11/09/2016
Chúa Nhật tuần 24 thường niên năm C
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 24 Thường Niên - Năm C
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN NĂM C
(Xh 32,7-11.13-14; 1Tm 1,12-17; Lc 15,1-32)
THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG THƯƠNG XÓT,
NGƯỜI VUI MỪNG TRƯỚC SỰ HOÁN CẢI
NGƯỜI VUI MỪNG TRƯỚC SỰ HOÁN CẢI
“Cha nó chợt trông thấy,
liền động lòng thương” (Lc 15,20b)
liền động lòng thương” (Lc 15,20b)
I.
CÁC BÀI ĐỌC
1-
Bài đọc I (Xh 32,7-11.13-14)
Ngay từ đầu, khi được Thiên
Chúa chọn để lãnh đạo dân Israel và đưa họ ra khỏi Ai cập, Môsê đã thấy trước
được đây là một trách nhiệm nặng nề và khó khăn. Và thật thế, dân Israel, như
Thánh kinh nói, là một dân cứng đầu cứng cổ, hay phàn nàn và nổi loạn. Trong
suốt hành trình họ đã liên tục kêu trách Chúa khi khổ cực hay gặp nguy hiểm, và
ngay cả khi Thiên Chúa bắt đầu ký kết giao ước với họ, họ vẫn không kiên trì
tin tưởng. Như bài đọc I hôm nay kể lại, vì chờ đợi ông Môsê quá lâu, trong khi
Thiên Chúa vẫn ẩn mặt, Israel đã mất niềm tin tưởng, họ đã hoảng sợ, nản chí và
do đó đã gom góp vàng bạc để đúc một con bò và thờ lạy như Thiên Chúa của mình.
Chắc chắn hành động này đã làm cho Thiên Chúa nổi giận và Người muốn trừng phạt
dân tộc bất trung này.
Như mọi lần, Môsê vẫn luôn là
vị trung gian khẩn cầu cho đoàn dân của mình, dù rằng chính ông cũng đã phải
nổi giận với họ. Ông đưa ra bốn lý do để cầu khẩn Thiên Chúa tha thứ cho dân
mình nhưng tất cả đều dựa trên tình thương của Người dành cho dân riêng của
mình. Vì yêu thương Người đã cứu họ ra khỏi Ai cập, lập giao ước với họ, nhất
là Người đã thề hứa từ trước với các tổ phụ là làm cho họ trở thành một dân đông
đảo, cư ngụ trên đất nước rộng lớn. Môsê đã xin Chúa thương xót đừng đoán phạt
dân Israel, kẻo họ phải tiêu diệt. Thiên Chúa lại một lần nữa tha thứ cho dân
Israel, vì Người là Đấng từ bi và nhân hậu, chậm nổi giận và giàu lòng xót
thương.
2-
Bài đọc II (1Tm 1,12-17)
Chính Thánh Phaolô là người đã
cảm nghiệm sâu xa lòng thương xót Chúa đối với ngài. Thánh nhân trong thư gửi
cho Timôthê đã dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về lòng thương xót của Người. Thánh
nhân thú nhận mình đã từng ăn nói lộng ngôn, bạo ngược, bắt đạo, nhưng Thiên
Chúa vẫn kêu gọi ngài phục vụ cho Tin Mừng. Với những tội lỗi xúc phạm đến
Thiên Chúa như vậy, thánh Phaolô cảm thấy mình là người tội lỗi và cần được
Thiên Chúa tha thứ và cứu độ trước tiên, Đức Giêsu đã đến thế gian để thực hiện
chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thánh nhân làm chứng và xác tín về điều
nay, về lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa không loại trừ bất cứ ai, dù
là những người tội lỗi. Điều cần thiết là chúng ta đón nhận lòng thương xót của
Thiên Chúa và quay về với Người. Cuộc đời thánh Phaolô là chứng tá cho lòng
thương xót của Thiên Chúa và cũng là lời mời gọi hoán cải cho mọi người.
3-
Bài Tin Mừng (Lc 15,1-32)
Nếu như chúng ta vẫn thường
nghe nói Tin Mừng theo Thánh Luca là Tin Mừng của tình yêu và lòng thương xót,
thì chương 15 chính là trung tâm của Tin Mừng của lòng thương xót này. Chương
15 còn có thể gọi là chương của “những niềm vui tìm được”. Trong chương này,
tác giả dùng những hình ảnh khác nhau trong ba dụ ngôn để nói về “niềm vui tìm
lại được”: tìm lại con chiên thất lạc, tìm thấy đồng tiền đánh mất và tìm được
đứa con tưởng đã chết mà nay vẫn sống. Tác giả đã dùng những hình ảnh ám dụ này
để diễn tả tình thương và niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi ăn năn hối
cải. Niềm vui dường như hơi bất thường so với thực tế khi người chủ để lại 99
con chiên để đi tìm con chiên lạc, hay vất vả đi tìm đồng tiền đánh mất, để khi
tìm được thì hân hoan và mời xóm làng chung vui. Chỉ khi đọc câu cuối của mỗi
dụ ngôn chúng ta sẽ hiểu tại sao lại có niềm vui này. Con chiên lạc hay đồng
tiền đánh mất là hình ảnh của người tội lỗi, và việc tìm lại được là hình ảnh
của sự hoán cải của những con người này.
Đọc lại Tin Mừng thánh Luca,
chúng ta sẽ thấy là trước ba dụ ngôn “tìm lại được” này, Chúa Giêsu đã kể dụ
ngôn về tiệc cưới với những khách được mời dự tiệc xin kiếu không đến dự. Những
người khách này là dân Israel, là các người đã chu toàn các lề luật Chúa, là
những người nghĩ là mình chắc chắn sẽ được vào Nước Trời và không cần nỗ lực
nào cả. Ba dụ ngôn trong chương 15 có thể được đọc và hiểu trong sự liên kết
với dụ ngôn bữa tiệc. Những người không nằm trong danh sách khách mời, những
người gặp thấy trên đường chính là những người mà người ta nghĩ là không xứng
đáng; có thể nói họ chính là những người thu thuế và tội lỗi trong đoạn Tin
Mừng hôm nay. Nhưng cuối cùng, họ đã được mời và họ chứng minh là mình xứng
đáng hơn cả những người được mời trước đó, vì họ đã mau mắn đáp lời mời gọi, vì
họ đã hoán cải. Những người xem ra không xứng đáng thì lại là những người đón nhận
lời mời, chấp nhận trở nên môn đệ Chúa bằng cách nghe những lời giảng dạy của
Người. Tin Mừng không nói rõ những người thu thuế hay tội lỗi này đã trở nên
tốt hay chưa, nhưng qua việc lui tới nghe Chúa Giêsu giảng, chúng ta nhận thấy
họ đã có sự bắt đầu chấp nhận nên môn đệ của Người. Điều này rõ ràng hơn qua ba
dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Những người thu thuế hay những kẻ tội lỗi
giống như những con chiên lạc, hay những đồng tiền đánh mất đó. Họ đã mất nhưng
Thiên Chúa đã tìm lại được họ.
Thánh sử Luca nói cho chúng ta
biết ba dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra là để trả lời cho những lời xầm xì của những
Pharisiêu và kinh sư khi họ nhìn thấy những người tội lỗi lui tới với Chúa
Giêsu. Họ chê bai Người là giao tiếp với những phường tội lỗi, những người mà
chắc chắn các kinh sư và Pharisiêu khinh bỉ và tránh xa. Họ xem Chúa Giêsu là
Người đã phớt lờ những ranh giới xã hội khi Người tiếp đón những người thu thuế
và tội lỗi như những anh em của Người. Nhưng Thiên Chúa thật sự vui mừng khi
đón nhận những tâm hồn hoán cải trở về với Người.
Hai dụ ngôn về con chiên lạc
và đồng tiền bị mất cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi người, cho dù
chỉ là một con người tội lỗi, bị loại bỏ bên lề xã hội, hay là một người thân
phận yếu đuối. Đối với Người, tất cả đều có ý nghĩa và cần được cứu độ, và thực
tế Ngươi đã đón tiếp họ. Dụ ngôn người con hoang đàng càng cho thấy tình yêu
khoan hồng và lòng xót thương của Người. Dù tội lỗi của người con đã làm cho
trái tim cha già tan nát, hành động của người con đã xúc phạm đến tình yêu cao
vời của cha mình, nhưng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương, luôn sẵn lòng
tha thứ cho những người biết ăn năn hối cải. Niềm hân hoan của người cha già
nhìn thấy con trở về là hình ảnh Thiên Chúa luôn chờ mong người tội lỗi hoán
cải và sẵn sàng đón họ trong vòng tay của Người, khôi phục lại cho họ địa vị
con Thiên Chúa.
II.
GỢI Ý MỤC VỤ
1. Thiên Chúa nhân lành
không bỏ rơi chúng ta dù ta tội lỗi xấu xa, Người vẫn chờ đợi chúng ta ăn năn
hoán cải. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa, để đừng thất
vọng khi phạm tội, nhưng luôn dám thoát ra khỏi tội lỗi, hoán cải và biến đổi
cuộc đời mình.
2. Thánh Phaolô là gương
mẫu cho chúng ta về việc hoán cải và để cho Thiên Chúa dùng mình như khí cụ hữu
ích. Nếu chúng ta có sa ngã, chúng ta cần tin cậy vào Chúa, không để cho những
mặc cảm tội lỗi chôn vùi mình, tách mình ra khỏi xã hội. Chúng ta hãy biết cộng
tác với mọi người để làm những việc thiện điều tốt trong khả năng của mình.
3. Chúng ta phải tránh thái độ
của những người Pharisêu hay kinh sư trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta ai
cũng là người tội lỗi cần được Thiên Chúa thương xót, và chính chúng ta cũng
phải thương xót các anh em xem ra bị xa lánh vì những lỗi phạm công khai. Chúng
ta cần chia sẻ nâng đỡ để cho họ cảm thấy được yêu thương và có thể hoán cải,
thay đổi đời sống.
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ
tế: Anh
chị em thân mến! Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng thương xót, luôn chờ đợi và sẵn
sàng tha thứ cho người tội lỗi biết thật lòng ăn năn trở về. Tin tưởng vào tình
thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng tha thiết cầu nguyện.
1. “Các Thiên Thần của
Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải.” Chúng ta cùng cầu xin cho
mọi thành phần trong Hội Thánh luôn tích cực trở nên dấu chỉ hy vọng và tình
thương tha thứ của Thiên Chúa cho con người trong thế giới hôm nay.
2. Con người thời đại đang chạy
theo đam mê dục vọng mà chối bỏ Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những
người tội lỗi lầm lạc được ơn nhận biết Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót,
luôn ban ơn lành cho tất cả những ai tin cậy vào Người.
3. “Lạy cha, con đã lỗi
phạm đến Trời và đến cha.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi Kitô hữu luôn biết
thường xuyên xét mình, thành tâm sám hối, và siêng năng đến với Chúa qua những
cử hành bí tích để được ân sủng của Chúa tái sinh và biến đổi.
4. “Chúng ta phải ăn mừng, vì em
con đã chết nay sống lại.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng
đoàn chúng ta luôn đoàn kết yêu thương nhau, biết cảm thông chia sẻ với mọi
người, và sẵn sàng góp phần vào những chương trình công ích.
Chủ
tế: Lạy
Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Chúa muốn chúng con theo gương Chúa biết tha
thứ và yêu thương hết mọi người; xin nghe lời chúng con cầu nguyện mà chúc lành
cho những ước nguyện của chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng
con.
SCĐ CHÚA NHỰT XXIV THƯỜNG
NIÊN C
Chủ đề :
Lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa
Người
mục tử đi tìm con chiên lạc (Lc
15,4)
Sợi
chỉ đỏ :
- Bài
đọc I : Thiên Chúa nhân từ tha thứ cho dân Israel đã thờ tượng con bê
vàng.
- Đáp
ca : Lời nguyện sám hối của Tv 50
- Tin
Mừng : 3 dụ ngôn về lòng nhân từ của Thiên Chúa : con chiên lạc, đồng
tiền mất và đứa con đi hoang.
- Bài
đọc II : Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của
Ngài.
I.
Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Chúng
ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những
kẻ tội lỗi biết sám hối. "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được !"
Thánh
lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa : mặc dù chúng ta nhiều
tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta
cùng ăn đồng bàn với Ngài.
Chúng
ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin
Chúa tha thứ.
II.
Gợi ý sám hối
*
Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.
III.
Lời Chúa
1.
Bài đọc I (Xh 32,7-11.13-14)
Đoạn
này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.
Ngay
sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng
cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận.
Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới
từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa
nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.
Trong
chuyện này có 2 điểm đáng chú ý :
-
Môsê đã liên kết với dân : mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng
dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel.
-
Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên
Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu "Thiên Chúa đã thương, không
giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe".
2.
Đáp ca (Tv 50)
Lời cầu
nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì
khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa : "Lạy Chúa xin lấy lòng
nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm".
3.
Tin Mừng (Lc 15,1-32)
Khung
cảnh : thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm
pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho
họ.
Có 3
dụ ngôn : 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị
đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng
cao (1/100 → 1/10 → ½ ). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật,
đồng bạc – người ta thường nói "đồng tiền liền khúc ruột – và 1 đứa con).
Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương
xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết
tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
4.
Bài đọc II (1 Tm 1,12-17)
Thánh
Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài :
-
"Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài
thương xót"
-
"Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là
tôi"
-
"Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại
lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin
vào Ngài".
IV.
Gợi ý giảng
*
1. Giá trị của từng con người
Một hội
từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng
hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm
phương tiện, thuê mướn giáo viên v.v. một hội viên phát biểu : "Chúng
ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao
nhiêu cũng đáng". Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp :
"Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi".
Bài
Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý : ai lại
bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc ? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng
có sức thuyết phục bao nhiêu : một đồng xu có đáng là bao so với công sức
mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó ? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp
lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba : Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con
chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa,
mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi,
cũng đều là con của Ngài.
Tuy
nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa ? Những người pharisêu và các kinh
sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất
công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không
đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó
là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người
đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì
một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế
còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao ? Vì
con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia : nó cô đơn, nó bơ vơ, nó
đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành
không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa
Giêsu đã làm như người mục tử ấy : Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình,
nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ
còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người
pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính
cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô
(bài đọc 2).
*
2. Cái mất là cái quý
Nhiều
người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con
chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được
một đồng bị mất.
Lý do
là : cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng
ta mới thấy quý.
Sự
quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho
ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do
những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn
nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn
do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người
mẹ phải sinh nặng đẻ đau)
Có một
câu chuyện biến ngôn như sau : Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn
rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp : "Vì tôi lạc bị mất một con
chiên". Chúa Giêsu nói : "Để Ta đi tìm nó cho". Một lúc
sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và
căn dặn : "Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những
con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó".
Tất cả
chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc
và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất
là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình
gì ?
- Tâm
tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại.
- Tâm
tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn.
- Và
tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.
*
3. Những con người bị mất
Không
chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất.
Những
con người bị mất ấy là ai ?
- Là
những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang.
- Là
những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo.
- Là
những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời.
- Là
những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau.
- Là
những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa.
- Là
những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo.
Những
con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng
ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.
*
4. Tuyệt đỉnh của yêu thương
Một lần
kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin
ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban
cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói :
- Tại
sao Đức Cha làm như thế ? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài
ôn tồn bảo :
- Anh
em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được ; tôi phải làm gì hơn nữa.
Nói
thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
*
Cũng
như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường
lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này
thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ
ngôn : Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày
tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn
năn.
Còn
gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được ; còn gì sướng hơn khi cái
tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống
trần gian : "Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất". Con
người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng
quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người
không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên
Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi
chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng
rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên
Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng
bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên
Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con.
Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật
vậy, "lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa" (A.
Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của
yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau
khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết : "Lạy
Cha, xin tha cho họ". Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất
nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Thiên
Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi ; nhưng
Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một
đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở
nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng
vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ
cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ
tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới,
một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu
Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta
cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa
em lầm lỗi.
Người
ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối
của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho
những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng
đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết : "Nếu
cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà".
*
Lạy
Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đàng sẽ trống rỗng, và
thế giới này không có thánh nhân.
Xin
cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã
biết tha thứ cho anh em. Amen. (TP)
5.
Chuyện minh họa
a/
Sự tha thứ của Chúa
Một
nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm
cát ướt bước vào túp lều của ông.
- Ông
biết đây là gì không ?
- Nó
giống như cát.
- Ông
có biết tại sao tôi mang nó vào đây không ?
-
Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.
- Đây
là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được
tha thứ tất cả ?
- Bà
hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những
cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha
thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi
và Chúa sẽ tha thứ.
b/
Không cần đếm
Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì
về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp :
không biết. "Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết ? "
Câu trả lời thật ý nhị : "Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ
mặt."
V.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ
tế : Anh chị em
thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người sẵn sàng tha thứ mọi lỗi
lầm của người có tội thật lòng ăn năn thống hối. Tin tưởng vào tình thương tha
thứ của Chúa, chúng ta cùng khẩn khoản nài xin :
1.
Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa
Thánh thần / tuôn đổ đầy trành tình yêu của Người vào tâm hồn mọi thành phần
Dân Chúa / để ai nấy đều trở nên sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết
thảy mọi người.
2.
Hiện nay / có biết bao thanh thiếu niên bỏ nhà đi bụi đời vì rất nhiều
nguyên nhân khác nhau / trong số đó nổi bật nhất là do thiếu tình
thương / và sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ / hoặc cha mẹ bất hòa hay
ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn là tổ ấm tình
thương / là nơi nương tựa cho mọi thành viên của mình.
3.
Thử thách gian truân nhiều khi làm cho con người lâm vào cảnh bế tắc / mất
hết niềm hy vọng để vui sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu /
biết chạy đến cùng Chúa khi gặp buồn phiền đau khổ / để được Người nâng đỡ
ủi an.
4.
Chúa yêu thương tất cả mọi người / không kỳ thị thiên tư / không phân
biệt đối xử với bất cứ ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ
chúng ta / biết luôn noi gương Người trong cách cư xử của mình.
Chủ
tế : Lạy Chúa
Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần, mà đến bảy
mươi lần bảy. Xin ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa dạy.
Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI.
Trong Thánh Lễ
- Trước
kinh Lạy Cha : Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người
Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến,
chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.
VII.
Giải tán
Chúng
ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào.
Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.
Bài
đọc thêm
CÁC
THƯ GỬI TIMÔTÊÔ
* Bài
đọc II các Chúa nhật 25-30
A.
Thư mục vụ
Ba bức
thư I Tm, II Tm và Tt được gọi là thư mục vụ vì chúng được viết gởi cho các mục
tử trẻ để giúp họ hoàn thành trách nhiệm trong Giáo Hội.
B.
Hoàn cảnh và mục đích
- Thư
1 Tm : Sau thời kỳ bị cầm tù lần thứ nhất tại Rôma chấm dứt vào năm 63,
Phaolô đến Êphêxô. Sau đó ông rời Êphêxô đi Makêđoan, để Timôtêô ở lại điều khiển
giáo đoàn này (1 Tm 1,3). Dù vậy Phaolô vẫn quan tâm giáo đoàn Êphêxô và công
việc của Timôtêô nên khoảng năm 65 ông đã từ Makêđoan viết thư này cho Timôtêô.
- Thư
2 Tm : dưới triều Nêron, Phaolô bị bắt lại và bị giam lần thứ hai tại
Rôma. Lần này ông bị đối xử khắt khe, phải "mang xiềng như 1 tên
gian ác" (2 Tm 2,9). Một số người thân của ông xem việc ấy là xấu
hổ nên đã bỏ ông (2 Tm 1,8.12). Phaolô cảm thấy cô đơn. Ông biết ngày chết của
mình sắp đến nhưng ông vẫn tin tưởng, tự coi như 1 lực sĩ điền kinh sắp chạy tới
đích (2 Tm 4,7). Trong hoàn cảnh và tâm trạng ấy, Phaolô viết thư này cho
Timôtêô, nghĩa là viết tại Rôma khoảng năm 67. Sau đó ông bị đem xử tử.
C.
Timôtêô
Timôtêô
sinh tại thành Lystra thuộc miền Lycaonia. Cha là người hy lạp, me là người do
thái tòng giáo. Ông đã theo Phaolô trong cuộc du hành truyền giáo thứ 2. Trong
chuyến này Phaolô đã khuyên ông cắt bì (Cv 16,1-3). Từ đó ông luôn sát cánh với
Phaolô và trở nên đệ tử ruột của Phaolô.
Khi
Phaolô bị đuổi khỏi giáo đoàn Thêxalônikê vừa mới thành lập, Phaolô rất lo lắng
cho giáo đoàn non trẻ này nên phái Timôtêô trở lại đó quan sát tình hình (xem lại
thư 1 Tx), và Phaolô rất vui mừng khi Timôtêô trở về báo cáo tình hình tốt đẹp.
Về sau khi giáo đoàn Côrintô chống đối Phaolô, ông lại sai Timôtêô đến đó dàn xếp.
Nhưng lần này Timôtêô không thành công (xem lại thư 1 Cr). Trong những ngày ngồi
tù và sắp bị xử tử, Phaolô nhớ thương Timôtêô mong được gặp ông này lần cuối (2
Tm 4,9) nhưng không biết Phaolô có được toại nguyện không.
Tóm lại,
trong trái tim Phaolô, Timôtêô có một vị trí đặc biệt hơn những người khác,
cũng như Philíp có một vị trí đặc biệt hơn những giáo đoàn khác : Phaolô
chẳng những xem Timôtêô như một đệ tử, mà còn như một đứa con mà ông hết lòng
yêu thương, chỉ bảo.
D.
Nội dung
Phaolô
không triển khai những luận đề thần học cao sâu mà chỉ nhắc lại vài điều giáo
lý cơ bản cụ thể, và đưa những lời khuyên thực tế thích hợp với hoàn cảnh và
nhiệm vụ của Timôtêô. Những nhắc nhở về các điểm giáo lý cơ bản thì dĩ nhiên
luôn có giá trị cho mọi thời. Còn những chỉ dẫn cụ thể cho hoàn cảnh thì có một
số tới nay vẫn còn giá trị và một số đã lỗi thời.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật XXIV Thường Niên (C)
Chúa
Nhật, 11 Tháng 9, 2016
Những
dụ ngôn về vật bị mất
Gặp
gỡ Thiên Chúa trong đời sống
Lc
15:1 – 32
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh
sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá
ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
Chúa hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng
Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng
ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của
Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần
đến với chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bài
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta ba dụ ngôn để giúp chúng ta suy xét một cách sâu
xa hình ảnh Thiên Chúa của chúng ta. Hình ảnh mà một người có về Thiên
Chúa ảnh hưởng lớn lao trong cách suy nghĩ và hành động của người ấy. Ví
dụ, hình ảnh Thiên Chúa như là một quan tòa nghiêm khắc làm sợ hãi người ta và
khiến cho người ấy trở nên quá phục tùng và thụ động hoặc nổi loạn và phóng
đãng. Hình ảnh Thiên Chúa như là người tộc trưởng hoặc ông chủ, đã và vẫn
còn được sử dụng để hợp thức hóa các mối liên hệ của quyền lực và thống trị,
trong xã hội và trong Giáo Hội, trong gia đình cũng như trong cộng đoàn. Vào thời
Chúa Giêsu, ý tưởng mà người ta đã có về Thiên Chúa có phần hơi xa cách, nghiêm
khắc, một vị quan tòa phán xét hăm dọa với sự trừng phạt. Chúa Giêsu mặc khải một
hình ảnh mới về Thiên Chúa: Thiên Chúa như một người Cha, đầy nhân ái với
tất cả mọi người và cho từng cá nhân. Đây là những gì ba dụ ngôn muốn nói
với chúng ta.
Khi đọc,
các bạn hãy cố gắng tạm dừng lại mỗi chi tiết và, hơn hết, hãy để cho Lời Chúa
thấm nhập và thách thức bạn. Hãy thử khám phá những điểm tương đồng và thử
so sánh điều này với hình ảnh về Thiên Chúa của bạn. Rồi sau đó, bạn hãy
thử phân tích các chi tiết của từng dụ ngôn: thái độ, hành động, lời nói,
nơi chốn, khung cảnh, v.v.
b)
Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc
15:1-2: Ý chính của ba bài dụ ngôn
Lc
15:3-7: Trong dụ ngôn đầu tiên, bạn được mời gọi đi tìm
con chiên lạc
Lc
15:8-10: Trong dụ ngôn thứ hai, người phụ nữ cố gắng đi
tìm đồng tiền đã mất
Lc
15:11-32: Trong dụ ngôn thứ ba, người cha cố gắng đi tìm
người con đã mất
Lc
15:11-13: Quyết định của người con thứ
Lc
15:14-19: Tâm trạng thất vọng của người con thứ và ý muốn trở về nhà Cha
Lc
15:20-24: Nỗi vui mừng của người Cha khi tìm lại được người con thứ
Lc
15:25-28a: Phản ứng của người con cả
Lc
15:28b-30: Thái độ của người cha đối với người con cả và câu
trả lời của người con
Lc
15:31-32: Câu đối đáp cuối cùng của người Cha
c)
Phúc Âm:
1 Khi ấy, những người thu thuế và những
người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. 2 Thấy
vậy, những người Biệt Phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những
kẻ tội lỗi và ăn uống với chúng." 3 Bấy giờ Người
phán bảo họ dụ ngôn này: 4 "Ai trong các ông có một
trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con kia trong
hoang địa mà đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm được sao? 5 Và
khi đã tìm thấy, người ấy vui mừng vác chiên lên vai. 6 Về
đến nhà, kêu bạn hữu và những người hàng xóm lại, và nói rằng: "Xin
chung vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc! 7 Cũng
vậy, Tôi bảo các ông hay: trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải
hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
8 "Hoặc người phụ nữ nào có mười
đồng bạc, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, quét nhà và tìm kỹ
lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? 9 Và khi đã tìm thấy,
bà mời các chị em bạn và những người hàng xóm đến mà rằng: "Chị em hãy vui
mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã đánh mất.” 10 Cũng
vậy, Tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội
lỗi hối cải."
11 Rồi Người lại phán rằng: "Một
người kia có hai con trai. 12 Người con thứ đến thưa với
cha rằng: "Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con.” Và
người cha đã chia của cải cho các con. 13 Ít ngày sau, người
em thu nhặt tất cả tiền của mình rồi trẩy đi phương xa và ở đó ăn chơi xa xỉ,
phung phí hết tiền của. 14"Khi nó tiêu hết tiền của,
thì vừa gặp nạn đói lớn xảy ra trong miền đó và nó bắt đầu lâm cảnh túng thiếu; 15 nó
vào giúp việc cho một người trong miền; người này sai nó ra đồng chăn
heo. 16 Nó ao ước ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng
cũng không ai cho. 17 Bấy giờ nó hồi tâm và tự nhủ:
"Biết bao nhiêu người làm công ở nhà cha ta được ăn dư dật, mà ta ở
đây phải chết đói! 18 Tôi muốn ra đi, trở về cùng cha tôi
và thưa với người: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; 19con
chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người
làm công của cha.” 20 Thế rồi nó ra đi và trở về với cha
nó. 21 Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy;
liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu. Người
con trai lúc đó thưa rằng: "Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha,
con không đáng được gọi là con cha nữa.” 22 Nhưng người
cha liền bảo với các đầy tớ: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu,
hãy xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. 23 Hãy
bắt con bê béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! 24 Vì
con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.” Và họ bắt đầu
ăn uống linh đình. 25 "Lúc ấy người con cả đang
ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 anh
gọi một người đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. 27 Tên
đầy tớ nói: "Đó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì
thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ.” 28 Người anh cả liền
nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào; 29 nhưng
anh trả lời: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và không hề
trái lệnh cha một điều nào, mà chưa bao giờ cha cho riêng con một con dê con để
con ăn mừng với chúng bạn. 30 Còn thằng con của cha kia,
sau khi đã phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về, thì cha
lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó.” 31"Nhưng
người cha bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của
con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn tiệc mừng, phải vui vẻ, vì
em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy."
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời
Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Trong ba bài dụ ngôn, dụ ngôn nào
bạn thích nhất và làm bạn cảm động nhất? Tại sao?
b) Điểm chính của dụ ngôn con chiên
lạc là gì?
c) Điểm chính của dụ ngôn đồng tiền
bị mất là gì?
d) Người con thứ có thái độ gì và
anh ta có hình ảnh gì về cha mình?
e) Người con cả có thái độ gì và anh
ta có hình ảnh gì về cha mình?
f) Người cha có thái độ ra sao về mỗi
người con của ông?
g) Tôi nhận thấy mình giống như người
con thứ hay người con trưởng? Tại sao?
h) Ba bài dụ ngôn này có chung điểm
gì?
i) Cộng đoàn chúng ta có tỏ lộ cho
người khác thấy tình yêu Thiên Chúa như người Cha đầy lòng nhân từ này chưa?
5.
Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề
a)
Bối cảnh thời ấy và bây giờ:
Chương
15 của Tin Mừng theo thánh Luca giữ một vị trí quan trọng trong cuộc hành trình
dài của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem. Cuộc hành trình này bắt đầu tại
câu Lc 9:51 và kết thúc ở câu Lc 19:29. Chương 15 giống như phần đỉnh đồi
mà từ đó chúng ta có thể nhìn thấy cuộc hành trình đã đi qua và phần còn lại sắp
tới. Đây là chương nói về lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa, những
chủ đề được xem là mối quan tâm chính của tác giả Luca. Các cộng đoàn phải
là sự mặc khải về gương mặt này của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Ở đây
chúng ta có ba dụ ngôn. Các bài dụ ngôn của Chúa Giêsu có một mục đích
chính xác. Những câu chuyện ngắn này rút ra từ đời sống thực cố gắng dẫn
dắt người nghe phản ảnh trên cuộc sống riêng của họ và khám phá ra ở đó một
khía cạnh cụ thể về sự hiện diện của Thiên Chúa. Trong các dụ ngôn, có
hai loại câu chuyện của đời sống. Một số câu chuyện không bình thường và
không thường xảy ra trong đời sống hằng ngày. Ví dụ, lòng nhân từ của người
cha đối với người con thứ là không bình thường. Nói chung, các người cha
thường có hành động nghiêm khắc hơn nhiều đối với những đứa con hành xử như người
con thứ trong bài dụ ngôn. Các câu chuyện khác thì bình thường và là những
sự việc bình thường trong cuộc sống thường nhật, ví dụ, thái độ của người đàn
bà quét nhà để đi tìm đồng tiền bị mất. Như chúng ta sẽ thấy, đây là những
cách khác nhau thúc giục người ta suy nghĩ về cuộc sống và về sự hiện diện của
Thiên Chúa trong cuộc sống.
b)
Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:
Lc
15:1-2: Ý chính của ba bài dụ ngôn
Ba
bài dụ ngôn trong Chương 15 được dẫn trước bởi dữ kiện này: “Những người
thu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng.
Thấy vậy, những người Biệt Phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: ‘Ông này đón tiếp
những kẻ tội lỗi và ăn uống với chúng!’” (Lc 15:1). Một bên là những
người tội lỗi và những người thu thuế, còn bên kia là những người Biệt Phái và
luật sĩ, và đứng ở giữa hai nhóm là Chúa Giêsu. Điều này cũng xảy ra vào
những năm 80 khi Luca đang viết sách Tin Mừng của ông. Những dân ngoại tiếp
cận với các cộng đoàn, họ muốn gia nhập và tham gia vào cộng đoàn. Nhiều
người anh em trong cộng đoàn phàn nàn rằng việc thâu nhận dân ngoại là chống lại
lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Các bài dụ ngôn đã giúp họ nhận thức.
Trong cả ba dụ ngôn chúng ta thấy có điểm tương đồng: cho thấy phải làm
gì để lấy lại những gì đã mất: con chiên lạc (Lc
15:4-7), đồng tiền bị mất (Lc 15:8-10), hai người con
đã mất (Lc 15:11-32).
Lc
15:3-7: Trong dụ ngôn đầu tiên, bạn được mời gọi đi tìm con chiên
lạc
Chúa
Giêsu nói với những người đang nghe: “Nếu một trong các ông có
một trăm con chiên …” Người nói “một trong các ông”. Điều này
có nghĩa là các bạn bị thách thức! Các bạn, ông ấy, bà ấy,
tất cả chúng ta bị thách thức! Chúng ta được kêu gọi thách thức chính
mình với câu chuyện kỳ lạ và khó tin của bài dụ ngôn. Chúa Giêsu hỏi:
“Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín
mươi chín con kia trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm được
sao?” Bạn trả lời ra sao với câu hỏi của Chúa Giêsu? Cách câu hỏi
được đặt ra, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu nghĩ đến câu trả lời phải là tích cực.
Nhưng nó có sẽ được như vậy không? Nó có sẽ là một câu trả lời tích cực hay
không? Bạn sẽ có đủ can đảm mà bỏ mặc chín mươi chín con chiên để đi tìm
con chiên lạc không? Tôi nghe thấy một câu trả lời khác trong lòng: “Xin
lỗi nhá, tôi không thể nào làm như vậy được. Sẽ thật là ngớ ngẩn nếu để lại
chín mươi chín con chiên trong hoang địa để đi tìm một con chiên lạc!”
Nhưng tình yêu Thiên Chúa thì vượt hẳn mọi quy luật của cách cư xử thông thường.
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm một việc điên rồ như vậy, thật khác đời, lối
cư xử thật bất bình thường so với loài người. Bối cảnh của bài dụ ngôn
này là lời chỉ trích của các người luật sĩ và Biệt Phái đối với Chúa Giêsu (Lc
15:2). Họ tự cho mình là hoàn hảo và khinh khi những người khác, cáo buộc
người khác là những phường tội lỗi. Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo các ông hay:
trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người
công chính không cần hối cải”. Ở một nơi khác Chúa nói: “Những người
thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông! (Mt
21:31) Theo như lời Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ vui mừng hơn với sự hối cải
của một người tội lỗi hơn là của chín mươi chín người Biệt Phái và luật
sĩ. Thiên Chúa sẽ vui mừng hơn với sự hối cải của một người vô thần chưa
hề bao giờ đến nhà thờ hơn là của chín mươi chín người tự coi mình là người
Công Giáo thuần thành và ngoan đạo mà khinh thường những người vô thần và gái
mãi dâm. Hình ảnh Thiên Chúa khác biệt này mà Chúa Giêsu đưa ra trước những
luật sĩ, người Biệt Phái và tất cả chúng ta thì quả là gây lúng túng!
Lc
15:8-10: Trong bài dụ ngôn thứ hai, người phụ nữ đi tìm đồng tiền
đã mất
Bài dụ
ngôn này thì khác. Câu chuyện ngắn về đồng tiền đánh mất để ám chỉ những
hành động bình thường của một người đàn bà nghèo không có nhiều tiền. Người
đàn bà trong dụ ngôn chỉ có vỏn vẹn mười đồng tiền bạc. Trong thời gian ấy,
một đồng tiền bạc thì trị giá lương của một ngày lao động. Đối với những
người đàn bà nghèo khó, mười đồng tiền bạc quả là một số tiền lớn! Đó là
lý do tại sao, nếu họ bị mất một đồng tiền, họ sẽ đi tìm kỹ lưỡng và quét khắp
nhà cho đến khi họ tìm thấy. Và khi tìm thấy, họ sẽ hạnh phúc vô
cùng. Người đàn bà trong dụ ngôn nói với những người hàng xóm của
bà: “Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã đánh
mất!” Những người nghèo khi nghe kể về câu chuyện này sẽ nói: “Đúng
đấy! Đó là điều chúng tôi sẽ làm tại nhà! Khi chúng tôi tìm được đồng
tiền đã mất, chúng tôi vui mừng khôn tả!” Vâng, nếu chúng ta có thể hiểu
như niềm hạnh phúc lớn lao của những người đàn bà nghèo khó khi tìm thấy được đồng
tiền đã mất, thì niềm vui mừng của Thiên Chúa sẽ lớn lao hơn khi một người tội
lỗi ăn năn hối cải!
Lc
15:11-32: Trong bài dụ ngôn thứ ba, người cha cố gắng đi tìm người
con đã mất
Bài dụ
ngôn này rất nổi tiếng. Nó nhắc nhở chúng ta về những việc xảy ra trong
cuộc sống cũng như những chuyện khác không xảy ra. Tiêu đề truyền thống của
bài dụ ngôn này là “Đứa Con Hoang Đàng”. Thật ra, bài dụ ngôn không chỉ
nói về người con thứ, mà nó mô tả thái độ của cả hai người con, nhấn mạnh đến nỗ
lực của người cha muốn tìm lại hai người con đã mất của ông. Sự kiện mà
Luca để bài dụ ngôn này vào chương giữa của sách Phúc Âm của ông cho chúng ta
biết tầm quan trọng của nó như thế nào trong việc giải thích toàn bộ sứ điệp chứa
đựng trong Tin Mừng của Luca.
Lc
15:11-13: Quyết định của người con thứ
Một
người cha có hai con trai. Người con thứ đến xin người cha chia gia tài
cho nó. Người cha đã chia của cải cho các con. Người con cả lẫn người
con thứ đều nhận phần gia tài của mình. Được thừa hưởng một cái gì đó
không phải là vì công trạng cá nhân. Đó làm một món quà cho không.
Thừa kế gia tài của Thiên Chúa được chia sẻ như là những món quà tặng cho tất cả
nhân loại, người Do Thái và dân ngoại, các Kitô hữu và không Kitô hữu. Tất
cả đều được thừa hưởng gia tài của Chúa Cha. Không phải tất cả ai cũng gìn
giữ phần gia tài của mình cùng một cách. Vì thế, người con thứ đã trẩy đi
xa và phung phí phần gia tài của nó bằng cách sống một cuộc sống ăn chơi và
quên bẵng người cha của mình. Dụ ngôn chưa đề cập đến người con cả cũng
nhận phần gia tài của mình. Sau đó, chúng ta biết là người con cả ở lại
nhà, tiếp tục cuộc sống của anh ta như bình thường và làm việc ngoài đồng.
Trong thời đại của Luca, người con cả đại diện cho các cộng đoàn đến từ Do Thái
giáo; người con thứ đại diện cho các cộng đoàn đến từ dân ngoại. Ngày
nay, ai là người con thứ và ai là người con cả? Hay là có thể cả hai đều
hiện hữu trong mỗi một người chúng ta?
Lc
15:14-19: Tâm trạng thất vọng của người con thứ và ý muốn trở về
nhà Cha
Nhu cầu
ăn uống đã khiến cho người con thứ mất sự tự do và trở thành một kẻ nô lệ, đi
chăn heo. Anh ta bị đối xử tệ bạc hơn heo nữa. Đây là tình cảnh của
hàng triệu người nô lệ trong đế quốc La-mã vào thời thánh Luca. Tình cảnh
này nhắc nhớ người con thứ lại cảnh nhà Cha nó: “Có biết bao nhiêu người
làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi ở đây phải chết đói!”
Anh ta thấy cuộc sống của mình như thế và quyết định trở về nhà. Thậm chí
anh ta còn chuẩn bị sẵn những lời để nói với Cha anh: “Tôi sẽ rời chỗ này
và trở về với cha và nói: Thưa Cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến Cha;
con không đáng được gọi là con cha nữa; xin cha đối xử với con như một người
làm công của cha!” Người làm công làm những gì anh ta được sai làm, theo
đúng luật lệ của tôi tớ. Người con thứ muốn tuân theo luật lệ, như những
người Biệt Phái và luật sĩ muốn làm trong thời của Chúa Giêsu (Lc 15:1).
Đây là những gì mà các nhà truyền giáo Biệt Phái đã áp đặt trên các dân ngoại
khi họ cải đổi theo đạo Thiên Chúa của Abraham (Mt 23:15). Trong thời đại
của thánh Luca, các Kitô hữu có gốc từ Do Thái giáo muốn các Kitô hữu gia nhập
từ ngoại giáo phải tuân theo các tục lệ của người Do Thái (Cv 15:1).
Lc
15:20-24: Nỗi vui mừng của người Cha khi tìm lại được người con
thứ
Dụ
ngôn nói rằng khi người con thứ còn ở đằng xa, người cha chợt trông thấy, ông
chạy lại và ôm choàng lấy cổ anh ta một hồi lâu. Chúa Giêsu cho chúng ta
một ấn tượng là người cha đã chờ đợi bên cửa sổ lâu lắm rồi, trông ra đường, cố
gắng ngóng xem liệu con của ông có xuất hiện ở cuối đường không! Theo lối
cảm xúc và suy nghĩ của chúng ta, niềm vui mừng của người cha có vẻ hơi quá
đáng. Ông đã không để cho người con nói hết những gì anh ta đã chuẩn bị.
Ông không muốn nghe! Người Cha không muốn con của mình trở thành một kẻ
nô lệ. Ông muốn anh ta là con của ông! Đây là Tin Mừng tuyệt
vời mà Chúa Giêsu đã mang lại! Một áo mới, giày mới, nhẫn đeo tay, con
bê, yến tiệc! Trong niềm vui lớn lao của buổi tao phùng này, Chúa Giêsu
cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về nỗi buồn phiền nặng trĩu của người Cha
khi mất đi một đứa con. Thiên Chúa đã vô cùng buồn phiền và bây giờ người
ta bắt đầu ý thức được điều này khi họ thấy sự mừng rỡ khôn xiết của người Cha
khi được trông thấy con mình lần nữa! Niềm vui này được chia sẻ với tất cả
mọi người tại bữa tiệc mừng mà người Cha đã bảo các người làm dọn ra.
Lc
15:25-28a: Phản ứng của người con cả
Người
con cả trở về sau khi làm việc ở ngoài đồng và thấy trong nhà có yến tiệc.
Anh ta không vào nhà. Anh muốn biết chuyện gì đang xảy ra. Khi được
cho biết lý do của việc ăn uống linh đình, anh ta nổi giận và quyết định không
vào nhà. Tự cô lập, người con cả chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình.
Anh ta không đồng ý với việc mở tiệc ăn mừng và không thể hiểu được nỗi
vui mừng của người Cha. Điều này ngụ ý rằng anh ta đã không hiểu Cha lắm,
dù rằng họ sống chung dưới một mái nhà. Nếu anh hiểu Cha mình, thì anh đã
ý thức được nỗi buồn phiền to tát của người Cha khi mất đi đứa con thứ và sẽ hiểu
nỗi vui mừng của Cha khi thấy con trở về. Bất cứ ai quá quan tâm đến việc
tuân giữ luật Thiên Chúa thì có nguy cơ chính mình sẽ lãng quên Thiên
Chúa! Người con thứ, ngay cả lúc nó ở xa nhà, dường như hiểu Cha nó hơn
là anh nó, người cùng sống chung nhà với cha! Do đó, người con thứ đã có
đủ can đảm để trở về nhà Cha, trong khi người con cả lại không thèm vào
nhà! Người con cả không muốn làm một người anh, đã không nhận thức được rằng,
không có mình, Cha sẽ sầu khổ, bởi vì anh ta cũng là con của Cha y như em của
anh ta vậy!
Lc
15:28b-30: Thái độ của người cha đối với người con cả
và câu trả lời của người con
Người
Cha chạy ra và van xin người con cả vào nhà. Nhưng người con trả lời:
“Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và không hề trái lệnh cha một
điều nào, mà chưa bao giờ cha cho riêng con một con dê con để con ăn mừng với
chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi đã phung phí hết tài sản của
cha với bọn đàng điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng
nó!” Người con cả hãnh diện về việc chấp hành lề luật của mình:
“Con không hề trái lệnh cha một điều nào!” Anh ta cũng muốn có một bữa tiệc
và liên hoan tưng bừng, nhưng chỉ với bạn bè của anh ta thôi. Không muốn
ăn mừng với người em, với người cha của anh ta. Anh ta không hề đả động
gì tới người em, cũng chẳng gọi là em mà gọi là “thằng con của cha kia”, như thể
anh ta không còn là anh của người con thứ nữa. Chính người anh cả đã nhắc
đến những gái điếm. Đó là ác ý của anh ta muốn giải thích đời sống hoang
đàng của người em. Đã bao lần người anh giải thích sai về đời sống của em
mình! Những người Công Giáo đã thường xuyên hiểu sai về đời sống của người
khác như thế nào! Thái độ của người Cha thì khác hẳn. Ông chạy ra
khỏi nhà và đến với cả hai người con. Ông chào đón người em trở về, nhưng
cũng không muốn mất người con trưởng. Cả hai đều thuộc về một gia
đình. Không ai có thể loại trừ người khác!
Lc
15:31-32: Câu đối đáp cuối cùng của người Cha
Cũng
như người Cha không màng tới những lời tạ lỗi của người con thứ, ông cũng không
để tâm đến những lời phàn nàn của người con cả, và nói với nó rằng: "Hỡi
con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng chúng ta
phải ăn tiệc mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất
mà nay lại tìm thấy!" Người con cả có bao giờ thực
sự ý thức là được luôn luôn ở cạnh Cha và sự hiện diện của người đã là một điều
hạnh phúc không? Lời đối đáp của người Cha: “Mọi sự của Cha là của
con” bao gồm cả người con thứ vừa mới trở về! Người con cả không có quyền
thực hiện sự phân biệt. Nếu anh ta muốn được làm con của người Cha, thì
anh ấy sẽ phải chấp nhận ông như thế chứ không phải như người cha theo ý của
anh ta! Bài dụ ngôn không cho chúng ta câu trả cuối cùng của người con cả.
Điều này liên quan đến chúng ta, vì tất cả chúng ta là những người anh cả!
c)
Phần phụ chú:
Hai
cơ cấu kinh tế: Nhà của Cha và Nhà của Ông Chủ
Bài dụ
ngôn này được biết đến như là dụ ngôn người con hoang đàng, và điều
này hàm ý những sự việc về mặt kinh tế. Hoang đàng có
nghĩa là ai đó tiêu xài một cách phung phí, mặc dù đây chỉ là một chi tiết phụ
trong bài dụ ngôn. Thật ra, điểm chính của bài Tin Mừng được tìm thấy
trong thực tế là người đi theo Chúa Giêsu một ngày nào đó sẽ phải làm một sự chọn
lựa: sự chọn lựa giữa Nhà của Cha hay hệ thống chia sẻ trong nhà của chủ hoặc hệ
thống tích tụ của cải.
Bài dụ
ngôn bắt đầu với một người thanh niên hỏi xin người cha chia phần gia tài thuộc
về anh ta vì anh muốn rời khỏi nhà (Lc 15:12). Để rời khỏi nhà của Cha
đòi hỏi người ấy phải có một thứ mà thế giới sẵn sàng chấp nhận: tiền.
Không có tiền, người thanh niên không thể đối diện với thế giới. Nhưng
người thanh niên đã không trưởng thành đủ để quản trị tiền bạc và đi vào một cuộc
sống trác táng (Lc 15:13). Càng tệ hơn nữa, khi anh tiêu hết tiền của,
anh phải trải qua lúc túng thiếu, mà theo ngôn ngữ Kinh Thánh, luôn được diễn tả
bằng chữ “nạn đói”. Trong thế giới kinh thánh, nạn chết đói chỉ tồn tại
khi hệ thống kinh tế đã sụp đổ. Vì thế người thanh niên bắt đầu lâm cảnh
túng thiếu (Lc 15:14).
Những
khó khăn phải đối diện tạo nên sự trưởng thành. Người thanh niên thấy rằng
anh ta vẫn cần tiền để tồn tại trong thế gian này. Vì thế, lần đầu tiên
trong đời, anh ta đi kiếm việc làm (Lc 15:15). Do đó anh ta vào giúp việc cho một Người
Chủvà người này sai nó ra đồng chăn heo. Anh ta rất đói, mà tiền
lương thì không đủ để mua thức ăn và anh ta cố gắng làm dịu cơn đói bằng cách
ăn những thức ăn của heo ăn cho đầy bụng (Lc 15:16). Trong khi đó, tại
nhà của người chủ những việc không đơn giản như thế: thức ăn của heo là
cho heo. Người làm công phải dùng tiền lương mà mua thức ăn để ăn.
Vì thế nỗi lo lắng của người chủ không phải là cái bụng đói của người làm công
mà là việc vỗ béo các con heo. Người thanh niên khám phá ra rằng tại nhà
của người chủ thức ăn bị chối từ, không được chia sẻ, thậm chí ngay cả thức ăn
cho heo. Ai có phần của người nấy!
Rút từ
kinh nghiệm trong nhà của người chủ, người thanh niên bắt đầu so sánh tình trạng
hiện tại của mình với cảnh trong nhà của cha nó. Trong Nhà của
Cha nó, các người làm công không đói vì bánh được chia sẻ với tất cả
các người làm. Trong nhà cha không ai là không có thức ăn, ngay cả những
người làm công! Bấy giờ người thanh niên quyết định trở về nhà cha
nó. Lúc này anh ta đã đủ trưởng thành để nhận biết rằng anh ta không thể
được thừa nhận như một người con, vì vậy anh đã xin làm công cho cha.
Trong nhà người cha, các người làm công không đói vì bánh được chia sẻ cho mọi
người.
Có
người nghĩ rằng đứa con quay về bởi vì nó đói. Nếu thế, sự trở về của nó
là cơ hội chủ nghĩa. Không phải thế, nhưng là một sự lựa chọn cho loại
ngôi nhà. Trong nhà người chủ, ai lo phận nấy, không có gì để chia sẻ,
ngay cả thức ăn cho heo. Trong nhà của người cha, không ai phải bị đói vì
sứ vụ của Nhà Cha là “kẻ đói nghèo được ban của đầy dư” (Lc 1:53). Chia sẻ
là điều đã giúp cho không ai bị đói trong nhà người cha. Nhưng người
thanh niên chỉ khám phá ra điều này vì anh ta đã bị bỏ đói trong nhà người chủ.
So sánh hai khung cảnh, người thanh niên đã làm một sự chọn lựa cho mình:
anh ta ước mong được là người làm công trong nhà của cha, nơi có sự chia sẻ,
nơi mà không ai bị bỏ đói và mọi người đều no đủ. Vì vậy, anh ta đã trở về
nhà cha và xin được là một trong những người làm công (Lc 15:17-20).
Bằng
cách để đề tài này tại giữa trung tâm quyển Tin Mừng của mình, thánh Luca cảnh
tỉnh các cộng đoàn Kitô hữu đang tự tổ chức trong một hệ thống kinh tế đặc thù
của Đế quốc La-Mã. Hệ thống này được tượng trưng trong bài dụ ngôn
là nhà của người chủ, nơi mà các con heo được chăm sóc hơn các công
nhân, hoặc, nơi mà sự đầu tư được coi trọng hơn công việc. Trong nhà của
người Cha, hay là trong nhà của các Kitô hữu, hệ thống này không thể tồn tại.
Các Kitô hữu phải chú trọng đời sống của họ vào việc chia sẻ của cải của
mình. Chia sẻ của cải có nghĩa là đối chọi với hệ thống thống trị của đế
quốc. Nó có nghĩa là phá vỡ nhà của người chủ. Trong Sách Công Vụ
Tông Đồ chúng ta thấy một trong những đặc tính đẹp của cộng đoàn Kitô hữu là sự
chia sẻ của cải (Cv 2:44-45; 3:6; 4: 32-37).
Luca
muốn nhắc nhở chúng ta rằng dấu hiệu lớn nhất của nước Thiên Chúa là bàn tiệc
chung trong nhà của Chúa Cha, nơi mà có đủ chỗ cho tất cả mọi người và là nơi
bánh được chia cho tất cả mọi người. Sống trong nhà của Chúa Cha nghĩa là
chia sẻ mọi thứ tại bàn tiệc chung của cộng đoàn. Không ai bị loại trừ khỏi bàn
này. Tất cả chúng ta được kêu gọi để chia sẻ. Như chúng ta được thường
xuyên nhắc nhở trong các buổi lễ của chúng ta: không ai nghèo đến nỗi mà
người ấy không có một cái gì để xớt chia với người khác. Và cũng không ai
giàu có đến nỗi mà người ấy không thể nhận thêm được nữa. Bàn tiệc chung
được xây trên sự chia sẻ của tất cả mọi người. Do đó, buổi tiệc ăn mừng tại
nhà Chúa Cha sẽ được đến muôn đời.
Ba
bài dụ ngôn có vài điểm chung: niềm hân hoan và tiệc mừng. Bất cứ
ai có kinh nghiệm với cổng vào tự do và đáng ngạc nhiên của tình yêu Thiên Chúa
trong cuộc sống của người ấy thì sẽ vui mừng và sẽ muốn báo cho những người
khác về niềm vui này. Hành động cứu rỗi của Thiên Chúa là nguồn mạch của
sự vui mừng: “Hãy vui mừng với tôi!” (Lc 15:6-9). Từ kinh nghiệm về
sự biết ơn này của Thiên Chúa mà ý thức tiệc mừng và niềm hân hoan được nảy
sinh (Lc 15:32). Ở cuối dụ ngôn, người Cha kêu gọi hãy vui mừng và tán
dương. Niềm vui mừng có vẻ như bị làm mất vui bởi người con cả không muốn
vào nhà. Anh ta muốn có quyền chỉ ăn mừng riêng với chúng bạn và không muốn
ăn mừng với các người thân khác trong gia đình của mình. Anh ta đại diện
cho những người tự coi mình là người công chính và nghĩ rằng họ không cần sự
hoán cải.
6.
Cầu Nguyện
Thánh
Vịnh 63 (62): Ân Tình Chúa quý hơn mạng sống
Lạy
Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ,
ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
tấm thân này mòn mỏi đợi trông,
như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.
Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện,
để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.
Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống,
miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.
Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng,
và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.
Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc,
môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.
Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ,
suốt năm canh thầm thĩ với Ngài.
Quả thật Ngài đã thương trợ giúp,
nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.
Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó,
giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì.
Còn những kẻ tìm hại mạng sống con,
ước gì chúng phải xuống vực sâu lòng đất,
bị gươm giáo phanh thây, làm mồi cho muông sói.
Đức Vua sẽ vui mừng trong Thiên Chúa.
Ai lấy danh Chúa mà thề sẽ được hiên ngang;
còn người nói dối phải câm miệng.
ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
tấm thân này mòn mỏi đợi trông,
như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.
Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện,
để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.
Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống,
miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.
Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng,
và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.
Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc,
môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.
Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ,
suốt năm canh thầm thĩ với Ngài.
Quả thật Ngài đã thương trợ giúp,
nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.
Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó,
giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì.
Còn những kẻ tìm hại mạng sống con,
ước gì chúng phải xuống vực sâu lòng đất,
bị gươm giáo phanh thây, làm mồi cho muông sói.
Đức Vua sẽ vui mừng trong Thiên Chúa.
Ai lấy danh Chúa mà thề sẽ được hiên ngang;
còn người nói dối phải câm miệng.
7.
Lời nguyện kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của
chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho
chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria,
thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa
là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa
Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét