Trang

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2012

03-08-2012 : THỨ SÁU TUẦN XVII MÙA THƯỜNG NIÊN


Thứ Sáu Tuần XVII Thường Niên Năm II

BÀI ĐỌC I: Gr 26, 1-9

"Toàn thể dân chúng tập họp trước Thiên Chúa".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Khi Gioakim, con của Giosia vua nước Giuđa mới lên cai trị, thì Chúa phán rằng: "Đây Chúa phán: Ngươi hãy đứng giữa tiền đàng đền thờ Chúa, và bảo mọi thành phố nước Giuđa đến thờ lạy trong đền thờ Chúa, hãy nói cho họ biết tất cả những lời Ta truyền cho ngươi nói với họ: ngươi chớ bớt một lời; may ra ai nấy nghe mà trở lại, và bỏ đàng tội lỗi của mình, mong Ta hối tiếc tai hoạ Ta định giáng xuống họ, vì sự gian ác họ ưa thích. Và ngươi hãy bảo họ rằng: Đây Chúa phán: Nếu các ngươi không nghe Ta để bước đi trong lề luật Ta đã ban cho các ngươi, để nghe lời các tiên tri tôi tớ Ta mà ban đêm Ta chỗi dậy và điều động sai đến các ngươi, và các ngươi không nghe, thì Ta sẽ để đền thờ này như Silô, sẽ khiến thành này bị hết thảy các dân trên địa cầu nguyền rủa".
Các tư tế, các tiên tri, toàn dân đều nghe Giêrêmia nói những lời ấy trong đền thờ Chúa. Khi Giêrêmia nói hết những lời Chúa truyền cho ông nói với toàn dân, thì các tư tế, các tiên tri, và toàn dân bắt ông và nói rằng: "Ngươi phải chết! Tại sao ngươi nhân danh Thiên Chúa mà nói tiên tri rằng: 'Đền thờ này sẽ như Silô, thành này sẽ hoang vu không ai cư ngụ'?" Và toàn dân tập họp phản đối Giêrêmia trong đền thờ Chúa.
Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 68, 5. 8-10. 14

Đáp: Lạy Chúa, xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi (c. 14c).
Xướng: 1) Những kẻ thù ghét con vô cớ, chúng nhiều hơn số tóc trên đầu con. Chúng thực là mạnh thế hơn con, những con người phản hại con trái lẽ: điều mà con không lấy, con cũng phải đền ư? - Đáp.
2) Sở dĩ vì Chúa mà con chịu nhục, và thẹn thò làm nhơ nhuốc mặt con. Con bị những người anh em coi như khách lạ, bị những người cùng con một mẹ xem như kẻ ngoại lai. Sự nhiệt tâm lo việc nhà Chúa khiến con mòn mỏi; điều tủi nhục người ta nhục mạ Chúa đổ trên mình con. - Đáp.
3) Nhưng lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa con. Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. - Đáp.

ALLELUIA: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

PHÚC ÂM: Mt 13, 54-58

"Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường, khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: "Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?" Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: "Không tiên tri nào mà không được vinh dự, trừ nơi quê quán và nhà mình". Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ chẳng có lòng tin. Đó là lời Chúa.


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
THỨ SÁU TUẦN XVII THƯỜNG NIÊN năm II
Bài đọc: Jer 26:1-9; Mt 13:54-58
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ :
Sự thật thường bị bóp méo.
Con người thường không muốn nghe và chấp nhận sự thật vì “sự thật mất lòng!” Chẳng hạn, các dân biểu sẽ không muốn nghe các linh mục nói tới công bằng khi họ đang đối xử bất công để tước đoạt quyền lợi của dân nghèo. Để che đậy tội lỗi của mình, con người thường bóp méo sự thật bằng cách thêm vào hay bớt đi những lời dạy của Thiên Chúa, của các ngôn sứ, hay của các đối thủ của họ.
Các bài đọc hôm nay nêu bật những lý do làm con người không muốn chấp nhận sự thật. Trong bài đọc I, Đức Chúa truyền cho ngôn sứ Jeremiah phải cẩn thận loan báo cho nhà Judah tất cả những gì Ngài truyền và ông đã làm như thế; nhưng họ không những không muốn nghe những lời ông loan báo, mà còn xúm lại bắt ông vì dám tuyên bố những thiệt hại sẽ xảy đến cho Đền Thờ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu về Nazareth để dạy dỗ dân chúng những sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Dân chúng tuy nhận ra sự khôn ngoan tiềm ẩn nơi Ngài; nhưng vì kiêu ngạo và thành kiến, họ đã chối bỏ những gì Ngài dạy dỗ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Hãy tìm hiểu Sự Thật

1.1/ Sự thật đến từ Đức Chúa qua tiên tri Jeremiah: Để tìm hiểu đâu là sự thật, chúng ta hãy cẩn thận xem xét những gì Chúa truyền cho tiên tri Jeremiah nói và những gì tiên tri đã loan báo:
- Lời Chúa phán: “Hãy đứng ở tiền đình Nhà Đức Chúa và ngươi sẽ loan báo cho mọi người của Judah và những người đang đến cầu nguyện trong Nhà Đức Chúa.Hãy loan báo cho chúng mọi lời Ta truyền cho ngươi, đừng bớt lời nào. Có lẽ chúng sẽ nghe và quay trở lại, mỗi người từ con đường xấu xa của mình, và Ta sẽ ngưng những tai hoạ mà Ta đang định giáng trên chúng vì những hành vi gian ác của chúng đã làm.” Ngươi hãy bảo chúng: “Đức Chúa phán như sau: Trừ phi các ngươi chịu nghe Ta mà sống theo Lề Luật Ta đã thiết lập trước các ngươi, và vâng nghe những lời dạy bảo của các ngôn sứ, tôi tớ của Ta, những người Ta sai đến với các ngươi mỗi sáng sớm, Ta đã sai nhưng các ngươi đã chẳng chịu nghe Ta; Ta sẽ đối xử với nhà này như với Shiloh, còn thành này Ta sẽ cho trở nên lời nguyền rủa cho mọi Dân Ngoại khắp nơi trên trái đất.”
- Sau đó, bài đọc I tường thuật: “Các tư tế, các ngôn sứ giả và toàn dân đã nghe ông Jeremiah loan báo những lời này trong nhà Đức Chúa.” Điểm đáng chú ý ở đây là Chúa đã cẩn thận dặn Jeremiah: “Hãy loan báo cho chúng mọi lời Ta truyền cho ngươi, đừng bớt lời nào.”

1.2/ Sự thật Shiloh: Trước khi hòm bia của Thiên Chúa được Vua David di chuyển về Jerusalem, hòm bia của Thiên Chúa được giữ lâu năm ở Shiloh. Trong sách I Samuel, từ chương 4 đến chương 6 có thuật lại lịch sử tại sao hòm bia Thiên Chúa bị di chuyển khỏi Shiloh: Khi quân Israel bị quân Philistine đánh bại ở Êben-ha-Ezer, các kỳ mục của Israel cố vấn cho dân chúng: “Hãy đi lấy hòm bia Thiên Chúa ở Shiloh đặt ở giữa ta để cứu ta khỏi tay quân thù,” và họ đã đi lấy hòm bia. Tuy nhiên, họ đã bị bại trận ngày hôm đó và hòm bia của Thiên Chúa đã rơi vào tay quân thù. Quân Philistines mang hòm bia về Ashdod về đặt bên cạnh đền thờ của họ là Dagon. Cứ mỗi sáng họ thấy thần Dagon nằm xấp mặt trước hòm bia Thiên Chúa của Israel, còn đầu và hai tay của Dagon bị quăng nơi thềm cửa. Chúa còn giáng hoạ trên dân chúng Ashdod bị sưng hạch khiến họ sợ phải gọi người Israel để trả lại hòm bia. Từ Ashdod hòm bia được di chuyển tới Bet-Shemesh, và ở lại Kiriat-Yearim một thời gian lâu trước khi được Vua David di chuyển hòm bia về Jerusalem.

1.3/ Sự thật bị bóp méo bởi người nghe: Sau khi ông Jeremiah đã nói mọi điều Đức Chúa đã truyền cho ông phải loan báo cho mọi người, thì các tư tế, các ngôn sứ giả, và toàn dân túm lấy ông mà bảo: ‘Ông sẽ phải chết!’ vì ông đã dám nhân danh Đức Chúa mà tuyên sấm rằng: ‘Nhà này sẽ nên như Shiloh, còn thành này sẽ ra điêu tàn, không ai cư ngụ!’
Nếu chúng ta cẩn thận đối chiếu những gì Chúa đã truyền cho tiên tri Jeremiah phải nói và những gì toàn dân đã tố cáo ông, chúng ta nhận ra những điều sau:
- Họ đã không đá động gì đến vế đầu của sấm ngôn: “Trừ phi các ngươi chịu nghe Ta mà sống theo Lề Luật Ta đã thiết lập trước các ngươi, và vâng nghe những lời dạy bảo của các ngôn sứ, tôi tớ của Ta, những người Ta sai đến với các ngươi mỗi sáng sớm, Ta đã sai nhưng các ngươi đã chẳng chịu nghe Ta;” mà chỉ chú trọng đến hậu quả của sấm ngôn, “Ta sẽ đối xử với nhà này như với Shiloh, còn thành này Ta sẽ cho trở nên lời nguyền rủa cho mọi Dân Ngoại khắp nơi trên trái đất.”
- Ngay cả việc lặp lại các hậu quả họ cũng đã bóp méo sự thật. Chúa nói: “thành này Ta sẽ cho trở nên lời nguyền rủa cho mọi Dân Ngoại khắp nơi trên trái đất,” trong khi họ nói “thành này sẽ ra điêu tàn, không ai cư ngụ!”
- Tại sao họ không chịu đá động gì đến vế đầu của lời sấm ngôn? Có thể vì họ không nhận ra tội lỗi của họ hay không muốn ai tố cáo tội lỗi của họ. Có thể vì họ ghét Jeremiah đến độ chỉ muốn tìm sơ hở của những gì ông nói để có cớ kết tội ông!

2/ Phúc Âm: Sự Thật bị chết ngạt vì thành kiến và kiêu ngạo

2.1/ Tại sao người đồng hương của Chúa Giêsu không nhận ra sự thật?
(1) Sự thật được hiểu bởi người cùng quê hương Chúa: Chính những người cùng quê hương với Chúa đã nhận ra ngay từ đầu sự khôn ngoan và uy quyền của Chúa khi họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và uy quyền như thế?” Điều họ muốn tìm ra là “bởi đâu” Chúa học được khôn ngoan và uy quyền như vậy?
(2) Sự thật bị gạt bỏ vì kiêu ngạo và thành kiến: Thay vì tìm cho ra nguồn gốc “bởi đâu” để tin vào Chúa họ lại bị kiêu ngạo và thành kiến che khuất để không còn nhìn ra sự thật. Họ kiêu ngạo vì họ không muốn ai hơn mình, và thành kiến vì thói quen khinh thường những người họ đã từng biết và chung sống với. Họ nói: “Ông không phải là con bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em của ông không phải là các ông James, Joseph, Simon và Judah sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao?”

2.2/ Hậu quả của việc chống lại sự thật:
Thay vì tìm hiểu bằng cách hỏi Chúa để được Ngài cho biết lý do bởi đâu Ngài có được khôn ngoan và uy quyền như thế, họ đã để kiêu ngạo và thành kiến che khuất sự thật; và phải lãnh nhận hậu quả do chính họ gây nên. Thay vì “một người làm quan trăm họ được nhờ,” họ đã vấp ngã vì Người. Chúa Giêsu đã nói với họ: “Không có tiên tri nào được hưởng danh dự ở quê hương và trong gia đình mình.” Và Chúa Giêsu rời họ đi chỗ khác vì họ cứng lòng tin.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

- Chúng ta hãy luôn khiêm nhường đi tìm sự thật trước hết. Chúng ta đừng bóp méo sự thật vì bất cứ lý do gì; nếu không, chúng ta phải lãnh nhận những hậu quả tai hại
- Chúng ta đừng để bất cứ thành kiến nào che lấp sự thật. Hãy can đảm bênh vực và sống cho sự thật, vì sự thật sẽ giải thoát.
Lm. An-tôn Đinh Minh Tiên, OP.


 Thứ Sáu tuần 17 thường niên

Sứ điệp: Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người. Ngài đến với chúng ta trong những cái tầm thường và bất ngờ nhất của cuộc sống. Muốn nhận ra Chúa, chúng ta cần có ánh sáng của niềm tin.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, những kẻ đồng hương đã khước từ Chúa vì họ chỉ nhìn Chúa bằng con mắt tự nhiên. Họ thiếu lòng tin. Vâng, con người tự nhiên là thế đó. Với lối nhìn hẹp hòi, con thường đánh giá người khác qua dáng vẻ bề ngoài, qua tiền bạc, nghề nghiệp, học lực… mà không nhìn thấy giá trị thật bên trong con người họ. Hoặc đối với những người thân, con thường đánh giá thấp, vì con sống theo kiểu “gần chùa gọi Bụt bằng anh”. Và nhiều lúc có thể con đã đánh giá chính Chúa như vậy.
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt đức tin cho con để con nhận ra Chúa nơi vẻ bề ngoài khiêm tốn của bí tích Thánh Thể và của Giáo Hội. Xin Chúa mở mắt đức tin cho con, để con có thể nhìn thấy Chúa nơi những người tầm thường nhất. Cũng như những người Na-da-rét, nhiều lúc con đâu ngờ rằng “con người tầm thường” ấy lại là chính Con Thiên Chúa làm người.
Xin Chúa mở mắt đức tin cho con để con nhận biết Chúa vẫn hiện diện với con trong những bất hạnh của cuộc sống. Những khi con gặp rủi ro, những lần con thiếu may mắn, Chúa cùng chia sẻ niềm đau với con. Chính trong những hoàn cảnh éo le ấy, Chúa đến với con thật bất ngờ. Xin Chúa giúp con biết khám phá bóng dáng Chúa trong cuộc đời bình thường, biết lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng, biết nhìn thấy Chúa nơi bất cứ ai và biết sống với Chúa trong cảnh đen tối nhất của cuộc đời. Amen.
Ghi nhớ : "Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"

03/08/12 THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 17 TN 

Mt 13,54-58

PHÁ ĐỔ BỨC TƯỜNG THÀNH KIẾN

Khi ấy, Đức Giêsu về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế?”… Và họ vấp ngã vì Người.” (Mt 13,54-57)

Suy niệm: Phía tây Núi Đền Thờ Giêrusalem ngày nay còn sót lại một đoạn của bức tường thành được cho là được xây dựng thời Hêrôđê, gọi là Bức Tường Than Khóc, bởi vì người Do Thái ngày nay vẫn thường tới đây than khóc cầu nguyện và nhét vào kẽ đá tường thành những mảnh giấy ghi lời cầu của họ xin Thiên Chúa sai Đấng Mêsia đến xây lại Đền Thánh, khôi phục lại vương quốc. Thế nhưng khi Mêsia mà các tiên tri loan báo là chính Con Thiên Chúa đã đến cách đây hơn hai ngàn năm thì họ đã không đón nhận, kể cả những người đồng hương Nadarét với Ngài, bởi vì họ đã không nhận ra thiên tính ẩn giấu dưới dáng vẻ tầm thường của một người thợ mộc nghèo hèn. Chính óc bảo thủ, thành kiến đã là bức tường ngăn cản họ, “và họ vấp ngã vì Ngài.”

Mời Bạn: Bức tường thành kiến vẫn thường che chắn con mắt chúng ta khiến chúng ta không nhận ra giá trị độc đáo của những người chúng ta gặp gỡ thường ngày chung quanh chúng ta. Nếu thế, làm sao chúng ta có thể nhận ra sự hiện diện của Chúa và thánh ý của Ngài trong cuộc sống chúng ta? Để phá đổ bức tường thành kiến cần có thái độ khiêm tốn, bao dung và hy vọng: khiêm tốn để nhận ra những ưu điểm của người khác; bao dung để đón nhận những thiếu sót của họ; và hy vọng vì tất cả chúng ta đều được mời gọi mỗi ngày một sống tốt hơn.

Sống Lời Chúa: Thực hành sống khiêm tốn, bao dung và hy vọng

Cầu nguyện: Hát Kinh Hòa Bình.



Đức Giêsu về quê 
Suy nim:
Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện, ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nadarét dấu yêu với bao kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân xác, trí tuệ, tâm linh.
Nadarét như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse (c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nadarét, phục vụ cho nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nadarét, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế? (cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nadarét lại không quên được nghề nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nadarét vô danh này lại xuất hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nadarét đã không nhận ra hồng phúc mà họ đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối,
trong một Hội thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

"Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?"
Tâm thức thời đại
Dư luận trong giới trí thức Âu Mỹ hiện nay đang nhắc nhiều đến cuốn sách bàn về tương lai nhân loại với tựa đề: "Ngỡ Ngàng Trước Tương Lai", trong đó tác giả nói về những thay đổi nhanh chóng hiện nay trên đời sống con người khiến ông cảm thấy ngỡ ngàng. Theo tác giả thì tâm lý thường tình của con người thích những khuôn sẵn có cho cuộc sống của mình nhờ đó con người dễ ổn định và dự liệu cho những gì xảy ra. Tắt một lời, dù có khuynh hướng sống thay đổi nhưng tận thâm tâm,con người sống và suy tưởng theo những khung sẵn có, và tệ hại hơn theo điều mà chúng ta gọi là thành kiến.
Tâm thức trên đây giúp chúng ta hiểu phần nào biến cố được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trở về giảng dạy tại quê hương của Ngài là Nazareth, nhưng dân chúng tại đây không tin nhận Chúa, bởi vì họ suy tưởng và hành động theo thói quen, theo thành kiến. Họ đã quen với Chúa Giêsu như là con bác thợ mộc Giuse sống giữa họ từ bao năm nay, do đó giờ đây phải nhìn Chúa và đón nhận giáo huấn của Ngài với một tâm thức mới thì họ bị vấp phạm. Quả thật, như lời cụ già Simêon đã nói trong biến cố dâng Chúa vào Ðền thánh: Chúa Giêsu luôn luôn là dấu gợi lên chống đối; trực diện với Ngài, con người phải chọn lựa hoặc tin nhận, hoặc chối từ.
Chúng ta hãy xét lại xem đức tin của chúng ta hiện nay đối với Chúa Giêsu có còn sống động hay đã trở thành một thói quen khô khan, nguội lạnh, chỉ vì quá quen thuộc như dân làng Nazareth ngày xưa? Phải chăng cuộc sống của chúng ta đã trở thành mù quáng hoặc nô lệ cho những thành kiến đến độ không còn tin nhận Chúa và không còn bén nhạy trước tác động của ơn Chúa?
Xin Chúa tha thứ cho thái độ lạnh nhạt của chúng ta. Xin ban Thánh Thần để chúng ta nhìn thấy những dấu chỉ Chúa thực hiện trong đời sống và trong những biến cố hằng ngày để chúng ta luôn tin nhận Chúa.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Nghĩa vụ Ngôn Sứ
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu về sứ vụ ngôn sứ của Chúa Giêsu mà các tín hữu Kitô đều tham dự vào. Sau một thời gian rao giảng làm phép lạ, Chúa Giêsu đã được nhiều người biết đến. Tuy nhiên, khi trở về làng cũ, những người quen biết với Ngài lại chỉ dành cho Ngài một sự tiếp đón lạnh nhạt. Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng là ở chính quê hương mình và gia đình mình. Ðây là lần đầu tiên áp dụng cho mình tước hiệu ngôn sứ; vị ngôn sứ mà Ngài tự đồng hóa là một ngôn sứ bị ngược đãi.
Ý niệm về ngược đãi và ngay cả bị bách hại được Chúa Giêsu nhiều lần nhắc tới trong những cuộc tranh luận với nhóm biệt phái. Nêu bật tư cách bị ngược đãi và bách hại ấy, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng Ngài vẫn tiếp tục truyền thống ngôn sứ trong Cựu Ước. Ðược Thiên Chúa sai đến để thay cho Ngài nói lên sự thật, các ngôn sứ trong Cựu Ước không chỉ nói bằng lời nói mà còn bằng cả cuộc sống của mình. Ðộc đáo nhất hẳn phải là cung cách của một Giêrêmia. Không biết phải dùng lời lẽ nào để tố cáo sự bất trung và phản bội của cả một dân tộc, ông đã đeo một cái gông vào cổ và đi giữa phố chợ. Với cử chỉ ấy, vị ngôn sứ này muốn nói với mọi người rằng chính vì đã xé bỏ giao ước với Thiên Chúa mà họ phải bị xiềng xích trong gông cùm của ngoại bang.
Riêng tiên tri Hôsê thì lại triệt để hơn trong sứ mệnh của mình khi ông đi cưới một cô gái điếm về làm vợ. Với hành động này ông cũng muốn nói với dân Do Thái rằng họ đã bất trung với Thiên Chúa. Không thể chọn lựa thái độ thinh lặng, thỏa hiệp hay sợ hãi, ông đã lên tiếng tố cáo bất công, tội ác hay bạo quyền và hành động của ông đã gây nên phẫn nộ trong dân.
Chính vì thế và cũng như các ngôn sứ trong Cựu Ước; cũng như thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, và nhất là cũng như chính Chúa Giêsu, tất cả những ai dám lên tiếng nói lên sự thật cũng đều được liên kết chung với nhau trong cùng một số phận là bị khinh rẻ, ngược đãi, oán ghét, sỉ vả và khai trừ.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)

Vẫn chỉ có từ chối.
Người về quê, giảng dạy dân chúng trong hội đường của họ, khiến họ sửng sốt và nói: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được nhiều phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Simon và Giu-đa sao?”(Mt. 13, 54-55)
Người ta không còn cảm thấy giật mình khi nghe tư tưởng này: “Giả như hôm nay Chúa Giêsu trở lại với chúng ta…”
Tôi nghĩ rằng, nếu hôm nay Chúa Giêsu trở lại, thì Người cũng sẽ chẳng có được may mắn hơn với những người đồng hương của Người đâu.
Chẳng có được may mắn đâu.
Giả như hôm nay Người trở lại làm người Do-thái? Liệu Người có được những đồng bào của mình ở Giê-ru-sa-lem hay ở Tel-Aviv lắng nghe không? Liệu Người có được các thành viên Liên Hiệp Quốc hay các nghị viện trong các thượng hạ viện của chúng ta lắng nghe không?
Liệu Người có phải dành một chỗ ở sân thế vận hội để công bố sứ điệp của Người không. Còn chúng ta, những người có đức tin, những người tin vào Chúa Giêsu liệu chúng ta có chấp nhận để cho Người thôi thúc ta, chấp nhận sống triệt để sứ điệp của Người chăng?
Chúa có cần đến một bộ máy tuyên truyền để thu hút quần chúng? Có lẽ Người phải làm những phép lạ hoàn toàn “giật gân” như có người nói. Rồi sau màn “trình diễn” và những phép lạ, người ta có nghe Chúa không?
Bởi vì có lẽ Chúa sẽ nói cho ta hay, dù rằng chúng ta chọn sống chế độ nào: tư bản, dân chủ, độc tài, quân phiệt, thì Người cũng sẽ nói: “Lệnh truyền của tôi là anh em hãy yêu thương nhau” Dù anh em là người Phật Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Công Giáo “Anh em hãy yêu thương nhau”
Dù anh em là công nhân của một nghiệp đoàn nào đó, hay dù là ông chủ của xí nghiệp “Anh em hãy yêu thương nhau.” Rồi có lẽ Người sẽ nhắc nhở ta nhớ đến Mười Điều Răn y như Người đã dạy ta vậy.
Giả như Người trở lại.
Người có trở lại không? có lẽ người ta sẽ gọi vấn đề này là một Xì-căng-đan! Ngay trong chúng ta, có nhiều người không tin điều này, họ muốn chúng ta sống trung thực.
Đức Kitô đã chết và đã sống lại, Người đã gửi Thần Khí Người đến với ta để nhắc nhở ta tình yêu Cha Người dành cho ta! Như vậy mà còn không đủ thúc đẩy ta sống yêu thương, thì giả như Chúa Kitô có trở lại, Người cũng chẳng hoán cải nổi chúng ta đâu.


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng 8
3 THÁNG TÁM
Sự Ác Không Thể Lướt Thắng Được Sự Khôn Ngoan Của Thiên Chúa
Chúng ta đã đối diện với những câu hỏi và những tiếng kêu của con người ở mọi thời liên quan đến sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta đã đối diện với thực tại sự dữ và đau khổ.
Lời Chúa tuyên bố rõ ràng rằng “sự ác không thể lướt thắng được sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (Kn 7,30), và rằng Thiên Chúa cho phép sự dữ xảy ra trong thế giới vì sự thiện lớn lao hơn, dù Ngài không muốn sự dữ. Hôm nay chúng ta muốn lắng nghe Đức Giê-su Kitô. Xuyên qua mầu nhiệm Vượt Qua, Người cung ứng câu trả lời đầy đủ cho những câu hỏi dày vò này của con người.
Trước hết, chúng ta hãy suy nghĩ về cách mà Thánh Phaolô loan báo Đức Kitô chịu đóng đinh như là “sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24), trong Người, ơn cứu độ được trao ban cho những người tin. Sức mạnh của Người chắc chắn là một sức mạnh lớn lao kỳ diệu nếu nó được thể hiện trong sự yếu đuối và trong sự sỉ nhục của cái chết thập giá. Và đó là sự khôn ngoan cao vời mà con người không thể biết được nếu không được Thiên Chúa mạc khải cho.
Trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa và trong hoạt động quan phòng cứu độ của Ngài, mọi sự dữ – nhất là sự dữ luân lý tức tội lỗi – trở thành phụ thuộc đối với sự thiện lớn lao hơn gấp bội là ơn cứu chuộc xuyên qua Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Đức Kitô.
Có thể nói rằng trong Đức Kitô, Thiên Chúa “rút sự lành ra từ sự dữ”, sự dữ ấy từng gây nên nỗi đau khổ của Con Chiên hiền lành bị thí bỏ vì tội lỗi thế gian. Phụng vụ của Giáo Hội không ngần ngại nói thẳng về “tội hồng phúc” của chúng ta, tội đã đem lại cho chúng ta ơn cứu độ vô cùng cao cả. Đó là ‘Exultet’- bài ca loan báo tin vui Phục Sinh vĩ đại mà chúng ta hát lên trong phụng vụ Đêm Vọng Phục Sinh.
+++++++++++++++++
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 03-8
Gr 26, 1-9; Mt 13, 54-58.
LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẽ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình và trong gia đình mình mà thôi.” (Mt 13,57)
          Chúa Giêsu về thăm quê nhà Nazarét, nơi Ngài đã lớn lên, và sứ điệp của Ngài muốn trao cho dân mình đã không được những người dân quê nhà đón nhận. Bởi vì họ tự cho là họ đã biết quá rõ lai lịch của Ngài, không những vậy mà họ còn biết rõ từng người một trong gia đình và dòng họ của Ngài. Mặc dù mọi thành viên trong gia đình và dòng họ của Ngài không có điều gì bị phê phán. Đây là một kinh nghiệm cho những Tông Đồ Giáo Dân trong ngày hôm nay. Với tất cả nhiệt tình của mình muốn được phục vụ tại quê nhà, nếu có sự chống đối hay bất hợp tác thì chúng ta cũng phải biết chấp nhận trong yêu thương và cầu nguyện.
Mạnh Phương
++++++++++++++++++
03 Tháng Tám
Dòng Nước Từ Sa Mạc
Có một người Ả Rập nghèo nọ phải băng qua giữa sa mạc trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt gặp một dòng suối. Với tất cả tấm lòng biết ơn, ông ta uống từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào khôn tả. Ông múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp tục cuộc hành trình.
Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ đô Baghdad. Tìm đủ mọi cách để tiếp kiến với quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan tặng vật là chính bầu nước. Quan đầu tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho nước vào trong ly, ông uống cạn và cám ơn người Ả Rập, đồng thời tưởng thưởng ông một cách quảng đại.
Những người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng đây là một thứ nước kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng quan đầu tỉnh nhất mực từ chối... Chờ cho người Ả Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ của mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên rất bẩn vàhôi thối. Quan nghĩ rằng, nếu tất cả mọi người đều uống nước đó và đều tỏ ra khó chịu trước mặt người Ả Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương...
Quà tặng cao quý nhất mà người Ả Rập đã biếu cho quan đầu tỉnh chính là những giọt nước đa cứu sống mình. Quan đầu tỉnh đã tặng cho ông món quà quý giá nhất bằng cách uống lấy nước ông dâng biếu... Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu con người chỉ biết đối xử với nhau bằng những cử chỉ tế nhị và thân ái. Một cử chỉ nhỏ mọn đến đâu, nhưng nếu được làm với tất cả yêu mến sẽ không bao giờ qua đi.
(Lẽ Sống)
++++++++++++++++++
Ngày 03
Thứ sáu đầu tháng
Phẩm chất của sự hiện diện

Thiên Chúa là Đấng Hiện Hữu. Từ "hiện hữu" nói lên nhiều điều, bởi vì "hiện hữu" đi chung với "hành động". Thiên Chúa là Hữu Thể Tối Cao: "Chỉ mình Ngài là Đấng Thánh” Nếu như chỉ mình Ngài là Đấng Thánh, thì sự "hiện hữu" của Ngài là hoàn hảo.Ngài có Sự Sống viên mãn, Ngài là Thiên Chúa bất biến. Từ Hữu Thể thần linh của Ngài tỏa ra một sự hiện diện đang hoạt động trong âm thầm. Sự hiện diện đó xoa dịu, củng cố, kích hoạt, biến đổi, chiếu dọi, soi sáng, khiến cho niềm vui đang triển nở trong cuộc đời chúng ta bất ngờ tỏa ra để đổ đầy con tim anh em đồng loại, và thông ban cho họ một phần nào nguồn phong phú khôn dò của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chẳng kêu lên trong đền thờ Giêrusalem, ít lâu trước khi bị bắt đó sao: "Ai tin vào tôi, hãy đến mà uống. Như Kinh Thánh đã nói: từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những giòng nước hằng sông"? (Ga 7,38). Như vậy, vì Đức Giêsu Đấng Cứu Độ là Hữu Thế thần linh, nên những làn sóng nhiệm mầu đang từ Ngài chiếu tỏa. Ngài chẳng phải là Con Người-Thiên Chúa, Thiên Chúa thật và là người thật đã sinh ra từ cung lòng Đức Trinh Nữ 
Maria sao? Sau khi Nhập Thể, Ngài vẫn không ngừng là Ngôi Hai Thiên Chúa, để từ nơi Ngài, chúng ta nhận được "hết ơn này đến ơn khác". Phần tôi, nếu như tôi có sự bình an, thì sự bình an sẽ từ tôi toả sáng... Cũng vậy, Đức Giêsu, bởi Ngài là Hữu Thể hoàn hảo, nên chỉ có thể thông ban điều thiện hảo.
Andréa Richard

Thứ Sáu 3-8

Vị Ðáng Kính Antôn Margil

(1657-1726)
A
ntôn sinh ở Valencia, Tây Ban Nha. Sau khi gia nhập dòng Phanxicô và được thụ phong linh mục, ngài quyết định trở thành nhà truyền giáo. Khi hội thừa sai Santa Cruz ở Querétaro, Mễ Tây Cơ, được thành lập, Cha Antôn tình nguyện đến làm việc. Khi ngài đến Vera Cruz vào năm 1683, thành phố ấy tiêu điều vì hải tặc tấn công. Ðời sống ở Tân Thế Giới không dễ dàng gì.
Trong 43 năm mục vụ, Cha Antôn ngang dọc khắp lãnh thổ rộng lớn ở Tân Tây Ban Nha. Ngài làm việc ở Costa Rica, Guatemala, Mễ Tây Cơ và Texas. Sau 13 năm làm giám đốc ở Querétaro, ngài thiết lập các hội thừa sai ở Guatemala City và ở Zacatecas, Mễ Tây Cơ.
Tuy Cha Antôn rất quen với sự hy sinh nhưng đời sống truyền giáo vẫn có nhiều cơ hội để hãm mình phạt xác. Ngài phải đi bộ hàng ngàn dặm và phải can trường đối phó với thái độ thù nghịch của người da đỏ.
Năm 1716, các nhà truyền giáo thuộc hội thừa sai Zacatecas thành lập trung tâm truyền giáo Guadalupe ở miền đông tiểu bang Texas. Còn Cha Antôn thì thiết lập các hội thừa sai ở Dolores và San Miguel cũng trong tiểu bang này. Khi cuộc chiến với Tây Ban Nha khiến người Pháp đổ bộ vào miền đông Texas năm 1719, Cha Antôn và các nhà thừa sai rút về Trung Tâm San Antonio (sau này gọi là Alamô), được thành lập vào năm trước đó. Vào năm 1720, ngài bắt đầu thành lập Trung Tâm San José ở San Antonio.
Cha Antôn từ trần ở Mexico City ngày 6 tháng Tám 1726. Năm 1836, ngài được tuyên xưng là đấng đáng kính.

Lời Bàn

Các nhà truyền giáo như Cha Antôn có cuộc sống rất vất vả. Công việc thì khổ cực mà kết quả thì chưa thấy đâu. Cũng như các nhà thừa sai trước đó và sau này, Cha Antôn tin tưởng rằng, Thiên Chúa mới là người sau cùng đem lại kết quả tốt đẹp cho những hy sinh ấy.

Lời Trích

"Nhưng trước khi tất cả các điều ấy xảy ra, thì người ta sẽ bắt bớ và ngược đãi anh em; họ sẽ nộp anh em cho các hội đường và nhà tù, và anh em sẽ bị điệu đến trước vua chúa quan quyền vì danh Thầy... Vậy anh em nhớ đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào; vì chính Thầy sẽ cho anh em tài ăn nói và sự khôn ngoan mà không đối thủ nào có thể chống lại hay phủ nhận được" (Luca 21:12, 14-15).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét