Trang

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2016

11-09-2016 : (phần II) CHÚA NHẬT XXIV THƯỜNG NIÊN năm C

11/09/2016
Chúa Nhật tuần 24 thường niên năm C
(phần II)


Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 24 Thường Niên - Năm C
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN NĂM C
(Xh 32,7-11.13-14; 1Tm 1,12-17; Lc 15,1-32)
THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG THƯƠNG XÓT,
NGƯỜI VUI MỪNG TRƯỚC SỰ HOÁN CẢI
“Cha nó chợt trông thấy,
liền động lòng thương” (Lc 15,20b)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1- Bài đọc I (Xh 32,7-11.13-14)
Ngay từ đầu, khi được Thiên Chúa chọn để lãnh đạo dân Israel và đưa họ ra khỏi Ai cập, Môsê đã thấy trước được đây là một trách nhiệm nặng nề và khó khăn. Và thật thế, dân Israel, như Thánh kinh nói, là một dân cứng đầu cứng cổ, hay phàn nàn và nổi loạn. Trong suốt hành trình họ đã liên tục kêu trách Chúa khi khổ cực hay gặp nguy hiểm, và ngay cả khi Thiên Chúa bắt đầu ký kết giao ước với họ, họ vẫn không kiên trì tin tưởng. Như bài đọc I hôm nay kể lại, vì chờ đợi ông Môsê quá lâu, trong khi Thiên Chúa vẫn ẩn mặt, Israel đã mất niềm tin tưởng, họ đã hoảng sợ, nản chí và do đó đã gom góp vàng bạc để đúc một con bò và thờ lạy như Thiên Chúa của mình. Chắc chắn hành động này đã làm cho Thiên Chúa nổi giận và Người muốn trừng phạt dân tộc bất trung này.
Như mọi lần, Môsê vẫn luôn là vị trung gian khẩn cầu cho đoàn dân của mình, dù rằng chính ông cũng đã phải nổi giận với họ. Ông đưa ra bốn lý do để cầu khẩn Thiên Chúa tha thứ cho dân mình nhưng tất cả đều dựa trên tình thương của Người dành cho dân riêng của mình. Vì yêu thương Người đã cứu họ ra khỏi Ai cập, lập giao ước với họ, nhất là Người đã thề hứa từ trước với các tổ phụ là làm cho họ trở thành một dân đông đảo, cư ngụ trên đất nước rộng lớn. Môsê đã xin Chúa thương xót đừng đoán phạt dân Israel, kẻo họ phải tiêu diệt. Thiên Chúa lại một lần nữa tha thứ cho dân Israel, vì Người là Đấng từ bi và nhân hậu, chậm nổi giận và giàu lòng xót thương.
2- Bài đọc II (1Tm 1,12-17)
Chính Thánh Phaolô là người đã cảm nghiệm sâu xa lòng thương xót Chúa đối với ngài. Thánh nhân trong thư gửi cho Timôthê đã dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về lòng thương xót của Người. Thánh nhân thú nhận mình đã từng ăn nói lộng ngôn, bạo ngược, bắt đạo, nhưng Thiên Chúa vẫn kêu gọi ngài phục vụ cho Tin Mừng. Với những tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa như vậy, thánh Phaolô cảm thấy mình là người tội lỗi và cần được Thiên Chúa tha thứ và cứu độ trước tiên, Đức Giêsu đã đến thế gian để thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Thánh nhân làm chứng và xác tín về điều nay, về lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa không loại trừ bất cứ ai, dù là những người tội lỗi. Điều cần thiết là chúng ta đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa và quay về với Người. Cuộc đời thánh Phaolô là chứng tá cho lòng thương xót của Thiên Chúa và cũng là lời mời gọi hoán cải cho mọi người.
3- Bài Tin Mừng (Lc 15,1-32)
Nếu như chúng ta vẫn thường nghe nói Tin Mừng theo Thánh Luca là Tin Mừng của tình yêu và lòng thương xót, thì chương 15 chính là trung tâm của Tin Mừng của lòng thương xót này. Chương 15 còn có thể gọi là chương của “những niềm vui tìm được”. Trong chương này, tác giả dùng những hình ảnh khác nhau trong ba dụ ngôn để nói về “niềm vui tìm lại được”: tìm lại con chiên thất lạc, tìm thấy đồng tiền đánh mất và tìm được đứa con tưởng đã chết mà nay vẫn sống. Tác giả đã dùng những hình ảnh ám dụ này để diễn tả tình thương và niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi ăn năn hối cải. Niềm vui dường như hơi bất thường so với thực tế khi người chủ để lại 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc, hay vất vả đi tìm đồng tiền đánh mất, để khi tìm được thì hân hoan và mời xóm làng chung vui. Chỉ khi đọc câu cuối của mỗi dụ ngôn chúng ta sẽ hiểu tại sao lại có niềm vui này. Con chiên lạc hay đồng tiền đánh mất là hình ảnh của người tội lỗi, và việc tìm lại được là hình ảnh của sự hoán cải của những con người này.
Đọc lại Tin Mừng thánh Luca, chúng ta sẽ thấy là trước ba dụ ngôn “tìm lại được” này, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về tiệc cưới với những khách được mời dự tiệc xin kiếu không đến dự. Những người khách này là dân Israel, là các người đã chu toàn các lề luật Chúa, là những người nghĩ là mình chắc chắn sẽ được vào Nước Trời và không cần nỗ lực nào cả. Ba dụ ngôn trong chương 15 có thể được đọc và hiểu trong sự liên kết với dụ ngôn bữa tiệc. Những người không nằm trong danh sách khách mời, những người gặp thấy trên đường chính là những người mà người ta nghĩ là không xứng đáng; có thể nói họ chính là những người thu thuế và tội lỗi trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Nhưng cuối cùng, họ đã được mời và họ chứng minh là mình xứng đáng hơn cả những người được mời trước đó, vì họ đã mau mắn đáp lời mời gọi, vì họ đã hoán cải. Những người xem ra không xứng đáng thì lại là những người đón nhận lời mời, chấp nhận trở nên môn đệ Chúa bằng cách nghe những lời giảng dạy của Người. Tin Mừng không nói rõ những người thu thuế hay tội lỗi này đã trở nên tốt hay chưa, nhưng qua việc lui tới nghe Chúa Giêsu giảng, chúng ta nhận thấy họ đã có sự bắt đầu chấp nhận nên môn đệ của Người. Điều này rõ ràng hơn qua ba dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Những người thu thuế hay những kẻ tội lỗi giống như những con chiên lạc, hay những đồng tiền đánh mất đó. Họ đã mất nhưng Thiên Chúa đã tìm lại được họ.
Thánh sử Luca nói cho chúng ta biết ba dụ ngôn Chúa Giêsu đưa ra là để trả lời cho những lời xầm xì của những Pharisiêu và kinh sư khi họ nhìn thấy những người tội lỗi lui tới với Chúa Giêsu. Họ chê bai Người là giao tiếp với những phường tội lỗi, những người mà chắc chắn các kinh sư và Pharisiêu khinh bỉ và tránh xa. Họ xem Chúa Giêsu là Người đã phớt lờ những ranh giới xã hội khi Người tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi như những anh em của Người. Nhưng Thiên Chúa thật sự vui mừng khi đón nhận những tâm hồn hoán cải trở về với Người.
Hai dụ ngôn về con chiên lạc và đồng tiền bị mất cho thấy tình yêu của Thiên Chúa đối với mọi người, cho dù chỉ là một con người tội lỗi, bị loại bỏ bên lề xã hội, hay là một người thân phận yếu đuối. Đối với Người, tất cả đều có ý nghĩa và cần được cứu độ, và thực tế Ngươi đã đón tiếp họ. Dụ ngôn người con hoang đàng càng cho thấy tình yêu khoan hồng và lòng xót thương của Người. Dù tội lỗi của người con đã làm cho trái tim cha già tan nát, hành động của người con đã xúc phạm đến tình yêu cao vời của cha mình, nhưng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương, luôn sẵn lòng tha thứ cho những người biết ăn năn hối cải. Niềm hân hoan của người cha già nhìn thấy con trở về là hình ảnh Thiên Chúa luôn chờ mong người tội lỗi hoán cải và sẵn sàng đón họ trong vòng tay của Người, khôi phục lại cho họ địa vị con Thiên Chúa.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. Thiên Chúa nhân lành không bỏ rơi chúng ta dù ta tội lỗi xấu xa, Người vẫn chờ đợi chúng ta ăn năn hoán cải. Chúng ta hãy tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa, để đừng thất vọng khi phạm tội, nhưng luôn dám thoát ra khỏi tội lỗi, hoán cải và biến đổi cuộc đời mình.
2. Thánh Phaolô là gương mẫu cho chúng ta về việc hoán cải và để cho Thiên Chúa dùng mình như khí cụ hữu ích. Nếu chúng ta có sa ngã, chúng ta cần tin cậy vào Chúa, không để cho những mặc cảm tội lỗi chôn vùi mình, tách mình ra khỏi xã hội. Chúng ta hãy biết cộng tác với mọi người để làm những việc thiện điều tốt trong khả năng của mình.
3. Chúng ta phải tránh thái độ của những người Pharisêu hay kinh sư trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta ai cũng là người tội lỗi cần được Thiên Chúa thương xót, và chính chúng ta cũng phải thương xót các anh em xem ra bị xa lánh vì những lỗi phạm công khai. Chúng ta cần chia sẻ nâng đỡ để cho họ cảm thấy được yêu thương và có thể hoán cải, thay đổi đời sống.
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng thương xót, luôn chờ đợi và sẵn sàng tha thứ cho người tội lỗi biết thật lòng ăn năn trở về. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng tha thiết cầu nguyện.
1. “Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn tích cực trở nên dấu chỉ hy vọng và tình thương tha thứ của Thiên Chúa cho con người trong thế giới hôm nay.
2. Con người thời đại đang chạy theo đam mê dục vọng mà chối bỏ Thiên Chúa. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những người tội lỗi lầm lạc được ơn nhận biết Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, luôn ban ơn lành cho tất cả những ai tin cậy vào Người.
3. “Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi Kitô hữu luôn biết thường xuyên xét mình, thành tâm sám hối, và siêng năng đến với Chúa qua những cử hành bí tích để được ân sủng của Chúa tái sinh và biến đổi.
4. “Chúng ta phải ăn mừng, vì em con đã chết nay sống lại.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn đoàn kết yêu thương nhau, biết cảm thông chia sẻ với mọi người, và sẵn sàng góp phần vào những chương trình công ích.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha giàu lòng thương xót, Chúa muốn chúng con theo gương Chúa biết tha thứ và yêu thương hết mọi người; xin nghe lời chúng con cầu nguyện mà chúc lành cho những ước nguyện của chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.


SCĐ CHÚA NHỰT XXIV THƯỜNG NIÊN C
Chủ đề :
Lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa

Người mục tử đi tìm con chiên lạc  (Lc 15,4)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Thiên Chúa nhân từ tha thứ cho dân Israel đã thờ tượng con bê vàng.
- Đáp ca : Lời nguyện sám hối của Tv 50
- Tin Mừng : 3 dụ ngôn về lòng nhân từ của Thiên Chúa : con chiên lạc, đồng tiền mất và đứa con đi hoang.
- Bài đọc II : Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài.

I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được !"
Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa : mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài.
Chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ.

II. Gợi ý sám hối
* Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Xh 32,7-11.13-14)
Đoạn này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.
Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.
Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý :
- Môsê đã liên kết với dân : mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel.
- Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu "Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe".

2. Đáp ca (Tv 50)
Lời cầu nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa : "Lạy Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm".

3. Tin Mừng (Lc 15,1-32)
Khung cảnh : thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Có 3 dụ ngôn : 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 → 1/10 → ½ ). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc – người ta thường nói "đồng tiền liền khúc ruột – và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.

4. Bài đọc II (1 Tm 1,12-17)
Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài :
- "Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót"
- "Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi"
- "Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài".

IV. Gợi ý giảng

* 1. Giá trị của từng con người
Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v.v. một hội viên phát biểu : "Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng". Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp : "Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi".
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý : ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc ? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu : một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó ? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba : Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa ? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao ? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia : nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy : Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2).

* 2. Cái mất là cái quý
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.
Lý do là : cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quý.
Sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau)
Có một câu chuyện biến ngôn như sau : Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp : "Vì tôi lạc bị mất một con chiên". Chúa Giêsu nói : "Để Ta đi tìm nó cho". Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn : "Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó".
Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì ?
- Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại.
- Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn.
- Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa.

* 3. Những con người bị mất
Không chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất.
Những con người bị mất ấy là ai ?
- Là những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang.
- Là những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo.
- Là những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời.
- Là những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau.
- Là những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa.
- Là những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo.
Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.

* 4. Tuyệt đỉnh của yêu thương
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói :
- Tại sao Đức Cha làm như thế ? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo :
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được ; tôi phải làm gì hơn nữa.
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
*
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn : Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được ; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian : "Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất". Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, "lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa" (A. Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết : "Lạy Cha, xin tha cho họ". Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi ; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết : "Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà".
*
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đàng sẽ trống rỗng, và thế giới này không có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen. (TP)

5. Chuyện minh họa
a/ Sự tha thứ của Chúa
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông.
- Ông biết đây là gì không ?
- Nó giống như cát.
- Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không ?
- Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao.
- Đây là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cả ?
- Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
b/ Không cần đếm
            Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp : không biết. "Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết ? " Câu trả lời thật ý nhị : "Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt."

V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của người có tội thật lòng ăn năn thống hối. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng khẩn khoản nài xin :
1. Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần / tuôn đổ đầy trành tình yêu của Người vào tâm hồn mọi thành phần Dân Chúa / để ai nấy đều trở nên sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết thảy mọi người.
2. Hiện nay / có biết bao thanh thiếu niên bỏ nhà đi bụi đời vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau / trong số đó nổi bật nhất là do thiếu tình thương / và sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ / hoặc cha mẹ bất hòa hay ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn là tổ ấm tình thương / là nơi nương tựa cho mọi thành viên của mình.
3. Thử thách gian truân nhiều khi làm cho con người lâm vào cảnh bế tắc / mất hết niềm hy vọng để vui sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chạy đến cùng Chúa khi gặp buồn phiền đau khổ / để được Người nâng đỡ ủi an.
4. Chúa yêu thương tất cả mọi người / không kỳ thị thiên tư / không phân biệt đối xử với bất cứ ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn noi gương Người trong cách cư xử của mình.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần, mà đến bảy mươi lần bảy. Xin ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh Lễ
Trước kinh Lạy Cha : Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.

VII. Giải tán
Chúng ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào. Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.


Bài đọc thêm
CÁC THƯ GỬI TIMÔTÊÔ
* Bài đọc II các Chúa nhật 25-30

A. Thư mục vụ
Ba bức thư I Tm, II Tm và Tt được gọi là thư mục vụ vì chúng được viết gởi cho các mục tử trẻ để giúp họ hoàn thành trách nhiệm trong Giáo Hội.

B. Hoàn cảnh và mục đích
- Thư 1 Tm : Sau thời kỳ bị cầm tù lần thứ nhất tại Rôma chấm dứt vào năm 63, Phaolô đến Êphêxô. Sau đó ông rời Êphêxô đi Makêđoan, để Timôtêô ở lại điều khiển giáo đoàn này (1 Tm 1,3). Dù vậy Phaolô vẫn quan tâm giáo đoàn Êphêxô và công việc của Timôtêô nên khoảng năm 65 ông đã từ Makêđoan viết thư này cho Timôtêô.
- Thư 2 Tm : dưới triều Nêron, Phaolô bị bắt lại và bị giam lần thứ hai tại Rôma. Lần này ông bị đối xử khắt khe, phải "mang xiềng như 1 tên gian ác" (2 Tm 2,9). Một số người thân của ông xem việc ấy là xấu hổ nên đã bỏ ông (2 Tm 1,8.12). Phaolô cảm thấy cô đơn. Ông biết ngày chết của mình sắp đến nhưng ông vẫn tin tưởng, tự coi như 1 lực sĩ điền kinh sắp chạy tới đích (2 Tm 4,7). Trong hoàn cảnh và tâm trạng ấy, Phaolô viết thư này cho Timôtêô, nghĩa là viết tại Rôma khoảng năm 67. Sau đó ông bị đem xử tử.

C. Timôtêô
Timôtêô sinh tại thành Lystra thuộc miền Lycaonia. Cha là người hy lạp, me là người do thái tòng giáo. Ông đã theo Phaolô trong cuộc du hành truyền giáo thứ 2. Trong chuyến này Phaolô đã khuyên ông cắt bì (Cv 16,1-3). Từ đó ông luôn sát cánh với Phaolô và trở nên đệ tử ruột của Phaolô.
Khi Phaolô bị đuổi khỏi giáo đoàn Thêxalônikê vừa mới thành lập, Phaolô rất lo lắng cho giáo đoàn non trẻ này nên phái Timôtêô trở lại đó quan sát tình hình (xem lại thư 1 Tx), và Phaolô rất vui mừng khi Timôtêô trở về báo cáo tình hình tốt đẹp. Về sau khi giáo đoàn Côrintô chống đối Phaolô, ông lại sai Timôtêô đến đó dàn xếp. Nhưng lần này Timôtêô không thành công (xem lại thư 1 Cr). Trong những ngày ngồi tù và sắp bị xử tử, Phaolô nhớ thương Timôtêô mong được gặp ông này lần cuối (2 Tm 4,9) nhưng không biết Phaolô có được toại nguyện không.
Tóm lại, trong trái tim Phaolô, Timôtêô có một vị trí đặc biệt hơn những người khác, cũng như Philíp có một vị trí đặc biệt hơn những giáo đoàn khác : Phaolô chẳng những xem Timôtêô như một đệ tử, mà còn như một đứa con mà ông hết lòng yêu thương, chỉ bảo.

D. Nội dung
Phaolô không triển khai những luận đề thần học cao sâu mà chỉ nhắc lại vài điều giáo lý cơ bản cụ thể, và đưa những lời khuyên thực tế thích hợp với hoàn cảnh và nhiệm vụ của Timôtêô. Những nhắc nhở về các điểm giáo lý cơ bản thì dĩ nhiên luôn có giá trị cho mọi thời. Còn những chỉ dẫn cụ thể cho hoàn cảnh thì có một số tới nay vẫn còn giá trị và một số đã lỗi thời.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật XXIV Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 11 Tháng 9, 2016

Những dụ ngôn về vật bị mất
Gặp gỡ Thiên Chúa trong đời sống
Lc 15:1 – 32 


1.  Lời nguyện mở đầu

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.  Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của Chúa.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin Chúa hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con của Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã gửi Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

2.  Bài Đọc
a)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc: 

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta ba dụ ngôn để giúp chúng ta suy xét một cách sâu xa hình ảnh Thiên Chúa của chúng ta.  Hình ảnh mà một người có về Thiên Chúa ảnh hưởng lớn lao trong cách suy nghĩ và hành động của người ấy.  Ví dụ, hình ảnh Thiên Chúa như là một quan tòa nghiêm khắc làm sợ hãi người ta và khiến cho người ấy trở nên quá phục tùng và thụ động hoặc nổi loạn và phóng đãng.  Hình ảnh Thiên Chúa như là người tộc trưởng hoặc ông chủ, đã và vẫn còn được sử dụng để hợp thức hóa các mối liên hệ của quyền lực và thống trị, trong xã hội và trong Giáo Hội, trong gia đình cũng như trong cộng đoàn. Vào thời Chúa Giêsu, ý tưởng mà người ta đã có về Thiên Chúa có phần hơi xa cách, nghiêm khắc, một vị quan tòa phán xét hăm dọa với sự trừng phạt. Chúa Giêsu mặc khải một hình ảnh mới về Thiên Chúa:  Thiên Chúa như một người Cha, đầy nhân ái với tất cả mọi người và cho từng cá nhân.  Đây là những gì ba dụ ngôn muốn nói với chúng ta.
Khi đọc, các bạn hãy cố gắng tạm dừng lại mỗi chi tiết và, hơn hết, hãy để cho Lời Chúa thấm nhập và thách thức bạn.  Hãy thử khám phá những điểm tương đồng và thử so sánh điều này với hình ảnh về Thiên Chúa của bạn.  Rồi sau đó, bạn hãy thử phân tích các chi tiết của từng dụ ngôn:  thái độ, hành động, lời nói, nơi chốn, khung cảnh, v.v.

b)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:

Lc 15:1-2:  Ý chính của ba bài dụ ngôn
Lc 15:3-7:  Trong dụ ngôn đầu tiên, bạn được mời gọi đi tìm con chiên lạc
Lc 15:8-10:  Trong dụ ngôn thứ hai, người phụ nữ cố gắng đi tìm đồng tiền đã mất
Lc 15:11-32:  Trong dụ ngôn thứ ba, người cha cố gắng đi tìm người con đã mất
Lc 15:11-13:  Quyết định của người con thứ
Lc 15:14-19:  Tâm trạng thất vọng của người con thứ và ý muốn trở về nhà Cha
Lc 15:20-24:  Nỗi vui mừng của người Cha khi tìm lại được người con thứ
Lc 15:25-28a:  Phản ứng của người con cả
Lc 15:28b-30:  Thái độ của người cha đối với người con cả và câu trả lời của người con
Lc 15:31-32:  Câu đối đáp cuối cùng của người Cha

c)  Phúc Âm:
1 Khi ấy, những người thu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng.  2 Thấy vậy, những người Biệt Phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và ăn uống với chúng."  3 Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: 4 "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con kia trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm được sao?  Và khi đã tìm thấy, người ấy vui mừng vác chiên lên vai.  6 Về đến nhà, kêu bạn hữu và những người hàng xóm lại, và nói rằng:  "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!  7 Cũng vậy, Tôi bảo các ông hay: trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.
8 "Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng bạc, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao?  9 Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người hàng xóm đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã đánh mất.” 10 Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải."
11 Rồi Người lại phán rằng: "Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ đến thưa với cha rằng: "Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con.”  Và người cha đã chia của cải cho các con. 13 Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả tiền của mình rồi trẩy đi phương xa và ở đó ăn chơi xa xỉ, phung phí hết tiền của.  14"Khi nó tiêu hết tiền của, thì vừa gặp nạn đói lớn xảy ra trong miền đó và nó bắt đầu lâm cảnh túng thiếu; 15 nó vào giúp việc cho một người trong miền; người này sai nó ra đồng chăn heo. 16 Nó ao ước ăn những đồ heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho.  17 Bấy giờ nó hồi tâm và tự nhủ:  "Biết bao nhiêu người làm công ở nhà cha ta được ăn dư dật, mà ta ở đây phải chết đói! 18 Tôi muốn ra đi, trở về cùng cha tôi và thưa với người: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha; 19con chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha.” 20 Thế rồi nó ra đi và trở về với cha nó.  21 Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy; liền động lòng thương; ông chạy lại ôm choàng lấy cổ nó hồi lâu.  Người con trai lúc đó thưa rằng: "Lạy cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa.”  22 Nhưng người cha liền bảo với các đầy tớ: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. 23 Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!  24 Vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.”  Và họ bắt đầu ăn uống linh đình.  25 "Lúc ấy người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 anh gọi một người đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì.  27 Tên đầy tớ nói: "Đó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì thấy cậu ấy trở về mạnh khoẻ.”  28 Người anh cả liền nổi giận và quyết định không vào nhà.  Cha anh ra xin anh vào; 29 nhưng anh trả lời: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và không hề trái lệnh cha một điều nào, mà chưa bao giờ cha cho riêng con một con dê con để con ăn mừng với chúng bạn. 30 Còn thằng con của cha kia, sau khi đã phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó.”  31"Nhưng người cha bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn tiệc mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy."

3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện

Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý

Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.

a)  Trong ba bài dụ ngôn, dụ ngôn nào bạn thích nhất và làm bạn cảm động nhất?  Tại sao?
b)  Điểm chính của dụ ngôn con chiên lạc là gì?
c)  Điểm chính của dụ ngôn đồng tiền bị mất là gì?
d)  Người con thứ có thái độ gì và anh ta có hình ảnh gì về cha mình?
e)  Người con cả có thái độ gì và anh ta có hình ảnh gì về cha mình?
f)  Người cha có thái độ ra sao về mỗi người con của ông?
g)  Tôi nhận thấy mình giống như người con thứ hay người con trưởng?  Tại sao?
h)  Ba bài dụ ngôn này có chung điểm gì?
i)  Cộng đoàn chúng ta có tỏ lộ cho người khác thấy tình yêu Thiên Chúa như người Cha đầy lòng nhân từ này chưa?

5.  Dành cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề


a)  Bối cảnh thời ấy và bây giờ:

Chương 15 của Tin Mừng theo thánh Luca giữ một vị trí quan trọng trong cuộc hành trình dài của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem.  Cuộc hành trình này bắt đầu tại câu Lc 9:51 và kết thúc ở câu Lc 19:29.  Chương 15 giống như phần đỉnh đồi mà từ đó chúng ta có thể nhìn thấy cuộc hành trình đã đi qua và phần còn lại sắp tới.  Đây là chương nói về lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa, những chủ đề được xem là mối quan tâm chính của tác giả Luca.  Các cộng đoàn phải là sự mặc khải về gương mặt này của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Ở đây chúng ta có ba dụ ngôn.  Các bài dụ ngôn của Chúa Giêsu có một mục đích chính xác.  Những câu chuyện ngắn này rút ra từ đời sống thực cố gắng dẫn dắt người nghe phản ảnh trên cuộc sống riêng của họ và khám phá ra ở đó một khía cạnh cụ thể về sự hiện diện của Thiên Chúa.  Trong các dụ ngôn, có hai loại câu chuyện của đời sống.  Một số câu chuyện không bình thường và không thường xảy ra trong đời sống hằng ngày.  Ví dụ, lòng nhân từ của người cha đối với người con thứ là không bình thường.  Nói chung, các người cha thường có hành động nghiêm khắc hơn nhiều đối với những đứa con hành xử như người con thứ trong bài dụ ngôn.  Các câu chuyện khác thì bình thường và là những sự việc bình thường trong cuộc sống thường nhật, ví dụ, thái độ của người đàn bà quét nhà để đi tìm đồng tiền bị mất.  Như chúng ta sẽ thấy, đây là những cách khác nhau thúc giục người ta suy nghĩ về cuộc sống và về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống.

b)  Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:

Lc 15:1-2:  Ý chính của ba bài dụ ngôn
Ba bài dụ ngôn trong Chương 15 được dẫn trước bởi dữ kiện này:  “Những người thu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng.  Thấy vậy, những người Biệt Phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: ‘Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và ăn uống với chúng!’”  (Lc 15:1).  Một bên là những người tội lỗi và những người thu thuế, còn bên kia là những người Biệt Phái và luật sĩ, và đứng ở giữa hai nhóm là Chúa Giêsu.  Điều này cũng xảy ra vào những năm 80 khi Luca đang viết sách Tin Mừng của ông.  Những dân ngoại tiếp cận với các cộng đoàn, họ muốn gia nhập và tham gia vào cộng đoàn.  Nhiều người anh em trong cộng đoàn phàn nàn rằng việc thâu nhận dân ngoại là chống lại lời giảng dạy của Chúa Giêsu.  Các bài dụ ngôn đã giúp họ nhận thức.  Trong cả ba dụ ngôn chúng ta thấy có điểm tương đồng:  cho thấy phải làm gì để lấy lại những gì đã mất:  con chiên lạc (Lc 15:4-7), đồng tiền bị mất (Lc 15:8-10), hai người con đã mất (Lc 15:11-32).

Lc 15:3-7:  Trong dụ ngôn đầu tiên, bạn được mời gọi đi tìm con chiên lạc
Chúa Giêsu nói với những người đang nghe:  “Nếu một trong các ông có một trăm con chiên …” Người nói “một trong các ông”.  Điều này có nghĩa là các bạn bị thách thức!  Các bạn, ông ấy, bà ấy, tất cả chúng ta bị thách thức!  Chúng ta được kêu gọi thách thức chính mình với câu chuyện kỳ lạ và khó tin của bài dụ ngôn.  Chúa Giêsu hỏi:  “Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con kia trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm được sao?”  Bạn trả lời ra sao với câu hỏi của Chúa Giêsu?  Cách câu hỏi được đặt ra, chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu nghĩ đến câu trả lời phải là tích cực.  Nhưng nó có sẽ được như vậy không? Nó có sẽ là một câu trả lời tích cực hay không?  Bạn sẽ có đủ can đảm mà bỏ mặc chín mươi chín con chiên để đi tìm con chiên lạc không? Tôi nghe thấy một câu trả lời khác trong lòng:  “Xin lỗi nhá, tôi không thể nào làm như vậy được.  Sẽ thật là ngớ ngẩn nếu để lại chín mươi chín con chiên trong hoang địa để đi tìm một con chiên lạc!”  Nhưng tình yêu Thiên Chúa thì vượt hẳn mọi quy luật của cách cư xử thông thường.  Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm một việc điên rồ như vậy, thật khác đời, lối cư xử thật bất bình thường so với loài người.  Bối cảnh của bài dụ ngôn này là lời chỉ trích của các người luật sĩ và Biệt Phái đối với Chúa Giêsu (Lc 15:2).  Họ tự cho mình là hoàn hảo và khinh khi những người khác, cáo buộc người khác là những phường tội lỗi.  Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo các ông hay: trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải”.  Ở một nơi khác Chúa nói:  “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông! (Mt 21:31)  Theo như lời Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ vui mừng hơn với sự hối cải của một người tội lỗi hơn là của chín mươi chín người Biệt Phái và luật sĩ.  Thiên Chúa sẽ vui mừng hơn với sự hối cải của một người vô thần chưa hề bao giờ đến nhà thờ hơn là của chín mươi chín người tự coi mình là người Công Giáo thuần thành và ngoan đạo mà khinh thường những người vô thần và gái mãi dâm.  Hình ảnh Thiên Chúa khác biệt này mà Chúa Giêsu đưa ra trước những luật sĩ, người Biệt Phái và tất cả chúng ta thì quả là gây lúng túng!

Lc 15:8-10:  Trong bài dụ ngôn thứ hai, người phụ nữ đi tìm đồng tiền đã mất
Bài dụ ngôn này thì khác.  Câu chuyện ngắn về đồng tiền đánh mất để ám chỉ những hành động bình thường của một người đàn bà nghèo không có nhiều tiền.  Người đàn bà trong dụ ngôn chỉ có vỏn vẹn mười đồng tiền bạc.  Trong thời gian ấy, một đồng tiền bạc thì trị giá lương của một ngày lao động.  Đối với những người đàn bà nghèo khó, mười đồng tiền bạc quả là một số tiền lớn!  Đó là lý do tại sao, nếu họ bị mất một đồng tiền, họ sẽ đi tìm kỹ lưỡng và quét khắp nhà cho đến khi họ tìm thấy.  Và khi tìm thấy, họ sẽ hạnh phúc vô cùng.  Người đàn bà trong dụ ngôn nói với những người hàng xóm của bà:  “Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã đánh mất!”  Những người nghèo khi nghe kể về câu chuyện này sẽ nói:  “Đúng đấy!  Đó là điều chúng tôi sẽ làm tại nhà!  Khi chúng tôi tìm được đồng tiền đã mất, chúng tôi vui mừng khôn tả!”  Vâng, nếu chúng ta có thể hiểu như niềm hạnh phúc lớn lao của những người đàn bà nghèo khó khi tìm thấy được đồng tiền đã mất, thì niềm vui mừng của Thiên Chúa sẽ lớn lao hơn khi một người tội lỗi ăn năn hối cải!

Lc 15:11-32:  Trong bài dụ ngôn thứ ba, người cha cố gắng đi tìm người con đã mất
Bài dụ ngôn này rất nổi tiếng.  Nó nhắc nhở chúng ta về những việc xảy ra trong cuộc sống cũng như những chuyện khác không xảy ra.  Tiêu đề truyền thống của bài dụ ngôn này là “Đứa Con Hoang Đàng”.  Thật ra, bài dụ ngôn không chỉ nói về người con thứ, mà nó mô tả thái độ của cả hai người con, nhấn mạnh đến nỗ lực của người cha muốn tìm lại hai người con đã mất của ông.  Sự kiện mà Luca để bài dụ ngôn này vào chương giữa của sách Phúc Âm của ông cho chúng ta biết tầm quan trọng của nó như thế nào trong việc giải thích toàn bộ sứ điệp chứa đựng trong Tin Mừng của Luca.

Lc 15:11-13:  Quyết định của người con thứ
Một người cha có hai con trai.  Người con thứ đến xin người cha chia gia tài cho nó.  Người cha đã chia của cải cho các con.  Người con cả lẫn người con thứ đều nhận phần gia tài của mình.  Được thừa hưởng một cái gì đó không phải là vì công trạng cá nhân.  Đó làm một món quà cho không.  Thừa kế gia tài của Thiên Chúa được chia sẻ như là những món quà tặng cho tất cả nhân loại, người Do Thái và dân ngoại, các Kitô hữu và không Kitô hữu.  Tất cả đều được thừa hưởng gia tài của Chúa Cha.  Không phải tất cả ai cũng gìn giữ phần gia tài của mình cùng một cách.  Vì thế, người con thứ đã trẩy đi xa và phung phí phần gia tài của nó bằng cách sống một cuộc sống ăn chơi và quên bẵng người cha của mình.  Dụ ngôn chưa đề cập đến người con cả cũng nhận phần gia tài của mình.  Sau đó, chúng ta biết là người con cả ở lại nhà, tiếp tục cuộc sống của anh ta như bình thường và làm việc ngoài đồng.  Trong thời đại của Luca, người con cả đại diện cho các cộng đoàn đến từ Do Thái giáo; người con thứ đại diện cho các cộng đoàn đến từ dân ngoại.  Ngày nay, ai là người con thứ và ai là người con cả?  Hay là có thể cả hai đều hiện hữu trong mỗi một người chúng ta?

Lc 15:14-19:  Tâm trạng thất vọng của người con thứ và ý muốn trở về nhà Cha
Nhu cầu ăn uống đã khiến cho người con thứ mất sự tự do và trở thành một kẻ nô lệ, đi chăn heo.  Anh ta bị đối xử tệ bạc hơn heo nữa.  Đây là tình cảnh của hàng triệu người nô lệ trong đế quốc La-mã vào thời thánh Luca.  Tình cảnh này nhắc nhớ người con thứ lại cảnh nhà Cha nó:  “Có biết bao nhiêu người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi ở đây phải chết đói!”  Anh ta thấy cuộc sống của mình như thế và quyết định trở về nhà.  Thậm chí anh ta còn chuẩn bị sẵn những lời để nói với Cha anh:  “Tôi sẽ rời chỗ này và trở về với cha và nói:  Thưa Cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến Cha; con không đáng được gọi là con cha nữa; xin cha đối xử với con như một người làm công của cha!”  Người làm công làm những gì anh ta được sai làm, theo đúng luật lệ của tôi tớ.  Người con thứ muốn tuân theo luật lệ, như những người Biệt Phái và luật sĩ muốn làm trong thời của Chúa Giêsu (Lc 15:1).  Đây là những gì mà các nhà truyền giáo Biệt Phái đã áp đặt trên các dân ngoại khi họ cải đổi theo đạo Thiên Chúa của Abraham (Mt 23:15).  Trong thời đại của thánh Luca, các Kitô hữu có gốc từ Do Thái giáo muốn các Kitô hữu gia nhập từ ngoại giáo phải tuân theo các tục lệ của người Do Thái (Cv 15:1).

Lc 15:20-24:  Nỗi vui mừng của người Cha khi tìm lại được người con thứ
Dụ ngôn nói rằng khi người con thứ còn ở đằng xa, người cha chợt trông thấy, ông chạy lại và ôm choàng lấy cổ anh ta một hồi lâu.  Chúa Giêsu cho chúng ta một ấn tượng là người cha đã chờ đợi bên cửa sổ lâu lắm rồi, trông ra đường, cố gắng ngóng xem liệu con của ông có xuất hiện ở cuối đường không!  Theo lối cảm xúc và suy nghĩ của chúng ta, niềm vui mừng của người cha có vẻ hơi quá đáng.  Ông đã không để cho người con nói hết những gì anh ta đã chuẩn bị.  Ông không muốn nghe!  Người Cha không muốn con của mình trở thành một kẻ nô lệ.  Ông muốn anh ta là con của ông!   Đây là Tin Mừng tuyệt vời mà Chúa Giêsu đã mang lại!  Một áo mới, giày mới, nhẫn đeo tay, con bê, yến tiệc!  Trong niềm vui lớn lao của buổi tao phùng này, Chúa Giêsu cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua về nỗi buồn phiền nặng trĩu của người Cha khi mất đi một đứa con.  Thiên Chúa đã vô cùng buồn phiền và bây giờ người ta bắt đầu ý thức được điều này khi họ thấy sự mừng rỡ khôn xiết của người Cha khi được trông thấy con mình lần nữa!  Niềm vui này được chia sẻ với tất cả mọi người tại bữa tiệc mừng mà người Cha đã bảo các người làm dọn ra.

Lc 15:25-28a:  Phản ứng của người con cả
Người con cả trở về sau khi làm việc ở ngoài đồng và thấy trong nhà có yến tiệc.  Anh ta không vào nhà.  Anh muốn biết chuyện gì đang xảy ra.  Khi được cho biết lý do của việc ăn uống linh đình, anh ta nổi giận và quyết định không vào nhà.  Tự cô lập, người con cả chỉ nghĩ đến quyền lợi của mình.  Anh ta không đồng ý với việc mở tiệc ăn mừng và không thể hiểu được nỗi vui mừng của người Cha.  Điều này ngụ ý rằng anh ta đã không hiểu Cha lắm, dù rằng họ sống chung dưới một mái nhà.  Nếu anh hiểu Cha mình, thì anh đã ý thức được nỗi buồn phiền to tát của người Cha khi mất đi đứa con thứ và sẽ hiểu nỗi vui mừng của Cha khi thấy con trở về.  Bất cứ ai quá quan tâm đến việc tuân giữ luật Thiên Chúa thì có nguy cơ chính mình sẽ lãng quên Thiên Chúa!  Người con thứ, ngay cả lúc nó ở xa nhà, dường như hiểu Cha nó hơn là anh nó, người cùng sống chung nhà với cha!  Do đó, người con thứ đã có đủ can đảm để trở về nhà Cha, trong khi người con cả lại không thèm vào nhà!  Người con cả không muốn làm một người anh, đã không nhận thức được rằng, không có mình, Cha sẽ sầu khổ, bởi vì anh ta cũng là con của Cha y như em của anh ta vậy!

Lc 15:28b-30:  Thái độ của người cha đối với người con cả và câu trả lời của người con
Người Cha chạy ra và van xin người con cả vào nhà.  Nhưng người con trả lời:  “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và không hề trái lệnh cha một điều nào, mà chưa bao giờ cha cho riêng con một con dê con để con ăn mừng với chúng bạn.  Còn thằng con của cha kia, sau khi đã phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về, thì cha lại sai làm thịt con bê béo ăn mừng nó!”  Người con cả hãnh diện về việc chấp hành lề luật của mình:  “Con không hề trái lệnh cha một điều nào!”  Anh ta cũng muốn có một bữa tiệc và liên hoan tưng bừng, nhưng chỉ với bạn bè của anh ta thôi.  Không muốn ăn mừng với người em, với người cha của anh ta.  Anh ta không hề đả động gì tới người em, cũng chẳng gọi là em mà gọi là “thằng con của cha kia”, như thể anh ta không còn là anh của người con thứ nữa.  Chính người anh cả đã nhắc đến những gái điếm.  Đó là ác ý của anh ta muốn giải thích đời sống hoang đàng của người em.  Đã bao lần người anh giải thích sai về đời sống của em mình!  Những người Công Giáo đã thường xuyên hiểu sai về đời sống của người khác như thế nào!  Thái độ của người Cha thì khác hẳn.  Ông chạy ra khỏi nhà và đến với cả hai người con.  Ông chào đón người em trở về, nhưng cũng không muốn mất người con trưởng.  Cả hai đều thuộc về một gia đình.  Không ai có thể loại trừ người khác!

Lc 15:31-32:  Câu đối đáp cuối cùng của người Cha   
Cũng như người Cha không màng tới những lời tạ lỗi của người con thứ, ông cũng không để tâm đến những lời phàn nàn của người con cả, và nói với nó rằng:  "Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con.  Nhưng chúng ta phải ăn tiệc mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy!"   Người con cả có bao giờ thực sự ý thức là được luôn luôn ở cạnh Cha và sự hiện diện của người đã là một điều hạnh phúc không?  Lời đối đáp của người Cha:  “Mọi sự của Cha là của con” bao gồm cả người con thứ vừa mới trở về!  Người con cả không có quyền thực hiện sự phân biệt.  Nếu anh ta muốn được làm con của người Cha, thì anh ấy sẽ phải chấp nhận ông như thế chứ không phải như người cha theo ý của anh ta!  Bài dụ ngôn không cho chúng ta câu trả cuối cùng của người con cả.  Điều này liên quan đến chúng ta, vì tất cả chúng ta là những người anh cả!

c)  Phần phụ chú: 

Hai cơ cấu kinh tế:  Nhà của Cha và Nhà của Ông Chủ

Bài dụ ngôn này được biết đến như là dụ ngôn người con hoang đàng, và điều này hàm ý những sự việc về mặt kinh tế.  Hoang đàng có nghĩa là ai đó tiêu xài một cách phung phí, mặc dù đây chỉ là một chi tiết phụ trong bài dụ ngôn.  Thật ra, điểm chính của bài Tin Mừng được tìm thấy trong thực tế là người đi theo Chúa Giêsu một ngày nào đó sẽ phải làm một sự chọn lựa: sự chọn lựa giữa Nhà của Cha hay hệ thống chia sẻ trong nhà của chủ hoặc hệ thống tích tụ của cải.

Bài dụ ngôn bắt đầu với một người thanh niên hỏi xin người cha chia phần gia tài thuộc về anh ta vì anh muốn rời khỏi nhà (Lc 15:12).  Để rời khỏi nhà của Cha đòi hỏi người ấy phải có một thứ mà thế giới sẵn sàng chấp nhận: tiền.  Không có tiền, người thanh niên không thể đối diện với thế giới.  Nhưng người thanh niên đã không trưởng thành đủ để quản trị tiền bạc và đi vào một cuộc sống trác táng (Lc 15:13).  Càng tệ hơn nữa, khi anh tiêu hết tiền của, anh phải trải qua lúc túng thiếu, mà theo ngôn ngữ Kinh Thánh, luôn được diễn tả bằng chữ “nạn đói”.  Trong thế giới kinh thánh, nạn chết đói chỉ tồn tại khi hệ thống kinh tế đã sụp đổ.  Vì thế người thanh niên bắt đầu lâm cảnh túng thiếu (Lc 15:14).

Những khó khăn phải đối diện tạo nên sự trưởng thành.  Người thanh niên thấy rằng anh ta vẫn cần tiền để tồn tại trong thế gian này.  Vì thế, lần đầu tiên trong đời, anh ta đi kiếm việc làm (Lc 15:15). Do đó anh ta vào giúp việc cho một Người Chủvà người này sai nó ra đồng chăn heo.  Anh ta rất đói, mà tiền lương thì không đủ để mua thức ăn và anh ta cố gắng làm dịu cơn đói bằng cách ăn những thức ăn của heo ăn cho đầy bụng (Lc 15:16).  Trong khi đó, tại nhà của người chủ những việc không đơn giản như thế:  thức ăn của heo là cho heo.  Người làm công phải dùng tiền lương mà mua thức ăn để ăn.  Vì thế nỗi lo lắng của người chủ không phải là cái bụng đói của người làm công mà là việc vỗ béo các con heo.  Người thanh niên khám phá ra rằng tại nhà của người chủ thức ăn bị chối từ, không được chia sẻ, thậm chí ngay cả thức ăn cho heo. Ai có phần của người nấy!

Rút từ kinh nghiệm trong nhà của người chủ, người thanh niên bắt đầu so sánh tình trạng hiện tại của mình với cảnh trong nhà của cha nó.  Trong Nhà của Cha nó, các người làm công không đói vì bánh được chia sẻ với tất cả các người làm.  Trong nhà cha không ai là không có thức ăn, ngay cả những người làm công!  Bấy giờ người thanh niên quyết định trở về nhà cha nó.  Lúc này anh ta đã đủ trưởng thành để nhận biết rằng anh ta không thể được thừa nhận như một người con, vì vậy anh đã xin làm công cho cha.  Trong nhà người cha, các người làm công không đói vì bánh được chia sẻ cho mọi người.

Có người nghĩ rằng đứa con quay về bởi vì nó đói.  Nếu thế, sự trở về của nó là cơ hội chủ nghĩa.  Không phải thế, nhưng là một sự lựa chọn cho loại ngôi nhà.  Trong nhà người chủ, ai lo phận nấy, không có gì để chia sẻ, ngay cả thức ăn cho heo.  Trong nhà của người cha, không ai phải bị đói vì sứ vụ của Nhà Cha là “kẻ đói nghèo được ban của đầy dư” (Lc 1:53).  Chia sẻ là điều đã giúp cho không ai bị đói trong nhà người cha.  Nhưng người thanh niên chỉ khám phá ra điều này vì anh ta đã bị bỏ đói trong nhà người chủ.  So sánh hai khung cảnh, người thanh niên đã làm một sự chọn lựa cho mình:  anh ta ước mong được là người làm công trong nhà của cha, nơi có sự chia sẻ, nơi mà không ai bị bỏ đói và mọi người đều no đủ.  Vì vậy, anh ta đã trở về nhà cha và xin được là một trong những người làm công (Lc 15:17-20).

Bằng cách để đề tài này tại giữa trung tâm quyển Tin Mừng của mình, thánh Luca cảnh tỉnh các cộng đoàn Kitô hữu đang tự tổ chức trong một hệ thống kinh tế đặc thù của Đế quốc La-Mã.  Hệ thống này được tượng trưng trong bài dụ ngôn là nhà của người chủ, nơi mà các con heo được chăm sóc hơn các công nhân, hoặc, nơi mà sự đầu tư được coi trọng hơn công việc.  Trong nhà của người Cha, hay là trong nhà của các Kitô hữu, hệ thống này không thể tồn tại.  Các Kitô hữu phải chú trọng đời sống của họ vào việc chia sẻ của cải của mình.  Chia sẻ của cải có nghĩa là đối chọi với hệ thống thống trị của đế quốc.  Nó có nghĩa là phá vỡ nhà của người chủ.  Trong Sách Công Vụ Tông Đồ chúng ta thấy một trong những đặc tính đẹp của cộng đoàn Kitô hữu là sự chia sẻ của cải (Cv 2:44-45; 3:6; 4: 32-37).

Luca muốn nhắc nhở chúng ta rằng dấu hiệu lớn nhất của nước Thiên Chúa là bàn tiệc chung trong nhà của Chúa Cha, nơi mà có đủ chỗ cho tất cả mọi người và là nơi bánh được chia cho tất cả mọi người.  Sống trong nhà của Chúa Cha nghĩa là chia sẻ mọi thứ tại bàn tiệc chung của cộng đoàn. Không ai bị loại trừ khỏi bàn này.  Tất cả chúng ta được kêu gọi để chia sẻ.  Như chúng ta được thường xuyên nhắc nhở trong các buổi lễ của chúng ta:  không ai nghèo đến nỗi mà người ấy không có một cái gì để xớt chia với người khác.  Và cũng không ai giàu có đến nỗi mà người ấy không thể nhận thêm được nữa.  Bàn tiệc chung được xây trên sự chia sẻ của tất cả mọi người.  Do đó, buổi tiệc ăn mừng tại nhà Chúa Cha sẽ được đến muôn đời.

Ba bài dụ ngôn có vài điểm chung:  niềm hân hoan và tiệc mừng.  Bất cứ ai có kinh nghiệm với cổng vào tự do và đáng ngạc nhiên của tình yêu Thiên Chúa trong cuộc sống của người ấy thì sẽ vui mừng và sẽ muốn báo cho những người khác về niềm vui này.  Hành động cứu rỗi của Thiên Chúa là nguồn mạch của sự vui mừng:  “Hãy vui mừng với tôi!” (Lc 15:6-9).  Từ kinh nghiệm về sự biết ơn này của Thiên Chúa mà ý thức tiệc mừng và niềm hân hoan được nảy sinh (Lc 15:32).  Ở cuối dụ ngôn, người Cha kêu gọi hãy vui mừng và tán dương.  Niềm vui mừng có vẻ như bị làm mất vui bởi người con cả không muốn vào nhà.  Anh ta muốn có quyền chỉ ăn mừng riêng với chúng bạn và không muốn ăn mừng với các người thân khác trong gia đình của mình.  Anh ta đại diện cho những người tự coi mình là người công chính và nghĩ rằng họ không cần sự hoán cải.
                                           
6.  Cầu Nguyện

Thánh Vịnh 63 (62):  Ân Tình Chúa quý hơn mạng sống 

Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ,
ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
tấm thân này mòn mỏi đợi trông,
như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.
Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện,
để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.
Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống,
miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.

Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng,
và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.
Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc,
môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.
Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ,
suốt năm canh thầm thĩ với Ngài.
Quả thật Ngài đã thương trợ giúp,
nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.
Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó,
giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì.

Còn những kẻ tìm hại mạng sống con,
ước gì chúng phải xuống vực sâu lòng đất,
bị gươm giáo phanh thây, làm mồi cho muông sói.
Đức Vua sẽ vui mừng trong Thiên Chúa.
Ai lấy danh Chúa mà thề sẽ được hiên ngang;
còn người nói dối phải câm miệng.

7.  Lời nguyện kết

Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét