16/10/2016
Chúa Nhật tuần 29 thường niên năm C
KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO.
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa nhật 29 Thường niên C
CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN C
Xh 17,8-13; 2
Tm 3,14-4,2; Lc
18,1-8
KIÊN TÂM CẬY TRÔNG VÀO CHÚA
“Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét
cho những kẻ Người đã tuyển chọn,
ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?”
(Lc 18,7).
cho những kẻ Người đã tuyển chọn,
ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?”
(Lc 18,7).
I.
CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài
đọc 1:
Hành
trình Dân Chúa chinh phục Đất Hứa không hề là điều dễ dàng. Họ phải chiến đấu
với nhiều vua chúa và dân tộc bản địa. Nhưng trên hết, trong tâm thức của Dân
Chúa, Thiên Chúa mới là Đấng chiến đấu và giúp họ chiến thắng.
Amalếch
là một nhóm dân du mục trong vùng đất Canaan, kiếm sống một phần bằng cách tấn
công những nhóm dân cư khác và chiếm tài sản của họ (x. Tl 3,13). Dân Amalếch
thuần dưỡng lạc đà và dùng nó để thực hiện các cuộc tấn công bất ngờ. Tuy bị
tấn công bởi một nhóm dân khá hùng mạnh như thế, nhưng xem ra Môsê không chuẩn
bị kỹ càng cho cuộc chiến: Ông không đích thân chỉ huy mà cử Giôsuê, một phụ tá
trẻ, phụ trách việc chiến đấu; hơn nữa, ông chỉ ra lệnh cho Giôsuê “chọn một số
người” ra nghênh chiến. Như thế, đối với Môsê, đây không phải là một cuộc chiến
dựa vào chiến thuật của con người.
Thay
vào đó, trong vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và Dân Ngài, hành động của ông
Môsê mới là yếu tố quyết định của cuộc chiến thắng. Từ trên đồi cao, ông Môsê,
với sự trợ giúp của hai ông Aharon và Khua, đã giương cao cây gậy như là dấu
chỉ quyền năng của Thiên Chúa. Và bao lâu cây gậy còn được giương cao, thì bấy
lâu Ítraen còn chiến thắng. Như thế, đây không phải là cuộc chiến thắng của
những cố gắng của con người mà là cuộc chiến thắng nhờ sức mạnh của Thiên Chúa.
Bao lâu Dân Chúa biết cậy dựa vào Thiên Chúa, thì Ngài sẽ ra tay chiến đấu và
giúp họ chiến thắng.
Kinh
nghiệm của bao thế hệ Dân Chúa dạy họ rằng nếu dân tin tưởng, cậy trông vào sức
mạnh của Thiên Chúa, và biết kêu cầu danh Ngài, thì Ngài sẽ giúp họ chiến thắng
mọi quân thù.
2. Bài
đọc 2:
Trong bối cảnh của những lung
lạc có thể xảy ra vào thời cuối cùng, tác giả thư thứ hai gửi ông Timôthê cho
thấy Sách Thánh có nguồn gốc thần linh và có sức giáo huấn người ta trở nên
khôn ngoan, công chính mà đón nhận ơn cứu độ. Vì thế, Sách Thánh cần được rao
giảng cho người khác.
Trước hết, Sách Thánh có nguồn
gốc thần linh. Quả vậy, tác giả thư thứ hai gởi ông Timôthê khẳng định cách
chắc chắn rằng tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều được Thiên Chúa linh
hứng (2 Tm 3,16). Dù được viết ra bởi tác giả nhân loại, nhưng Sách Thánh chính
là Lời Chúa, Lời được viết ra theo ý định của Thiên Chúa vì ơn cứu độ của con
người. Vì thế, Sách Thánh chính là chuẩn mực cho đời sống đức tin, là kim chỉ
nam hướng dẫn con người đường về với Thiên Chúa.
Sau
nữa, Sách Thánh có chức năng giáo huấn. Thật vậy, Sách Thánh “có
thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Giêsu
Kitô” (2 Tm 3,15).
Đối với tác giả thư thứ hai Timôthê, ơn cứu độ được hứa ban cho những ai có
lòng tin vào Đức Giêsu Kitô (x. Mc 16,16; Rm 1,16; 10,9); và người ta chỉ thật
sự trở nên khôn ngoan khi được sự dạy dỗ của Sách Thánh, để có thể hiểu, tin và
đón nhận ơn cứu độ. Vì thế, Sách Thánh được xem như phương tiện hữu hiệu và“có ích cho việc giảng dạy, biện bác,
sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính”(3,16), nghĩa là được biến
đổi để trở nên xứng đáng với cứu độ.
Sau
cùng, Sách Thánh cần được rao giảng cho người khác. Ông Timôthê được tha thiết
mời gọi hãy rao giảng lời Chúa, dù thuận tiện hay không. Một khi biết dùng Sách
Thánh mà “biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với
tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ” (4,2), thì Sách Thánh trở nên chuẩn
mực hướng dẫn đời sống. Để Sách Thánh được người khác nhận biết và yêu mến đòi
hỏi nỗ lực của người rao giảng, có khi chấp nhận vượt qua những khó khăn, những
bất tiện.
3. Bài
Tin Mừng:
Dụ ngôn cho thấy sự đối nghịch
giữa một vị quan tòa đầy quyền lực, ở địa vị cao và thuộc tầng lớp trên trong
xã hội với một bà góa yếu ớt, thấp kém và bị coi thường. Vì bà thuộc tầng lớp
thấp trong xã hội, nên chắc chắn sẽ phải chịu thiệt thòi khi khiếu kiện. Dẫu
vậy, với sự kiên trì, bà đã đạt được điều bà muốn. Khi kể dụ ngôn này, chắc hẳn
Chúa Giêsu không có ý đánh đồng các môn đệ với bà góa, hay Thiên Chúa với ông
quan tòa bất chính, nhưng đặt các môn đệ trước những thái độ sống khác nhau.
Một là thái độ sống của vị
quan tòa. Ông ta là hiện thân của một lối sống thực dụng của kẻ có quyền. Vì có
quyền nên ông không thừa nhận bất cứ một thứ quyền bính nào ở trên ông (không
kính sợ Thiên Chúa), nhưng lại biết dùng quyền cách hiệu quả với những kẻ ở
dưới ông (không coi ai ra gì). Với quyền bính trong tay, ông không cần tin ai
mà cũng chẳng phải sợ ai, nên ông chẳng bận tâm đến việc thực thi công lý. Điều
ông quan tâm chỉ là một cuộc sống thoải mái, yên bình. Do vậy, dù “không kính
sợ Thiên Chúa cũng chẳng coi ai ra gì”, ông đã minh xét cho bà góa chỉ vì muốn
có một cuộc sống không bị phiền hà, quấy rầy. Hai là thái độ sống của bà góa.
Bà góa không có tí quyền bính hay chút địa vị nào, nhưng lại đầy quyết tâm và
tin tưởng rằng công lý sẽ được thực thi; và bà sẽ không từ bỏ cho đến khi đạt
được mục đích. Bà bất chấp mọi khó khăn, bà không sờn lòng nản chí vì thân phận
thấp kém của mình, mà quyết tâm đòi hỏi cho đến khi được đáp ứng mới thôi.
Ngay từ đầu dụ ngôn, tác giả
Luca đã xác định rõ rằng, mục đích của dụ ngôn này là để dạy các môn đệ “phải
cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Dụ ngôn mời gọi các môn đệ bắt chước thái
độ của bà góa trong đời sống cầu nguyện. Bà goá được lắng nghe vì bà đã kiên
trì kêu cầu. Nếu một ông quan tòa chẳng ra gì, mà còn chịu khuất phục trước sự
bền bỉ kêu cầu của bà góa, thì chẳng lẽ “Thiên Chúa lại không minh xét cho
những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?” Câu hỏi tu
từ cũng là lời khẳng định rằng Người sẽ “mau chóng minh xét” cho họ.
Vậy trong hai thái độ đó,
người môn đệ của Chúa sẽ chọn lối sống nào? Liệu họ có chọn một lối sống tiện
nghi, thoải mái như ông quan tòa, mà từ bỏ những đòi hỏi khắt khe của Tin Mừng?
Hay họ chấp nhận mọi khó khăn, thiệt thòi mà sống trung tín cho đến cùng như bà
góa? Liệu người môn đệ của Chúa có hoàn toàn tin tưởng vào một Thiên Chúa luôn
yêu thương lắng nghe những lời cầu nguyện tha thiết của họ? Liệu họ có bền bỉ
đợi chờ cho đến khi Người trở lại?
II. GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Dân Chúa chiến đấu và
chiến thắng dân Amalếch không phải nhờ chiến thuật hay sức mạnh quân sự, mà nhờ
biết tin tưởng và cậy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa. Kinh
nghiệm của bao thế hệ Dân Chúa dạy họ rằng nếu họ tin tưởng, cậy trông vào sức
mạnh của Thiên Chúa, và biết kêu cầu danh Ngài, thì Ngài sẽ giúp họ chiến thắng
mọi quân thù. Hằng ngày tôi phải chiến đấu với những quân thù nào? Tôi thường
dựa vào sức mình, hay dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa?
2/ Tác giả thư thứ hai gửi ông
Timôthê cho thấy Sách Thánh có nguồn gốc thần linh và có sức giáo huấn người ta
trở nên khôn ngoan, công chính mà đón nhận ơn cứu độ. Do vậy, Sách Thánh cần
được rao giảng cho nhiều người, để họ cũng nhận biết, yêu mến và nhờ đó mà được
ơn cứu độ. Tôi có xác tín vào sức mạnh biến đổi của Sách Thánh? Tôi có để cho
Sách Thánh giáo huấn tôi nên người công chính? Tôi có sẵn sàng rao truyền Sách
Thánh cho người khác?
3/ Nhờ kiên trì thỉnh cầu mà
bà góa đã được ông quan tòa minh xét, dù ông ta “chẳng kính sợ Chúa cũng không
coi ai ra gì”. Tôi có sẵn sàng chấp nhận mọi khó khăn, thiệt thòi mà kiên tâm
cho đến cùng như bà góa? Tôi có hoàn toàn tin tưởng vào một Thiên Chúa luôn yêu
thương lắng nghe những lời cầu nguyện tha thiết của tôi? Tôi có thật sự bền bỉ
và trung tín đợi chờ cho đến khi Người trở lại?
III.
LỜI NGUYỆN
CHUNG:
Chủ tế: Anh chị em thân mến!
Cầu nguyện là hơi thở đời sống đức tin của người tín hữu nên Chúa Giêsu đã dạy
chúng ta phải cầu nguyện không ngừng. Với tâm tình của người môn đệ quyết tâm
theo Chúa, cộng đoàn chúng ta hãy tha thiết dâng lời cầu xin:
1. Lời cầu nguyện của Môisen đã
đem lại chiến thắng cho con cái Israel. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ
chăn trong Hội Thánh luôn là mẫu gương sống động về đời sống cầu nguyện, để Dân
Chúa được hưởng nhờ muôn vàn ơn ích cho đời sống thiêng liêng.
2. “Khi Con Người đến,
liệu sẽ còn thấy được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” Chúng ta cùng cầu xin
cho các dân tộc và quốc gia có truyền thống Kitô giáo lâu đời luôn biết trân
trọng và gìn giữ di sản đức tin mà bao thế hệ cha ông đã tuyên xưng và làm
chứng.
3. Nhờ kiên trì kêu cầu mà
bà góa nghèo đã được toại nguyện. Chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho Chúa bao
nạn nhân trong các trận bão lụt ở nhiều nơi trên thế giới thời gian qua. Xin
Chúa xoa dịu những đau khổ mất mát và chúc lành cho công cuộc khắc phục tái
thiết.
4. Cầu nguyện giúp con
người duy trì tương quan sống động với Thiên Chúa. Xin cho mọi người trong cộng
đoàn chúng ta biết siêng năng đến với Chúa qua những cử hành phụng vụ, và luôn
kết hợp mật thiết với Người trong mọi hoàn cảnh vui buồn của cuộc sống.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất
nhân từ, Chúa biết rõ những gì cần thiết và hữu ích cho con cái Chúa, xin nhận
lời chúng con cầu nguyện và ban dồi dào Thánh Thần để chúng con luôn tìm kiếm
và thi hành điều Chúa muốn. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
SCĐ CHÚA NHỰT XXIX TN C
Chủ đề :
Cầu nguyện kiên trì
"Xin
ngài minh xét cho tôi" (Lc 18,3)
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Nhờ
Môsê cầu nguyện mà quân do thái đã chiến thắng quân của Amaléc.
- Tin Mừng :
Gương kiên trì nài xin của một bà góa.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Cầu nguyện và Tin luôn
gắn liền với nhau : vì chúng ta Tin nên chúng ta cầu nguyện, và nhờ cầu
nguyện nên đức tin của chúng ta được củng cố thêm. Bởi thế Chúa Giêsu dạy các
tín hữu Ngài phải cầu nguyện luôn, nghĩa là không chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện
gì khó khăn, mà phải cầu nguyện trong mọi lúc.
Trong Thánh lễ này,
chúng ta hãy xin Chúa dạy chúng ta biết cầu nguyện và giúp chúng ta cầu nguyện
luôn, để đức tin của chúng ta ngày càng thêm vững mạnh.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta thường mải
mê với công việc mà lười biếng cầu nguyện.
- Tuy chúng ta có cầu
nguyện nhưng chúng ta không cầu nguyện cách kiên trì.
- Nhiều khi chúng ta
cầu nguyện mà trong lòng không mấy tin tưởng vào Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh
17,8-13)
Chuyện này kể về thời
dân do thái đang tiến vào Đất Hứa. Họ phải giao chiến với những dân đã định cư
sẵn trong miền đất đó. Đoạn này thuật cuộc giao chiến với quân Amaléc :
- Môsê giao cho ông
Giôsuê dẫn quân đi giao chiến. Phần ông thì ở trên núi giang tay cầu nguyện.
- Khi nào Môsê còn
giang tay cầu nguyện thì quân Israel thắng thế ; ngược lại khi Môsê mỏi
mệt quá bỏ tay xuống thì quân Israel thua. Người ta mới lấy một tảng đá kê cho
Môsê ngồi, lại cử thêm hai người giúp Môsê nâng tay lên. Nhờ đó Môsê có thể
giang tay cầu nguyện lâu giờ, và kết quả là Israel đã toàn thắng.
Chuyện này muốn nói
rằng chiến thắng không phải do sức mạnh của quân Israel, mà nhờ sự phù hộ của
Chúa do lời cầu nguyện của Môsê.
2. Đáp ca (Tv 120)
Thánh vịnh này tiếp
nối ý tưởng của bài đọc I : "Ơn phù trợ tôi bởi nơi nao ? Ơn phù
trợ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời"
3. Tin Mừng (Lc
18,1-8)
Thánh Luca cho biết rõ
ý nghĩa của dụ ngôn này là dạy "các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không
được nản chí". Dụ ngôn có hai vai :
- bà góa : trong
xã hội do thái, các bà góa chịu nhiều thiệt thòi và không ai bênh vực. Bà góa
này có lẽ bị người ta ức hiếp nhưng vì không ai bênh vực nên chỉ còn biết chạy
đến kêu cứu với thẩm phán.
- thẩm phán : lẽ
ra nhiệm vụ của ông là bênh vực những người bị ức hiếp. Nhưng ông thẩm phán này
không bênh vực bà góa vì bà chẳng có lợi gì cho ông cả. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên
trì kêu xin nên cuối cùng ông cũng xử công bình cho bà.
* Bài học : một
người bất công như viên thẩm phán mà còn phải chịu thua lòng kiên trì của bà
góa. Huống chi Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ mau chóng bênh vực kẻ kêu xin Ngài
cách kiên trì.
Tuy nhiên, có nhiều kẻ
không kiên trì nên đã mất lòng tin. Đó là ý nghĩa câu cuối cùng :
"Nhưng khi Con Người ngự đến. liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất
nữa chăng ?".
4. Bài đọc II (2 Tm
3,14--4,2) (Chủ đề phụ)
Phaolô biết rằng mình
sắp chấm dứt cuộc đời nên viết thư cho môn đệ mình là Timôtêô để khuyên ông này
giữ vững những gì đã học được từ Sách Thánh.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Vai trò của cầu
nguyện
Không ai có thể sống
đời Kitô hữu tốt mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu nguyện là gì
và cầu nguyện thế nào.
Có 3 người bị kẹt
trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào để thoát khỏi
tình trạng bế tắc này ?
- Người thứ nhất là
một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng nguyền rủa.
- Người thứ hai là một
tín hữu sốt sắng. Anh đã quỳ gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép
lạ.
- Người thứ ba cũng là
một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức vừa thực tế. Sau khi cầu nguyện, anh
lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi bắt đầu đục tường. Công
việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào cả mắt anh. Mồ hôi anh
nhễ nhại. Nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng lại nói "Lạy Chúa,
xin cứu giúp chúng con".
Đang lúc đó người thứ
nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa ; người thứ hai ở
một góc khác tiếp tục cầu nguyện.
Cuối cùng người thứ ba
đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả 3 người đã thoát ra khỏi căn
phòng.
Trên đây là 3 thái độ
khác nhau đối với sự cầu nguyện :
- Người thứ nhất coi
cầu nguyện là mất giờ. Vì anh không có đức tin nên thái độ của anh cũng hợp lý
thôi. Nếu bạn không tin Chúa thì cầu nguyện với Ngài sao được ?
- Người thứ hai coi
cầu nguyện là một sự thay thế cho làm việc, vì thế sau khi cầu nguyện xong
người ấy ngồi chờ Chúa giúp. Phải thành thật nhìn nhận rằng chúng ta cũng nhiều
lần cầu nguyện cách này, đặc biệt là khi chúng ta cầu nguyện cho người khác.
Chỉ là những lời nói, và những lời đó trở thành một cái cớ để ta khỏi làm việc.
- Người thứ ba tin
tưởng vào hiệu quả của cầu nguyện, hiệu quả ấy không thay thế làm việc, mà là
trợ lực cho làm việc. Cầu xin điều gì thì đồng thời cũng cố gắng làm bất cứ
việc gì có thể để đạt được điều đó. Sự cầu nguyện này khơi lên niềm hy vọng và
khuyến khích lòng can đảm. Nó cũng giúp ta cảm nhận rằng Chúa ở kề bên ta và
không bỏ mặc ta trong cảnh khó khăn.
* 2. Cầu nguyện luôn
Đoạn Tin Mừng hôm nay
bắt đầu như sau : "Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn,
không được nản chí". Nhiều người chưa thấy giá trị của sự cầu nguyện liên
tục. Họ nghĩ chỉ cần cầu nguyện khi có việc cần Chúa giúp, thế là đủ. Chuyện
sau đây là câu trả lời cho những người ấy.
Có một thành phố nhỏ
kia có đầy đủ mọi cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà
thờ, tòa án, chợ, tiệm may, tiệm ăn v.v. Chỉ thiếu một điều là không có thợ sửa
đồng hồ. Bởi vậy các đồng hồ lớn đồng hồ nhỏ của những cư dân thành phố này dần
dần cái thì hư, cái thì chạy sai. Một số người quẳng đồng hồ vào tủ. Một số
khác cố gắng tự mình lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm mặc dù những
chiếc đồng hồ ấy chạy không được chính xác lắm.
Một ngày kia có một
người thợ sửa đồng hồ đến thành phố. Mọi người rất mừng, ai nấy đều mang đồng
hồ đến nhờ anh sửa. Tuy nhiên anh nói thật : "Tôi chỉ có thể sửa
những chiếc đồng hồ nào còn chạy. Còn những chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì
tôi không sửa nỗi vì chúng rỉ sét hết rồi".
Cầu nguyện luôn cũng
giống như giữ cho chiếc đồng hồ đời ta luôn luôn chạy.
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện luôn, vì :
- Sự cầu nguyện luôn
soi sáng niềm hy vọng và những dự định của chúng ta.
- Sự cầu nguyện luôn
giúp ta phân biệt được điều gì là quan trọng, điều gì là tầm thường.
- Sự cầu nguyện luôn
giúp ta khám phá ra những ước vọng chân thật, những ray rứt lương tâm bị bóp
nghẹt, những nỗi khát khao bị quên lãng.
- Sự cầu nguyện luôn
chỉ cho ta thấy những lý tưởng cao đẹp cần vươn tới.
- Và nhất là sự cầu
nguyện luôn giữ ta thường xuyên gần gũi với Chúa.
* 3. Hai tư thế cầu
nguyện
Hồi còn bé, chúng ta
được dạy chấp tay lại khi cầu nguyện. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thấy Linh
mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu nguyện.
Cầu nguyện chấp tay có
nghĩa là chúng ta tạm dừng những hoạt động để chuyên tâm nghĩ đến Chúa. Còn cầu
nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những người nghèo nàn trước mặt
Chúa, chúng ta làm như người ăn xin đưa hai bàn tay không ra để xin ơn Chúa.
Hai tư thế cầu nguyện
trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều
không chấp lại hay giang ra, chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai tư
thế ấy. (FM)
* 4. Cầu thay nguyện
giúp
Một lá thư được viết
nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy
làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng : "Chúa thân mến,
con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con.
Xin Chúa cho chúng con30O đồng nhé".
Đọc thư xong, anh nhân
viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định
quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới
địa chỉ cậu bé.
Vài tuần sau, họ nhận
được lá thư thứ hai. Họ cũng mở ra đọc, thư viết như sau : "Lần tới,
Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200
đồng !"
*
Nghe xong câu chuyện,
chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta
lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu
bé : Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu
chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ "chỉ tiêu" chúng ta đưa ra,
thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.
Tin Mừng hôm nay Chúa dạy
các môn đệ : "Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí" (Lc 18,1). Người
muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì
giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao
ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm
trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện
liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.
Chúng ta không nên tìm
kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi
nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm
lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với
ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn
chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi
người.
Thường chúng ta lầm
tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng
thánh Phao lô dạy : "Chúng ta không biết cầu nguyện thế
nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý
Thiên Chúa" (Rm 8,21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton
Sheen viết : "Pytago. đã cấm môn sinh của ông không được cầu
nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả". Khôn ngoan hơn,
Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết
tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh
Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao
xuyến.
Như thế, cầu nguyện
không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện
không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng
không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu
nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên
Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức
thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than
thở : "Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng
tin trên mặt đất nữa chăng ?" (Lc 18,8). Vậy, cầu
nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên
Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.
*
Lạy Chúa, chúng con là
những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào
cho phải đạo.
Xin cho chúng con biết
khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo
Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng. Amen.
(TP)
5. Mảnh suy tư
a/ Cầu nguyện là dầu
giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng.
- Hoa trái của cầu
nguyện là đức tin
- Hoa trái của đức tin
là tình yêu
- Hoa trái của tình
yêu là phục vụ
- Và hoa trái của phục
vụ là bình an.
b/ Lời cầu nguyện của
ta được Chúa đáp lời, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta xin, mà khi
chúng ta được Chúa ban cho ý thức Chúa đang gần gũi mình.
- Lời cầu nguyện của
bệnh nhân được đáp lời, không phải khi anh khỏi bệnh, mà khi anh cảm nhận được
Chúa vẫn ở cạnh mình, nhờ đó anh ý thức rằng cơn bệnh không phải là hình phạt
của Chúa, cũng không phải là dấu Chúa đã bỏ anh.
- Có thể sự cầu nguyện
không thay đổi thế giới, nhưng nó giúp ta có thể trực diện với thế giới.
c/ Hồi còn nhỏ, chúng
ta đã được dạy cầu nguyện bằng cách đọc kinh. Bây giờ đã lớn, chúng ta hãy học
cầu nguyện bằng cách mở rộng cõi lòng ra cho Chúa.
V. Lời nguyện cho mọi
người
Chủ tế : Anh chị em thân mến,
trải qua bao thế hệ, Đức Kitô đã muốn cho Hội thánh, nhiệm thể của Người, phải
không ngừng tiếp tục đời sống cầu nguyện và lễ tế hy sinh mà Người đã khởi sự
khi còn sống ở trần gian. Với quyết tâm tuân giữ lệnh truyền của Chúa, chúng ta
cùng dâng lời cầu xin :
1. Ngay từ đầu /
các tín hữu đã chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy / luôn sống với nhau
trong tình huynh đệ / siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không
ngừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu ngày nay / biết
noi gương các tín hữu ngày xưa mà siêng năng nguyện cầu.
2. Khiêm tốn và kiên
trì khi cầu nguyện / là điều mà bài Tin mừng hôm nay muốn nói với tất cả
mọi Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết khiêm
tốn dâng lên Chúa lời cầu khẩn thiết tha của mình.
3. Hội thánh kêu mời
mọi tín hữu cầu nguyện theo lối các Giờ Kinh Phụng vụ / kể cả những người
mà luật không buộc phải cử hành Thần vụ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
mọi tín hữu biết sốt sắng tham dự các Giờ Kinh Phụng vụ / vì đây là một
trong những phương tiện giúp chúng ta nên thánh.
4. Lời kinh tuyệt vời
Chúa Giêsu đã để lại cho người Kitô hữu là kinh Lạy cha / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết vừa đọc vừa suy
niệm / và sống tinh thần của lời kinh quan trọng nhất / trong đời
sống đức tin của mình.
Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu
Kitô, Chúa đã truyền cho chúng con : Phải cầu nguyện luôn và không bao giờ
được chán nản. Xin Chúa cho mỗi người chúng con biết triệt để thực thi lệnh
truyền của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy
Cha : Không lời cầu nguyện nào tuyệt vời bằng lời cầu nguyện chính Chúa
Giêsu đã dạy chúng ta. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài cầu nguyện bằng những lời
Ngài dạy.
VII. Giải tán
Chúng ta hãy ghi nhớ
lời Chúa Giêsu dạy "Hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ nản chí". Chúc
anh chị em được bình an nhờ làm theo lời Chúa dạy.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật XXIX Thường Niên (C)
Chúa
Nhật, 16 Tháng 10, 2016
Lời
cầu nguyện thực sự:
Ví
dụ về bà góa
Lc
18:1–8
1.
Lời nguyện mở đầu
Lạy
Chúa Giêsu, xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với
cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh
sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá
ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
mình. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin
Chúa hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng
Chúa trong sự Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng
ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.
Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau,
chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những
người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình
anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen.
2.
Bài Đọc
a)
Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bài
phụng vụ Chúa Nhật tuần này trình bày cho chúng ta một văn bản trích từ sách
Tin Mừng Luca liên quan đến lời cầu nguyện, một chủ đề tha thiết của ông.
Đây là lần thứ hai vị Thánh Sử này trích dẫn những lời của Chúa Giêsu dạy chúng
ta cách cầu nguyện. Lần đầu tiên (Lc 11:1-13), giới thiệu về văn bản của
Kinh Lạy Cha, bằng các phương cách so sánh và dụ ngôn, dạy chúng ta phải cầu
nguyện liên lỉ không mệt mỏi. Giờ đây, lần thứ hai (Lc 18:1-4), một lần nữa
Luca dùng đến các dụ ngôn được lấy từ đời sống hằng ngày để dạy cho chúng ta
cách cầu nguyện: dụ ngôn bà góa và vị thẩm phán (18:1-8). Thánh
Luca kể các dụ ngôn dưới một hình thức sư phạm. Mỗi dụ ngôn bắt đầu bằng
một lời giới thiệu ngắn gọn như cái chìa khóa dẫn đến bài đọc đó. Rồi
theo sau là bài dụ ngôn, và sau cùng, chính Chúa Giêsu áp dụng bài dụ ngôn vào
trong đời sống. Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần này chỉ thuật lại dụ ngôn đầu
tiên về bà góa và người thẩm phán (Lc 18:1-8). Trong khi đọc, chúng ta
nên chú ý điều sau đây: “Thái độ của mỗi nhân vật trong bài dụ ngôn này
là gì?
b)
Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc
18:1: Chìa khóa được đưa ra bởi Chúa Giêsu để giúp cho việc thông hiểu dụ
ngôn
Lc 18:2-3:
Sự tương phản giữa vị thẩm phán và bà góa
Lc
18:4-5: Sự thay đổi của vị thẩm phán và lý do của sự thay đổi
Lc
18:6-8a: Chúa Giêsu áp dụng dụ ngôn
Lc
18:8b: Lời thách thức cuối cùng
c)
Phúc Âm:
1 Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ
một dụ ngôn, dạy các ông cần phải cầu nguyện luôn và đừng ngã lòng: 2 “Trong
thành kia có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa. Cũng không kiêng
nể người ta. 3 Trong thành đó lại có một bà góa đến
thưa cùng ông rằng: ‘Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù!’ 4 Trong
một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: ‘Mặc dầu
ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, 5 nhưng
vì bá góa này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm
ta nhức óc.’ ” 6Rồi Chúa phán: “Các con hãy nghe lời
vị thẩm phán bất lương đó nói gì?” 7 Vậy Thiên Chúa
lại không minh xử cho những kẻ Chúa tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày
mà khoan giãn với họ mãi sao? 8 Thầy bảo các
con: Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ
còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa không?””
3.
Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời
Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4.
Một vài câu hỏi gợi ý
Để
giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Bạn hài lòng điều nào nhất trong
đoạn Tin Mừng này?
b) Thái độ của bà góa như thế
nào? Hoặc là trong những lời nói và việc làm của bà ta, điều gì đã đánh động
bạn nhất?
c) Điều gì đã đánh động bạn nhất
trong thái độ và lời nói của vị thẩm phán? Tại sao?
d) Chúa Giêsu đã áp dụng dụ ngôn này
ra sao?
e) Bài dụ ngôn này đã dạy chúng ta điều gì
trong cách chúng ta nhìn vào đời sống và người ta?
5.
Ý chính của bài Phúc Âm
Dành
cho những ai muốn đào sâu vào chủ đề
a)
Bối cảnh lịch sử:
Khi
phân tích bối cảnh lịch sử của sách Tin Mừng Luca, chúng ta phải luôn ghi nhớ
chiều kích đôi này: thời điểm của Chúa Giêsu trong thập niên 30, và thời
điểm của những người mà sách Tin Mừng được viết cho họ vào thập niên 80.
Việc ảnh hưởng đôi này, mỗi lần theo cách riêng của nó, cách viết của văn bản
Tin Mừng và phải hiện diện tại chỗ như chúng ta cố gắng khám phá ra ý nghĩa những
bài dụ ngôn của Chúa Giêsu cho chúng ta ngày hôm nay.
b)
Bối cảnh văn học:
Bối cảnh
văn học trực tiếp giới thiệu cho chúng ta hai dụ ngôn về việc cầu nguyện:
cầu nguyện liên lỉ và kiên trì (bà góa và vị thẩm phán) (Lc 18:1-8); cầu nguyện
trong khiêm cung và thực tế (người Biệt Phái và người thu thuế) (Lc
18:9-14). Mặc dù chúng khác nhau, hai dụ ngôn này có điểm tương đồng.
Chúng cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã nhìn những sự việc trong đời sống
theo một cách khác. Chúa Giêsu đã nhìn thấy sự mặc khải của Thiên Chúa
trong khi những người khác lại thấy đó là một điều tiêu cực. Ví dụ, Người đã thấy
điều tích cực nơi người thu thuế, kẻ mà mọi người đều nói: “Hắn không biết
cách cầu nguyện!” Và nơi bà góa nghèo hèn, người mà đã bị nói rằng:
“Bà ta lải nhải mãi đến nỗi làm phiền cả vị thẩm phán!” Chúa Giêsu đã hiệp
nhất với Đức Chúa Cha đến nỗi mà đối với Người mọi việc đã biến đổi thành một
nguồn mạch của cầu nguyện. Có nhiều cách để chúng ta có thể bày tỏ trong
lời cầu nguyện. Có những người nói: “Tôi không biết cầu nguyện như
thế nào”, nhưng họ nói chuyện với Thiên Chúa cả ngày. Bạn đã gặp người
nào như thế này chưa?
c)
Lời bình giải về đoạn Tin Mừng:
Lc
18:1: Chìa khóa để giúp cho việc thông hiểu dụ ngôn
Luca
giới thiệu dụ ngôn như sau: “Sau đó Người nói với các ông một dụ ngôn về
sự cần thiết phải cầu nguyện liên tục và không bao giờ nản lòng”. Những
chữ “cầu nguyện và không nản lòng” xuất hiện thường xuyên trong Tân Ước (1Tx
5:17; Rm 12:12; Êp 6:18 v.v). Đây là một nét đặc trưng đời sống tâm linh
của các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Nó cũng là một điểm được Luca nhấn
mạnh trong cả hai sách Phúc Âm và sách Tông Đồ Công Vụ. Nếu các bạn có ý
định muốn khám phá khía cạnh này trong các tác phẩm của Luca, hãy thực hiện bài
tập này: đọc sách Phúc Âm và sách Tông Đồ Công Vụ và viết xuống tất cả
các câu nơi Chúa Giêsu hoặc những người khác đang cầu nguyện. Các bạn sẽ
ngạc nhiên!
Lc
18:2-3: Sự tương phản giữa vị thẩm phán và bà góa
Chúa
Giêsu giới thiệu với chúng ta hai nhân vật từ cuộc sống đời thật: một người
thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kiêng nể người ta, và một bà góa,
người sẽ không ngừng tranh đấu cho quyền lợi của mình trước mặt vị thẩm
phán. Sự thật đơn giản là Chúa Giêsu đưa ra hai nhân vật này cho thấy rằng
Người biết rất rõ xã hội Người đang sống thời bấy giờ. Bài dụ ngôn không
chỉ cho thấy những người nghèo khó phải tranh đấu tại tòa án để quyền lợi của họ
được công nhận, mà nó cũng cho chúng ta thấy sự tương phản mạnh mẽ giữa các
giai cấp trong xã hội. Một bên là người thẩm phán vô đạo và vô cảm, và mặt
khác, một bà góa biết phải gõ cửa nào để đòi lại những gì thuộc về bà ta.
Lc
18:4-5: Sự thay đổi của vị thẩm phán và lý do của sự thay đổi
Trong
một thời gian dài, mỗi ngày yêu cầu cùng một điều, bà góa đã không nhận được gì
từ người thẩm phán vô cảm. Cuối cùng, vị thẩm phán, dù rằng “ông ta không
kính sợ Thiên Chúa cũng không kiêng nể người ta” đã quyết định phải quan tâm đến
người đàn bà góa và xét xử cho bà ta. Lý do là: để khỏi bị thường
xuyên quấy nhiễu nữa. Một lý do khá ích kỷ! Tuy nhiên, bà góa đã được
những gì bà muốn! Đây là một thực tế trong đời sống hằng ngày và Chúa
Giêsu dùng nó để dạy cho chúng ta phải cầu nguyện như thế nào.
Lc
18:6-8a: Chúa Giêsu áp dụng dụ ngôn
Chúa
Giêsu áp dụng dụ ngôn: “Các con hãy để ý xem người thẩm phán bất công đã
nói gì? Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những người Chúa chọn hằng kêu cứu
với Người đêm ngày mà khoan giãn với họ mãi sao?” Đoạn Người nói thêm rằng
Thiên Chúa cũng muốn công lý được thực hiện một cách mau chóng. Nếu Chúa
Giêsu đã không nói thì chúng ta sẽ không có can đảm để so sánh thái độ đạo đức
của Thiên Chúa với người thẩm phán. Điều quan trọng trong việc so sánh là
thái độ của người góa phụ, người mà nhờ việc nài nỉ của bà, cuối cùng cũng nhận
được những gì bà muốn.
Lc
18:8b: Một lời thách thức về đức tin
Cuối
cùng, Chúa Giêsu bày tỏ một ít hoài nghi: “Nhưng khi Con Người đến, liệu
sẽ còn tìm thấy được lòng tin nào trên mặt đất nữa chăng?” Liệu chúng ta
sẽ có đủ can đảm để chờ đợi, để kiên tâm, ngay cả khi Thiên Chúa chậm trả lời
chúng ta không? Chúng ta cần rất nhiều đức tin để tiếp tục cố nài nỉ và ứng
xử khi thấy không có kết quả. Bất cứ ai mong muốn có kết quả ngay lập tức
sẽ bị thất vọng. Nhiều bài Thánh Vịnh nói về sự nài nỉ khó khăn và lâu
dài trước Thiên Chúa cho đến khi Người thấy đến lúc thích hợp để đáp ứng (Tv
71:14; 37:7; 69:4; Ac 3:26). Khi trích dẫn Thánh Vịnh 80, thánh Phêrô đã
nói một ngày đối với Chúa ví như ngàn năm (2Pr 3:8; Tv 90:4).
d)
Phần tìm hiểu thêm: Sự cầu nguyện trong các tác phẩm của thánh Luca
i)
Chúa Giêsu cầu nguyện trong Phúc Âm
Các
sách Phúc Âm giới thiệu cho chúng ta về một Chúa Giêsu cầu nguyện, Người đã sống
trong sự liên lạc liên tục với Đức Chúa Cha. Ước muốn duy nhất của Chúa
Giêsu là làm theo thánh ý của Chúa Cha (Ga 5:19). Thánh Luca là người nói
nhiều nhất về đời sống cầu nguyện của Chúa Giêsu. Ông cho chúng ta thấy Đức
Giêsu là một người luôn cầu nguyện. Chúa Giêsu đã cầu nguyện nhiều và cầu
nguyện một cách liên lỉ, để người ta và các môn đệ của Người cũng sẽ làm như vậy.
Đó là khi phải đối diện với Thiên Chúa trong sự thật rằng người ấy thấy chính
mình trong thực tế và sự khiêm hạ của nó. Đây là một số những lúc khi
Chúa Giêsu đang cầu nguyện trong sách Tin Mừng của Luca:
Lc
2:46-50: Khi Đức Giêsu lên mười hai tuổi, Người đi lên Đền Thờ, nhà Cha của
Người
Lc
3:21: Đức Giêsu cầu nguyện khi Người chịu phép rửa và khi Người nhận lãnh
sứ vụ
Lc
4:1-2: Khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, Người đã cầu nguyện bốn mươi ngày trong
hoang địa
Lc
4:3-12: Khi Đức Giêsu bị cám dỗ, Người phải đối diện với quỷ như trong
văn bản từ Kinh Thánh
Lc 4:16:
Vào những ngày Sabbát, Chúa Giêsu cầu nguyện trong hội đường
Lc
5:16; 9:18: Người lui vào nơi hoang vắng mà cầu nguyện
Lc
6:12: Người đã thức suốt đêm cầu nguyện trước khi chọn các thánh Tông Đồ
Lc
9:16; 24:30: Người cầu nguyện trước bữa ăn
Lc
9:18: Đức Giêsu cầu nguyện trước khi tiên báo về cuộc thương khó của Người
Lc
9:28: Trong lúc bối rối, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện, Người đã hiển
dung trong lúc cầu nguyện
Lc
10:21: Khi Phúc Âm được mặc khải cho những người bé mọn, Người nói:
“Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha…”
Lc
11:1: Khi Chúa Giêsu cầu nguyện, Người linh ứng cho các tông đồ ước muốn
cầu nguyện
Lc
22:32: Chúa Giêsu cầu nguyện cho Phêrô để ông khỏi mất lòng tin
Lc
22:7-14: Chúa mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ
Lc
22:41-42: Chúa cầu nguyện và mồ hôi máu chảy ra trong vườn Cây Dầu
Lc
22:40-46: Khi lâm cơn xao xuyến bồi hồi, Chúa bảo các môn đệ cùng cầu
nguyện với Người
Lc
23:34: Khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá, Người cầu nguyện xin tha cho
những kẻ hành hạ Người
Lc
23:46; Tv 31:6: Vào lúc trước khi chết Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy
Cha, con xin phó thác linh hồn con trong tay Cha”
Lc
23:46: Chúa Giêsu tắt thở với tiếng kêu của người khốn khổ trên môi Người
Danh
sách các lời trích dẫn cho chúng ta thấy rằng đối với Chúa Giêsu việc cầu nguyện
liên hệ mật thiết với đời sống, với thực tế cụ thể, với những quyết định sắp được
thực hiện. Để được trung tín với kế hoạch của Đức Chúa Cha, Chúa Giêsu đã
tìm cách để được một mình với Chúa Cha, để lắng nghe lời Người. Trong những
giây phút khó khăn và quyết định của cuộc đời, Chúa Giêsu cầu nguyện với các
bài Thánh Vịnh. Giống như những người Do Thái mộ đạo, Chúa Giêsu thuộc
lòng những bài này. Đọc lên những bài Thánh Vịnh đã không dập tắt những
tinh thần sáng tạo của Người. Thay vào đó, Chúa Giêsu đã sáng tạo ra một
bài Thánh Vịnh, đó là, Kinh Lạy Cha. Cuộc đời của Người là một lời cầu
nguyện liên tục: “Tất cả mọi lúc Ta sẽ làm những gì Chúa Cha muốn ta
làm!” (Ga 5:19-30). Điều Thánh Vịnh nói đã ứng nghiệm với Chúa
Giêsu: “…con chỉ biết cầu nguyện cho họ!” (Tv 109:4).
ii)
Các cộng đoàn cầu nguyện trong Sách Tông Đồ Công Vụ
Như
trong sách Phúc Âm, sách Tông Đồ Công Vụ cũng thế, Luca thường xuyên nói về cầu
nguyện. Các Kitô hữu tiên khởi là những người tiếp tục việc cầu nguyện của
Chúa Giêsu. Đây là danh sách, mà trong cách này hay cách khác, nói về cầu
nguyện. Nếu bạn tìm kỹ, bạn sẽ thấy các văn bản khác nữa:
Cv
1:14: Cộng đoàn chuyên cần cầu nguyện cùng với Đức Maria, thân mẫu Chúa
Giêsu
Cv
1:24: Cộng đoàn cầu nguyện để biết ai sẽ thay thế Giuđa
Cv
2:25-35: Thánh Phêrô trích dẫn Thánh Vịnh trong bài giảng của ông
Cv
2:42: Các Kitô hữu tiên khởi siêng năng cầu nguyện
Cv
2:46-47: Họ đi đến Đền Thờ để ca tụng Thiên Chúa
Cv
3:1: Phêrô và Gioan đi lên Đền Thờ để cầu nguyện vào giờ thứ chín
Cv
3:8: Người què được chữa lành ca tụng Thiên Chúa
Cv
4:23-31: Cộng đoàn cầu nguyện trong cơn bách hại
Cv
5:12: Các Kitô hữu đầu tiên ở tại cổng Sôlômon (của đền thờ)
Cv
6:4: Các tông đồ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa
Cv
6:6: Các tông đồ cầu nguyện trước khi đặt tay trên các phó tế
Cv
7:59: Khi sắp chết, Stêphanô cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin
nhận lấy hồn con”
Cv
7:60: Rồi Stêphanô kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa, xin đừng chấp
họ tội này."
Cv
8:15: Phêrô và Gioan cầu nguyện cho những người đón nhận Lời Chúa nhận được
ơn Chúa Thánh Thần
Cv
8:22: Người tội lỗi được khuyên bảo: “Hãy sám hối và cầu nguyện để
anh có thể được tha thứ”
Cv
8:24: Simon thưa: "Xin hai ông cầu cùng Chúa cho tôi, để không
điều nào trong những điều các ông đã nói giáng xuống trên tôi."
Cv
9:11: Phaolô đang cầu nguyện
Cv
9:40: Phêrô cầu nguyện cho việc chữa lành bà Tabitha
Cv
10:2: Cônêliô luôn cầu nguyện cùng Thiên Chúa
Cv
10:4: Lời cầu nguyện của Cônêliô đã thấu tòa Thiên Chúa
Cv
10:9: Vào giờ thứ sáu, Phêrô lên sân thượng cầu nguyện
Cv
10:30-31: Cônêliô cầu nguyện vào giờ thứ chín và Thiên Chúa đã nhậm lời cầu
nguyện của ông
Cv
11:5: Phêrô kể với dân chúng thành Giêrusalem: “Tôi đang cầu nguyện”!
Cv
12:5: Cộng đoàn cầu nguyện khi Phêrô bị bắt trong ngục
Cv
12:12: Nhiều người tụ họp và cầu nguyện trong nhà của bà Maria, mẹ của
ông Gioan
Cv
13:2-3: Cộng đoàn cầu nguyện và ăn chay trước khi tiễn hai ông Phaolô và
Ba-na-ba đi
Cv
13:48: Dân ngoại vui mừng và tôn vinh Lời Chúa
Cv 14:23:
Các nhà truyền giáo cầu nguyện để chỉ định các kỳ mục cho mỗi cộng đoàn
Cv
16:13: Tại Phi-líp-pi, gần bờ sông, có một nơi cầu nguyện
Cv
16:16: Phaolô và Sila đang đi đến nơi cầu nguyện
Cv
16:25: Vào ban đêm, Phaolô và Sila hát thánh ca và cầu nguyện trong ngục
Cv
18:9: Phaolô có một thị kiến với Chúa vào ban đêm
Cv
19:18: Nhiều người xưng thú tội lỗi của họ
Cv
20:7: Họ đã họp nhau và bẻ bánh (Phép Thánh Thể)
Cv
20:32: Phaolô phó thác những người kỳ mục của cộng đoàn cho Thiên Chúa
Cv
20:36: Phaolô cùng với những người kỳ mục của cộng đoàn quỳ gối cầu nguyện
Cv
21:5: Họ quỳ xuống trên bãi biển mà cầu nguyện
Cv
21:14: Khi không thể thuyết phục được Phaolô, họ đành thôi và nói:
“Xin cho ý Chúa được thể hiện!”
Cv
21:20: Họ tôn vinh Thiên Chúa vì tất cả những việc Phaolô đã làm
Cv
21:26: Phaolô vào đền thờ để hoàn thành lời hứa
Cv
22:17-21: Phaolô cầu nguyện trong đền thờ, ông có một thị kiến và Thiên
Chúa nói với ông
Cv
23:11: Trong nhà ngục tại Giêrusalem, Phaolô có một thị kiến với Chúa Giêsu
Cv
27:23: Phaolô có thị kiến với Chúa Giêsu trong một cơn bão tại biển
Cv
27:35: Phaolô cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trước khi đến vùng
Man-ta
Cv
28:8: Phaolô cầu nguyện trên thân phụ của Púp-li-ô, người đang bị sốt
Cv
28:15: Phaolô tạ ơn Thiên Chúa khi được thấy anh em ở Pô-zu-ô-li
Danh
sách này cho chúng ta hai điều quan trọng. Một mặt, các Kitô hữu tiên khởi
đã giữ gìn phụng vụ truyền thống của dân chúng. Giống như Chúa Giêsu, họ
cầu nguyện ở nhà trong gia đình, trong cộng đoàn và nơi hội đường và cùng với
những người trong đền thờ. Mặt khác, ngoài các truyền thống phụng vụ, có
xuất hiện một phương pháp cầu nguyện mới nơi họ trong cộng đoàn và với một nội
dung mới. Nguồn gốc của cách cầu nguyện mới này xuất phát từ kinh nghiệm
mới về “Thiên Chúa trong Đức Giêsu” và từ một nhận thức rõ ràng và sâu sắc về sự
hiện diện của Thiên Chúa ở giữa cộng đoàn: “Chính ở nơi Người mà chúng ta
sống, cử động và hiện hữu!” (Cv 17:28)
6.
Cầu Nguyện: Thánh Vịnh 63 (62)
Lạy
Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ,
ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
tấm thân này mòn mỏi đợi trông,
như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.
Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện,
để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.
Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống,
miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.
Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng,
và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.
Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc,
môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.
Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ,
suốt năm canh thầm thĩ với Ngài.
Quả thật Ngài đã thương trợ giúp,
nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.
Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó,
giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì.
Còn những kẻ tìm hại mạng sống con,
ước gì chúng phải xuống vực sâu lòng đất,
bị gươm giáo phanh thây, làm mồi cho muông sói.
Đức Vua sẽ vui mừng trong Thiên Chúa.
Ai lấy danh Chúa mà thề sẽ được hiên ngang;
còn người nói dối phải câm miệng.
ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.
Linh hồn con đã khát khao Ngài,
tấm thân này mòn mỏi đợi trông,
như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.
Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện,
để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.
Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống,
miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương.
Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng,
và giơ tay cầu khẩn danh Ngài.
Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc,
môi miệng con rộn rã khúc hoan ca.
Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ,
suốt năm canh thầm thĩ với Ngài.
Quả thật Ngài đã thương trợ giúp,
nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.
Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó,
giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì.
Còn những kẻ tìm hại mạng sống con,
ước gì chúng phải xuống vực sâu lòng đất,
bị gươm giáo phanh thây, làm mồi cho muông sói.
Đức Vua sẽ vui mừng trong Thiên Chúa.
Ai lấy danh Chúa mà thề sẽ được hiên ngang;
còn người nói dối phải câm miệng.
7.
Lời nguyện kết
Lạy
Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn
ý muốn của Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của
chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho
chúng con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria,
thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa
là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa
Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét