạy Mẹ Maria, chúng con kính chào Mẹ, là Hoa Huệ phản chiếu ánh sáng thường hằng của Chúa Ba Ngôi, là Hoa Hổng rạng rỡ nét đẹp thiên quốc, là Trinh Nữ tuyệt vời, Trinh Nữ trung tín, đã được chọn để sinh hạ và nuôi dưỡng Vua Trời.
 
Lạy Mẹ Maria, chúng con kính chào Mẹ, là Nữ Vương các thánh tử đạo, mà tâm hổn đã bị lưỡi gươm khổ đau đâm thâu, là Nữ Vương hoàn vũ, Mẹ có trọn quyền trên trời dưới đất, là Nữ Vương cõi lòng chúng con, Mẹ dịu hiền, là sự sống, là hạnh phúc, là hy vọng của chúng con. Lạy Mẹ Maria, chúng con kính chào Mẹ, Mẹ đáng yêu, Mẹ đáng kính phục, Mẹ đầy lòng xót thương, Mẹ đầy ơn phúc, Chúa ở cùng Mẹ.
 
Phúc cho con của Mẹ, Thánh Gioan. Phúc cho thiên thần của Mẹ, Thánh Gabriel. Xin chúc tụng Chúa Cha hằng hữu, Đấng đã chọn Mẹ. Xin chúc tụng Chúa Con, Đấng đã yêu mến Mẹ. Xin chúc tụng Chúa Thánh Thần, Đấng đã kết hôn với Mẹ. Phúc cho tất cả những ai chúc tụng và yêu mến Mẹ, đến muôn thuở muôn đời.
Th.Gioan Euđê
Ngày 25 tháng 8
THÁNH LUY HOÀNG ĐẾ
(1214-1270)
THÁNH GIUSE CALASAN LINH MỤC
THÁNH LUY HOÀNG ĐẾ
(1214-1270)
Vua thánh Luy là một tấm gương sáng ngời, phản chiếu những đức tính cao quý của một bậc dân chi phụ mẫu và của một người cha lý tưởng trong gia đình. Ngài đã là một vị thánh sống giữa triều đình hoa lệ, thánh trong gia đình và thánh trong mọi việc lo cho dân an nước thịnh.
Vua Luy sinh tại Poissy ngày 25-04-1214. Thân phụ là vua Luy VIII và thân mẫu là Hoàng hậu Blan Castilla.
Ngay từ tuổi thơ ấu, Luy đã được hấp thụ một nền giáo dục kiện toàn, nhất là về phương diện văn chương. Chính nhờ vốn kiến thức đó mà sau này khi lên ngôi cai trị nước Pháp, ngài đã làm vinh danh cho Giáo hội rất nhiều. Luy mồ côi cha ngay từ lúc cậu mới mười hai tuổi. Bà thân mẫu hằng lo lắng cho cậu sau này trở nên một người cầm quyền đạo hạnh, coi dân trị nước trên nền tảng công bằng, bác ái và trong sự kính sợ Thiên Chúa. Bà đã thuê riêng cho Luy một thầy dạy để bảo ban cậu học hành và dẫn đường thiêng liêng cho cậu. Tất cả đời sống đạo đức thánh thiện của Luy là kết quả của những lo lắng của một người mẹ đạo đức khôn ngoan. Bà luôn luôn nhắc đi nhắc lại cho Luy rằng: “Con ơi, mẹ yêu con trên hết mọi sự, nhưng thà mẹ thấy con chết còn hơn thấy con phạm tội trọng mất lòng Chúa”. Lời nói nồng nàn tha thiết ấy ghi sâu vào tâm khảm Luy, đến nỗi cả đời ngài đã không phạm tội trọng nào.
Lúc tuổi 19, vâng lệnh mẹ, Luy đã kết hôn với cô Margarita, con gái quân công miền Prôvencê và sinh hạ được bốn người con. Luy rất chăm lo đến đời sống đạo đức cho con cái, ngài hằng dạy bảo con cái biết kính yêu Thiên Chúa, ghét tội trọng và khinh chê của cải thế gian. Đời sống gương mẫu của ngài đã ảnh hưởng rất nhiều đến con cái, đến nỗi mỗi thứ sáu, mặc dầu còn bé, chúng cũng xin cha ăn chay hãm mình để bắt chước Chúa chết trên Thánh giá.
Lên nối ngôi cha coi dân trị nước, Luy được dân chúng hết lòng kính phục. Ngài luôn luôn tỏ ra là một con người thanh liêm chính trực, thương dân như thương con, đặt danh dự của Giáo hội cũng như của dân tộc lên trên những từ lợi danh vọng của mình. Cả triều thần ai nấy đều ngạc nhiên và cảm phục cách sống của vua thánh Luy. Hầu như ngài có hết mọi nhân đức, mà nhân đức nào cũng trổi vượt. Ngài xưng tội hằng tuần vào ngày thứ sáu, và sau khi lãnh phép tha tội, ngài thường xin linh mục cho phép dùng dây có buộc nút sắt quất vào lưng, có khi đến chảy máu để đền tội. Nhà vua còn có thói quen rửa chân cho một số những người nghèo khổ, tật bệnh vào mỗi chiều thứ bảy, và tiếp đón họ rất thân mật trong một bữa cơm thanh đạm do chính ngài đãi họ. Nhiều lần thấy ngài quá khiêm nhường như thế, một vị đại quan trong triều tỏ vẻ không bằng lòng, vua liền hỏi vị quan đó rằng: “Ngày thứ năm tuần thánh, khanh có thể rửa chân cho họ không?” - Vị quan đó trả lời: “ Trời ơi, không, không bao giờ hạ thần rửa chân cho những kẻ dơ dáy ấy” – Vua trả lời: “Thật, khanh không nên nói thế, không nên khinh bỉ một việc của Chúa đã căn dặn, dạy bảo chúng ta như một mệnh lệnh. Vậy, trẫm xin khanh hãy vì lòng yêu Chúa và nể trẫm mà tập lấy thói quen lành thánh đó”.
Một hôm vua lại hỏi quan đại thần đó rằng: “Một là bị bệnh hủi, hai là phạm một tội trọng, khanh thích đàng nào hơn?” – “Hạ thần thích ba mươi tội trọng còn hơn bị bệnh hủi” - “Khanh dại dột quá, nhà khanh không biết rằng: Không còn có bệnh nào kinh tởm bằng phạm tội trọng sao? Vì linh hồn phạm tội trọng thì giống hệt như các quỷ Satan”.
Có người trách vua đã quá mất nhiều thời giờ để làm những công việc bác ái, ngài trả lời: “Các khanh kỳ cục quá, các khanh cho sự siêng năng cần mẫn đọc kinh, cầu nguyện của trẫm là một trọng tội. Nếu trẫm dùng gấp hai thời giờ như thế để chơi bài bạc, hay rông ngựa vào rừng săn thú vật, chim muông thì chẳng ai nói sao!”
Nếu vua thánh Luy đã có một khí lực mạnh mẽ để tiến tới trên đường đạo đức, thì ngài cũng không kém hăng hái trong việc coi dân trị nước. Không bao giờ nước Pháp đã được hưởng một sự thịnh vượng, bằng an như dưới triều đại vua Luy. Ngài đã dùng mọi biện pháp để bài trừ những nạn thương luân bại lý, chặn đứng những cuộc vui mại dâm của phường buôn son bán phấn, và ngài là người đầu tiên đã cấm trò dấu gươm ở nước Pháp. Ngài luôn luôn sẵn sàng nghe những nguyện vọng của dân chúng và tìm cách làm cho họ được thoả mãn trong phạm vi có thể được.
Thêm vào đó, vua Luy luôn luôn sẵn sàng tuân phục những mệnh lệnh, cũng như những lời khuyên giải của các Đức Giáo Hoàng. Ngài luôn giao tiếp với các tu sĩ dòng thánh Đaminh và Phanxicô, lĩnh hội thêm ánh sáng của chân lý và đem thực hành trong công việc cai trị quốc gia. Ngoài ra, vua thánh còn cho thiết lập những nhà thương, viện dưỡng lão, trại cô nhi và các dòng, đồng thời cũng cung cấp cho những viện đó đầy đủ các thứ tiện nghi.
Lòng quảng đại, thương người của vua thánh Luy còn lan rộng tới nhiều miền ở Đông phương. Người ta thuật lại rằng, Hoàng đế Contantinô muốn tỏ lòng biết ơn vua thánh Luy vì những sự giúp đỡ vật chất ấy, đã vui lòng biếu thánh Luy những báu vật, những di tích của Chúa Cứu Thế, nhất là vòng gai quân lính đã đội cho Chúa Giêsu. Vua đã cho xây trong cung điện của ngài một gian phòng rất nguy nga tráng lệ để giữ những báu vật đó.
Chúng ta cũng nên biết rằng, mặc dầu hết sức thánh thiện, vua thánh Luy cũng có một tinh thần hiếu chiến. Tinh thần đó đã khiến vua Luy hai lần trong đời mở cuộc nghĩa binh thánh giá để chinh phục những người Hồi giáo.
Vào khoảng cuối năm 1244, vua thánh Luy mắc một cơn bệnh hiểm nghèo thập tử nhất sinh, bà thái hậu rất lo lắng bối rối, không biết chạy liệu làm sao. Bỗng nhiên bà nghĩ đến những di tích thánh của Chúa mà Hoàng đế Contantinô đã biếu vua. Bà liền mang những báu vật đó để sát bên cạnh thân thể bất động của vua Luy. Sau mấy lời kinh sốt sắng, bà quốc mẫu vui mừng sung sướng, vì Chúa đã cứu con bà sống lại. Luy nhớ lại hồng ân Chúa đã ban cho, ngài nhất quyết chiêu mộ nghĩa binh thánh giá để đi chiếm lại đất thánh cho khỏi tay những quân Hồi giáo.
Ngày 12-6-1248, sau khi đã chiêu mộ nghĩa binh và sửa soạn đầy đủ, vua Luy trao quyền nhiếp chánh cho mẹ để khởi công đi chinh phục đất thánh. Bỏ Paris, vua Luy ngừng quân tại Lyon để xưng tội với Đức Giáo Hoàng Innôxentê IV, và xin phép lành toà thánh cho tất cả nghĩa quân.
Ngày 28-8-1248, nghĩa quân bỏ Signe Mortes, và ngày 17-9 năm ấy, nghĩa quân cập bến; đóng quân ở đảo Kyprô. Vua thánh Luy thấy rằng để giải cứu đất thánh khỏi lọt vào tay những quân man di, cần phải chinh phục đất Ai cập. Lập tức nghĩa quân thánh giá tiến đến Damiette. Ở đây, quân Hồi giáo phòng thủ rất kiên cố; vì bãi biển chỗ này không sâu lắm nên phải dùng những ghe, thuyền để tấn công vào bờ, nhưng cuối cùng thuyền, ghe cũng không thể bơi vào được vì cạn quá.
Xung phong: một tiếng hô lớn ở thuyền của vua Luy phát ra, rồi người ta thấy vua Luy đầu đội mũ trận, đeo mộc, thuẫn, tay vung kiếm lao mình theo sóng biển. Thấy vậy, tất cả nghĩa quân đều ổ ạt nhảy xuống khỏi thuyền tấn công vào bờ… Sau mấy tiếng đồng hồ, địch quân chạy tán loạn, mà nghĩa quân không phải giao chiến một trận nào. Toàn thắng, vua thánh Luy cất bài ca tạ ơn Chúa vang cả một góc trời. Nhưng khốn nạn thay, sau khi thắng trận, nghĩa quân đã không tuân theo mệnh lệnh của vua Luy. Họ đã chơi bời phóng đãng, hành hạ kẻ chiến bại rất cay nghiệt. Vua thánh Luy hết lòng lo lắng cho quân sĩ sao cho họ biết đàng ăn ở đạo hạnh, nhưng họ bất chấp. Chính vì thế, Thiên Chúa để họ phải rơi vào tay quân thù. Không quen thủy thổ, các quân sĩ của vua Luy bị bệnh nằm la liệt. Họ đành chịu để cho những kẻ chiến bại hành hung mà không có phương thế nào chống trả. Chỉ còn một cách là nộp mình cho quân man di mới hòng cứu sống được bao nhiêu nhân mạng. Quân sĩ la ó om sòm xin vua Luy cho phép đầu hàng, vì nếu không, họ phải chết đói, chết bệnh hoặc bị quân địch tàn sát. Trước những lời kêu van tha thiết của nghĩa quân, vua thánh Luy vui lòng nộp khí giới đầu hàng quân man di, với điều kiện là không được giết người lính nào.
Lúc này vua thánh Luy lại thành kẻ chiến bại, ngài bị quân man di hành hung dữ tợn. Chúng lột hết quần áo ngài ra, xiềng chân, xích tay và xỉ nhục ngài trăm chiều. Nhưng vua thánh Luy vẫn bình tĩnh, thản nhiên trước tất cả những đau đớn cực hình ấy, không một lời ta thán kêu oan. Chỉ khi nào mà quân ngoại đạo dày xéo thánh giá dưới chân và lăng nhục đạo Chúa Kitô, lúc ấy ngài mới tỏ một thái độ phẫn nộ trên nét mặt. Thái độ quả cảm, lòng nhân từ và quảng đại của vua Luy đã làm cho quân man di hết sức ngạc nhiên. Họ định chọn ngài làm lãnh chúa cho họ, miễn là Luy phải chối bỏ đạo Chúa Kitô. Nhưng vua thánh Luy nào có màng chi đến cái vinh dự hão huyền đó.
Hết thời hạn bị cầm tù, vua thánh Luy còn ở lại Đông phương bốn năm nữa. Trong những năm đó, ngài bôn ba vật lộn đó đây để yên ủi những bổn đạo bị bắt làm nô lệ, dạy bảo lương dân và dẫn đưa họ về chính đạo.
Ngày 26-11-1252, vua Luy được tin mẹ qua đời, ngài nhất định trở về quê hương để thu xếp công việc trong nước.
Nhưng tiếng cầu cứu của giáo hữu Đông phương vẫn còn vang lên mãi vì bị những người Hồi giáo hành hạ, đe dọa phá hoại đức tin. Tiếng kêu đó động lòng trắc ẩn của vua Luy, ngài nhất định chiêu mộ nghĩa quân một lần nữa. Năm 1270 ngài lại cất quân lên đường. Nhưng vua nước Tunisie hứa với ngài là ông sẽ trở về với Kitô giáo nếu vua Luy cho quân xuống Phi châu. Vua thánh Luy vui mừng hớn hở và hy vọng được làm cha đỡ đầu thiêng liêng cho một vị quốc trưởng, nên ngài cho thuyền lái về phía Châu Phi. Nhưng vua đã bị lừa: vừa xuống khỏi tầu, ngài bị vua Tunisie xông đánh, thêm vào đó ngài bị một chứng bệnh kinh khủng, quân lính hết lương, bao nhiêu nguy hiểm đang chờ đợi.
Thấy ngày chết chẳng còn xa, vua thánh Luy cho triệu vời Philippê, người con cả của ngài, và ban cho một huấn lệnh để về thi hành công cuộc coi dân trị nước. Ngài cũng không quên nhắc nhở cho con phải sống đạo đức, thánh thiện, và nhất là xa lánh tội lỗi.
Sau khi ân cần khuyến khích quân sĩ hãy luôn luôn trung thành làm tôi Chúa, xa lánh những thói hung tàn bạo ngược, vua thánh đã giao phó linh hồn trong tay Chúa một cách an bình, thánh thiện. Hôm ấy là ngày 25-8-1270.
-o0o-
THÁNH GIUSE CALASAN LINH MỤC  
Giuse chào đời ngày 16 –9-1556, trong một lâu đài nguy nga tráng lệ, giữa một khung cảnh gia đình thuộc bậc vương giả. Ngay từ lúc còn thơ, Giuse đã được cha mẹ hun đúc cho có một tâm hồn yêu Chúa tha thiết, thích thú cầu nguyện và ghét sợ tội lỗi. Một ít nhà sử học đã lấy làm thích thú kể lại rằng: cậu Giuse từ ngày còn hoi miệng sữa, mới năm tuổi đầu mà đã cảm thấy huyết quản sôi sùng sục vì muốn chiến đấu với Satan quỷ dữ (!). Tay xách gươm, cậu thường băng qua những cánh đồng bao la, cùng với một ít bạn bè để đi giao tranh với quỉ. Lúc này Giuse hết sức ham mê lần hạt Mân côi, và phải quỳ mà lần hạt thì cậu mới lấy làm vừa ý.
Dần dà, hình như cảm thấy muốn làm linh mục, Giuse thường tụ tập một ít bạn học quây quần chung quanh một chiếc bàn thờ mà chính tay cậu bày biện ra. Những lúc các bạn muốn bỏ ra về, Giuse lại dùng những hoa quả, đồ chơi để giữ chúng lại và nhân cơ hội ấy, cậu lại nghiêm trang đứng lên một cái ghế bắt chước linh mục, giảng cho chúng nghe. Để bế mạc những cuộc tụ họp như thế, cậu thường đứng đầu lần năm chục hạt. Chúng ta nên nhớ rằng, Giuse làm những việc đó không phải như những đứa trẻ tinh nghịch, làm, để vui đùa nhạo báng, nhưng cậu làm hết sức nghiêm trang đầy tin tưởng. Thật đúng là một “ông cụ non”. Ngoài ra Giuse còn ham mê đọc hạnh các thánh và bắt chước các ngài cách hãm mình ăn chay. Một điểm đặc biệt nơi con người Giuse là cậu đã giữ đức trinh khiết rất nghiêm khắc. Khi mới lớn lên, câïu nhất định không cho ai động đến thân thể cậu, cả mẹ cậu cũng bị từ chối.
Lớn lên, Giuse được gửi đi thành phố Estadilla để học văn phạm và những môn cổ điển. Lúc này nhân đức và gương sáng của Giuse đã làm cho các bạn học hết sức ngạc nhiên, họ thường gọi cậu là “ông thánh con”. Mười lăm tuổi Giuse đã học xong ban trung học, kết quả hết sức mỹ mãn. Đang tuổi ấy, với sức học ấy và với lòng đạo đức như thế, Giuse hẳn làm cho ông thân sinh rất hài lòng và hy vọng ở cậu rất nhiều. Cha mẹ cậu muốn cho cậu trở nên một sĩ quan trong quân đội để nối lại dòng máu anh hùng của tổ tiên.
Nhưng những vinh dự trần tục không làm cho tâm hồn Giuse toại nguyện. Cậu mong chờ một sứ mạng cao quý hơn xung phong vào nghề binh đao. Vì thế cậu xin đi học triết học tại đại học đường Lerida. Để giữ lấy tâm hồn trong trắng và để đề phòng những dục vọng bất chính của tuổi thanh xuân, Giuse Calasan đã có một chương trình sống rất nghiêm khắc và trung thành tuân theo. Cậu năng chịu các phép bí tích, mỗi ngày chỉ ăn một bữa mà thường chỉ có bánh và nước lã; cậu hãm mình đánh tội để lo phần riêng. Ngoài ra cậu còn lo lắng dạy giáo lý cho những người dốt nát, thăm viếng bệnh nhân, quyên tiền giúp những người nghèo khổ đói rách. Tuy hãm mình nhiều, Giuse vẫn khỏe mạnh và học triết lý rất trôi.
Danh tiếng Giuse càng ngày càng lan rộng. Ông thân sinh nghe biết liền cho phép cậu ở lại Lerida để học dân luật và giáo luật. Nhưng ít lâu sau, Giuse được chịu phép cắt tóc nhập hàng giáo sĩ. Hôm đó là ngày 11-04-1575, một ngày trọng đại trong đời cậu. Nhất định đoạn tuyệt với những thèm khát trần tục, Giuse đến quỳ gối trước bàn thờ Đức Mẹ khấn giữ đức trinh khiết trọn đời. Năm 20 tuổi, Giuse đậu tiến sĩ dân luật và giáo luật, ông thân sinh lại cho Giuse tiếp tục học thần học tại đại học Valencia. Tại thành phố hoa lệ này, ma quỷ không bỏ lỡ cơ hội đến cám dỗ Giuse. Có lần ma quỷ đã dùng một cô gái trẻ măng để làm cho Giuse sa ngã về đức trinh khiết. Nhưng Giuse đã thắng được một cách vẻ vang, và anh hùng. Giuse từ đó bỏ Valencia đến đại học Alcaja tiếp tục học thần học. Lúc ấy một hung tín đến làm cho Giuse hết sức buồn rầu vì nó có ảnh hưởng đến sự quyết định dâng mình cho Chúa của Giuse: Người anh duy nhất của Giuse, một sĩ quan trong quân đội Tây Ban Nha, từ trần và không có người nối dõi tông đường. Thân phụ Giuse đã thiết tha kêu gọi con về. Sau khi đậu tiến sĩ thần học, cậu trở về Pêralta quê cha đất tổ. Giuse vốn luôn vâng lời và kính yêu cha, nên không biết nói năng làm sao để khỏi bị mang tiếng bất hiếu với cha mà vẫn giữ được làm linh mục. Ngài vẫn cương quyết làm linh mục và giữ lời khấn hứa, nên càng hãm mình phạt xác, đêm ngày cầu nguyện với Trinh Nữ Maria cho lời hứa của mình được nên trọn. Và, Đức Mẹ đã nghe con thảo của Người: Giuse ngã bệnh thập tử nhất sinh, tất cả các lang y đều hết hy vọng cứu sống. Thân phụ Giuse buồn rầu, cho phép Giuse khấn sẽ làm linh mục nếu được qua khỏi. Vừa đọc dứt lời khấn, Giuse khỏe mạnh như thường, và sau ít lâu ngài được chịu bốn chức nhỏ.
Giuse được lên bàn thánh Chúa ngày 17 tháng 12 năm 1583. Trong cuộc đời truyền giáo của ngài, thánh nhân luôn luôn phát huy tình bác ái huynh đệ nơi bổn đạo. Mặc dầu còn ít tuổi, cha Giuse đã là cha giải tội cho Đức Giám mục Albarracur, rồi làm cha chính địa phận Urgel. Trong tám năm trời tận tụy làm việc cho địa phận, tài ba và sự thánh thiện của ngài được mọi người biết đến. Hoàng đế Tây Ban Nha đã định đề cử ngài làm Giám mục. Nhưng cha Giuse cảm thấy như có tiếng nói trong thâm tâm rằng: “Giuse, Giuse con hãy đi Rôma”. Cha Giuse nhất quyết nghe theo tiếng gọi ấy, mặc dầu không biết Chúa sẽ trao phó cho sứ mệnh gì. Ngài xin từ chức cha chính, bán gia sản làm phúc cho người nghèo và lên đường đi Rôma.
Sang Rôma, ngài hết sức giữ bí mật, không cho ai biết đến ngài, nhưng những người đồng hương đã giới thiệu ngài với Đức Hồng Y Marcô Antôn Côlôna. Ở Rôma cũng như ở Tây Ban Nha, cha Giuse lúc nào cũng lấy sự cầu nguyện và làm việc thương giúp kẻ nghèo hèn làm thích thú. Ngài thường thức giấc từ nửa đêm, quì gối nguyện ngắm rất lâu trước nhà tạm, đọc kinh từ nửa đêm, đọc kinh nhật khóa rồi đi bộ thăm viếng đủ bảy vương cung thánh đường trong thành Rôma. Như vậy, mỗi buổi sáng ngài thường đi bộ 15 cây số và cuối cùng dừng lại ở mộ thánh Phêrô cầu nguyện hằng mấy giờ liền. Ngày nào ngài cũng chỉ cùng có một bữa cơm rất thanh đạm vào khoảng một giờ chiều. Ngoài ra cha Giuse quên hẳn bản thân mình để xung phong vào những phong trào thương giúp người nghèo khổ, thăm viếng bệnh nhân, tù tội hoặc giảng dạy giáo lý cho những người quê mùa dốt nát. Đối với cha Giuse, cứu được một linh hồn là một món quà rất quí báu dâng lên Chúa.
Sống trong thành Rôma năm năm, cha Giuse đã được chứng kiến nhiều cảnh cơ cực của dân chúng. Ngài thương hại và lo lắng cho số phận những thiếu niên không được giáo dục về phương diện đạo đức và giáo lý. Các trường trung học thì nhiều nhưng cũng chưa dung nạp hết được những thanh thiếu niên hiếu học, vả lại trong những trường ấy lại không mấy ai chú trọng đến việc giáo dục đạo đức cho chúng. Cha Giuse quyết định lập những nhà trường miễn học phí cho học sinh, và lợi dụng cơ hội ấy để dạy cho chúng những bổn phận của con người phải có đối với Thiên Chúa. Nhưng với hai bàn tay trắng ngài làm sao nổi! Cha Giuse đã trình bày ý định của ngài với các bề trên và xin một vài nhà dòng ủng hộ. Nhưng không một vị nào dám đảm nhận công việc đó. Tuy nhiên, là công việc của Chúa, nên cha Giuse nhất định khởi công. Năm 1597, cha đi bộ đến Assisi quì cầu nguyện trên mộ thánh Phanxicô, sau đó ngài được sứ thần hiện ra kêu gọi ngài khấn ba nhân đức: khó khăn, trinh khiết và vâng lời.
Cũng trong năm ấy, cha Giuse được cha sở họ thánh Đôrothêô giúp đỡ xây dựng một trường học miễn phí trong một xóm lại động. Được Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII khuyến khích, cha Giuse ngày đêm lo cho nhà trường có một nếp sống đạo đức cũng như học vấn khả quan. Từ đó cũng có nhiều người hảo tâm giúp công giúp của vào công việc của cha Giuse, lại có nhiều nhà trí thức tình nguyện và dạy học cho cha Giuse mà không đòi một điều kiện gì. Mục đích của trường này trước hết là đào tạo những thiếu niên trở nên những con người có căn bản đạo đức, vì thế ngài gọi trường của ngài là trường “Đạo Đức”. Dần dà ngài đã thiết lập ở Rôma được nhiều trường như thế, mà trung tâm là trường thánh Pantalêô có tới hàng ngàn học sinh. Chúa Quan phòng đã gửi đến cho ngài nhiều người cộng tác, phần nhiều là các linh mục. Các ngài sống chung với nhau như một tu viện thực sự.
Năm 1614, Hội những linh mục triều “Mẹ Thiên Chúa” do chân phước Gioan Leonardi sáng lập năm 1574 ở Lucques muốn sát nhập với hội của cha Giuse. Việc đó làm cho Calasan hết sức vui mừng. Nhưng ít lâu sau, số học sinh càng ngày càng giảm bớt, vì chúng không chịu nổi kỷ luật nghiêm minh của nhà trường. Vì thế năm 1617, các linh mục hội “Mẹ Thiên Chúa” tách khỏi dòng của cha Calasan để đi làm một công tác khác. Lòng Chúa lân tuất đã không bỏ rơi công việc của cha Giuse, dần dần gia đình thiêng liêng của ngài lại thêm đông đúc. Thề rồi năm 1621, gia đình thiêng liêng của cha Calasan đã được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XV chuyển nhận làm một dòng, và chính cha Giuse là người khấn trọng thể thứ nhất. Sau khi được phép lập dòng, Cha Giuse xé nát tất cả những văn bằng tiến sĩ, lấy giấy quấn thành những cái roi để đánh tội và sửa phạt học trò. Nhờ công lao khó nhọc của cha Calasan dòng mới này bành trướng rất nhanh, làm cho các vua chúa các nước đều nức lòng mong đợi cha Calasan đến lập những trường học miễn phí ở nước mình.
Công việc của cha Calasan thật cả là một sự cố gắng lâu dài đầy gian khổ và kết quả thật đáng kể. Nhưng công việc của ngài gầy dựng nên cũng không thoát khỏi những manh tâm quỷ quyệt của ma quỷ, chúng luôn luôn tìm cách phá hoại ngài. Thêm vào đó, một số cộng tác viên của ngài cũng không hiểu rõ sứ mệnh của mình, còn muốn tìm danh vọng ở chốn dòng tu, nên đã gây ra những mối chia rẽ ganh tị trong nhà dòng. Vì thế Đức Giáo Hoàng Innôcentê X đã muốn hạ ‘dòng’ của cha Calasan xuống thành một ‘hội’ mà thôi. Cha Giuse vẫn vui vẻ như thường, lúc ấy ngài đã 90 tuổi. Trong tuổi già, Chúa đã thưởng công cho thánh nhân rất nhiều, ngài đã được trông thấy Đức Mẹ bế Chúa Giêsu hiện đến nhìn xem những học trò của ngài lần hạt, và Đức Mẹ đã giơ tay ban phép lành cho các học sinh của ngài. Lúc ấy ngài nói tiên tri rằng: sau mười năm nữa, dòng của ngài sẽ được thiết lập lại, và sẽ bành trướng nhiều hơn trước. Lời ngài đã được thực hiện, nhưng riêng ngài không được hân hạnh nhìn ngày vẻ vang đó.
Ngày 25.8.1618, sau khi đã lãnh nhận Phép lành của Đức Thánh Cha, thánh nhân đã về hưởng mặt Chúa cách nhẹ nhàng an bình, hưởng thọ 92 tuổi. Tất cả thành Rôma đều để tang ngài. Trong ngày đưa ngài về chốn an nghỉ cuối cùng, biết bao bệnh nhân ở Rôma được khỏi bệnh và đứng dậy đi dự lễ an táng ngài.
Thánh nhân qua đi nhưng nhân đức của ngài còn để lại cho những người cộng tác với ngài, cho bao nhiêu học sinh của ngài. Gương can đảm hy sinh, yêu Chúa yêu người của thánh nhân đã in sâu vào tâm trí mọi người. Ngày nay dòng của ngài đã có hằng mấy ngàn địa điểm và số trường học theo tôn chỉ của ngài đã có tới hằng mấy trăm.
Thứ Bẩy 25-8

Thánh Louis của Pháp

(1226-1270)
K
hi đăng quang làm vua nước Pháp, Louis thề hứa sẽ sống như một người được Thiên Chúa xức dầu, đối xử với người dân như một hiền phụ và là tướng công của Vua Hòa Bình. Dĩ nhiên, các vua khác cũng phải thi hành như vậy. Nhưng Thánh Louis khác biệt ở chỗ ngài thực sự nhìn đến bổn phận làm vua dưới con mắt đức tin. Sau những xáo trộn của hai triều đại trước, ngài đã đem lại hoà bình và công bằng trong nước.
Ngài được tôn vương lúc 12 tuổi, khi cha ngài từ trần. Mẹ ngài cầm quyền trong thời gian khi ngài còn nhỏ. Ðến lúc 19 tuổi, ngài kết hôn với Marguerite ở Provence. Ðó là một hôn nhân hạnh phúc, bất kể tính tình kiêu căng và náo động của bà hoàng hậu. Họ có đến 10 người con.
Khi 30 tuổi, vua Louis "vác thập giá" cho đoàn thập tự chinh. Ðạo quân của ngài chiếm Damietta ở sông Nile nhưng sau đó không lâu, vì bệnh kiết lị và thiếu tiếp viện, họ bị bao vây và bị bắt. Vua Louis và đạo quân được trả tự do bằng cách giao lại thành phố Damietta và nộp một số tiền chuộc. Ngài ở lại Syria trong bốn năm.
Mọi người thán phục ngài với tư cách của một thập tự quân, nhưng có lẽ công trạng lớn lao hơn của ngài là những lưu tâm về sự công bằng trong nền hành chính. Ngài đặt ra các quy tắc cho các viên chức chính quyền, mà sau đó trở thành những chuỗi luật cải tổ. Ngài thay thế hình thức xét xử đầy bạo lực bằng việc điều tra các nhân chứng, và nhờ ngài thúc giục, việc ghi chép lại các chi tiết trong toà được bắt đầu.
Vua Louis luôn luôn tôn trọng quyền bính của đức giáo hoàng, nhưng ngài bảo vệ quyền lợi của hoàng gia chống với các giáo hoàng và từ chối không công nhận bản án của Ðức Innôxentê IV chống với hoàng đế Frederick II.
Vua Louis là người tận tụy cho dân chúng, ngài thành lập các bệnh viện, thăm viếng người đau yếu, và cũng giống như quan thầy của ngài là Thánh Phanxicô, ngài chăm sóc ngay cả những người bị bệnh cùi. Bởi sự thánh thiện và cá tính của ngài, vua Louis đã đoàn kết nước Pháp thời bấy giờ, với đủ loại người -- tướng công, dân thành thị, nông dân, linh mục và các hiệp sĩ. Trong nhiều năm, quốc gia này sống trong an bình.
Vào năm 1267, lo lắng vì những cuộc tấn công mới của người Hồi Giáo vào Syria, vua Louis dẫn đầu cuộc thập tự chinh khác, khi ấy ngài đã 41 tuổi. Chỉ trong vòng một tháng, đạo quân bị tiêu hao nhiều vì bệnh tật, và chính vua Louis đã từ trần ở đất ngoại quốc khi 44 tuổi. Ngài được phong thánh vào 27 năm sau.

Lời Bàn

Thánh Louis là người có ý chí mạnh mẽ và kiên quyết. Lời của ngài thực sự đáng tin, và sự can trường của ngài thật đáng kể. Ðiều đặc biệt nhất là ngài tôn trọng bất cứ ai mà ngài gặp, nhất là những "người bé mọn của Thiên Chúa." Ðể chăm sóc dân chúng, ngài xây dựng nhà thờ, thư viện, nhà thương và cô nhi viện. Ngài cũng đối xử với các hoàng tử một cách thành thật và công bằng. Ngài hy vọng cũng sẽ được đối xử tương tự bởi Vua các vua, là Người mà ngài đã dâng hiến cuộc đời, gia đình và quê hương.


Thánh Giuse Calasan

(1556 -1648)
T
ừ Aragon, là nơi ngài sinh trưởng năm 1556, đến Rôma, là nơi ngài chết lúc 92 tuổi, vận mệnh có lúc mỉm cười cũng có lúc chau mày với thành quả của Giuse Calasan (cũng thường được gọi là Giuse Calasanctius). 
Là một linh mục tốt nghiệp đại học về giáo luật và thần học, với sự khôn ngoan và kinh nghiệm quản trị đáng kính nể, nhưng ngài không màng đến sự nghiệp ấy mà chỉ lưu tâm đến nhu cầu giáo dục của trẻ em nghèo. Vì không tìm được tổ chức nào có thể đảm trách công việc tông đồ này ở Rôma, chính ngài và một vài người bạn đã mở trường để dạy học cho các em nghèo. Kết quả thật không ngờ và nhu cầu ngày càng gia tăng nên cần có một trường sở rộng lớn hơn. Sau đó không lâu, Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII đã giúp đỡ nhà trường, và sự giúp đỡ này được kéo dài cho đến thời Ðức Giáo Hoàng Phaolô V. Nhiều trường sở mới được mở thêm cũng như nhiều người thiện chí khác tiếp tay với công việc, và năm 1621 cộng đoàn này được công nhận là một tu hội (Tu Sĩ Dòng Calasan). Không lâu sau đó, cha Giuse được bổ nhiệm làm giám đốc cho đến mãn đời.
Những thành kiến pha lẫn với tham vọng chính trị và thủ đoạn đã đem lại nhiều xáo trộn cho tu hội. Một số người không thích giáo dục người nghèo, vì họ cho rằng sự giáo dục chỉ làm người nghèo thêm bất mãn vì thân phận thấp hèn của họ trong xã hội! Nhiều người khác căm phẫn khi thấy một số tu sĩ Calasan được gửi đi thụ giáo Galileo (một người bạn của cha Giuse), bởi thế các tu sĩ đã chia rẽ thành những nhóm kình chống nhau. Sau nhiều lần điều tra của ủy ban giáo hoàng, cha Giuse bị giáng chức; và khi sự tranh chấp trong tu hội vẫn còn tiếp tục, tu hội đã bị cấm hoạt động. Chỉ sau khi cha Giuse chết họ mới được phục hồi tình trạng của một tu hội.

Lời Bàn

Không ai biết rõ nhu cầu công việc mà cha Giuse đang làm hơn là chính ngài; không ai biết rõ tính cách vô căn cứ của những lời cáo buộc hơn là chính ngài. Tuy nhiên, nếu ngài muốn hoạt động trong lòng Giáo Hội, ngài biết phải tùng phục đấng có thẩm quyền, và ngài phải chấp nhận sự thất bại nếu không thể thuyết phục được các điều tra viên. Trong khi thành kiến, mưu đồ và sự ngu dốt của nhiều người thường che khuất sự thật trong một thời gian dài, cha Giuse tin rằng, dù dưới những áp lực, tổ chức của ngài sẽ được công nhận và được phép hoạt động. Với sự tin tưởng này ngài đã kiên nhẫn và sẵn sàng tha thứ.

Lời Trích

Ngay cả trong thời gian bị giáng chức, cha Giuse vẫn bảo vệ những người ngược đãi ngài khỏi bị nguy hiểm vì những người ủng hộ nóng tính của ngài; và khi tu hội bị cấm hoạt động, ngài coi như trường hợp của ông Job, là người mà ngài thường tự so sánh: "Thiên Chúa ban và Thiên Chúa lấy đi; chúc tụng danh Chúa!" (Job 1:21b).



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét