Trang

Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2016

16-10-2016 : (Phần I) CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN năm C

16/10/2016
Chúa Nhật tuần 29 thường niên năm C
KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO.
(phần I)

Bài Ðọc I: Xh 17, 8-13
"Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận".
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim, Ông Môsê nói với ông Giosuê rằng: "Ngươi hãy tuyển lựa các chiến sĩ ra chiến đấu với người Amalec: ngày mai tôi sẽ cầm gậy Thiên Chúa trong tay lên đứng trên đỉnh núi". Ông Giosuê thực hiện như lời ông Môsê đã dạy, và ra chiến đấu với người Amalec. Còn ông Môsê, Aaron và Hur thì đi lên đỉnh núi. Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế. Bấy giờ tay ông Môsê mỏi mệt, người ta liền khiêng tảng đá kê cho ông ngồi, còn ông Aaron và ông Hur thì nâng đỡ hai tay ông. Bởi đó hai tay ông không còn mỏi mệt cho đến khi mặt trời lặn. Ông Giosuê dùng lưỡi gươm đánh đuổi người Amalec và quân dân nó.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 120, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8
Ðáp: Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất (c. 2).
Xướng: 1) Tôi ngước mắt nhìn lên đỉnh núi cao, ơn phù trợ cho tôi sẽ từ đâu ban tới? Ơn phù trợ chúng tôi ở nơi danh Chúa, là Ðấng tạo thành trời đất. - Ðáp.
2) Người chẳng để cho chân ngươi xiêu té; Ðấng bảo vệ ngươi, Người chẳng có ngủ say. Kìa Ðấng bảo vệ Israel, Người không thiếp giấc, không ngủ say. - Ðáp.
3) Chúa sẽ bảo vệ thân ngươi, Chúa là Ðấng che chở ngươi ở bên tay hữu. Mặt trời sẽ không hại ngươi lúc ban ngày, và mặt trăng cũng chẳng hại ngươi về ban đêm. - Ðáp.
4) Chúa sẽ gìn giữ ngươi khỏi mọi điều tai biến; Người sẽ bảo vệ linh hồn ngươi. Chúa sẽ bảo vệ ngươi khi đi và khi tới, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 2 Tm 3, 14 - 4, 2
"Người của Thiên Chúa được hoàn hảo, để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, con hãy bền vững trong các điều con đã học hỏi và xác tín, vì con biết con đã học cùng ai, vì từ bé, con đã học biết Sách Thánh, và chính Sách Thánh đã dạy con sự khôn ngoan để con được cứu rỗi nhờ tin vào Ðức Giêsu Kitô. Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính, ngõ hầu người của Thiên Chúa được hoàn hảo để sẵn sàng thực hiện mọi việc lành.
Cha khuyến cáo con trước tôn nhan Thiên Chúa và Ðức Kitô, Ðấng sẽ thẩm phán kẻ sống và kẻ chết, nhân danh cuộc xuất hiện của chính Người và vương quốc của Người: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 14, 23
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 18, 1-8
"Thiên Chúa sẽ minh xử cho những kẻ người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng, mà rằng: "Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: 'Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù'. Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: 'Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc'".
Rồi Chúa phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Phải kiên tâm cầu nguyện tức là luôn tín nghĩa với Thiên Chúa

Câu chuyện Môsê cầu nguyện trên núi, dụ ngôn bà góa van xin vị thẩm phán, hối thúc chúng ta dựa vào Lời Chúa hôm nay để tìm hiểu về việc cầu nguyện. Tại sao phải cầu nguyện? Phải cầu nguyện thế nào? Cầu nguyện đã đủ chưa hay còn phải hành động nữa? Ý tưởng của ba bài Kinh Thánh đọc hôm nay dường như muốn trả lời những câu hỏi ấy. Chúng ta lần lượt tìm hiểu.

1. Tại Sao Phải Cầu Nguyện
Thật ra, đọc xong bài sách Xuất hành chúng ta phấn khởi và nhận ra giá trị của lời cầu nguyện. Và thường khi nhớ đến câu chuyện Môsê cầu nguyện trên núi trong khi Giôsua đánh giặc, người ta vẫn để ý khía cạnh hiệu năng lạ lùng của việc cầu nguyện. Không có Môsê cầu nguyện, con cái Israel đã không chiến thắng. Và khi cánh tay Môsê rũ xuống là lúc thất bại ngả về phía Israel. Tuy nhiên nếu chỉ hiểu câu chuyện của bài sách Xuất hành như vậy, chúng ta không biết đánh giá đúng mức một sự kiện rất ý nghĩa trong lịch sử Dân Chúa, và do đó trong đời sống đạo của chính chúng ta. Sự kiện này đã được ghi lại trong Kinh Thánh, không phải chỉ vì là một biến cố lịch sử, nhưng có thể nói, nhiều hơn là ý nghĩa sâu xa của nó.
Trước hết, chúng ta hãy ghi lại sự kiện. Con cái Israel bấy giờ đang trên đường từ Biển Ðỏ tiến đến ngọn núi Sinai. Họ đã ra khỏi Ai Cập nhờ cánh tay uy dũng của Thiên Chúa. Nhưng hào khí lúc đầu đã dần dần suy giảm vì cảnh hoang vu của sa mạc, khí nóng của cát bỏng, thiếu thốn về của ăn và thức uống. Dân cứng cổ đã bắt đầu càm ràm, than trách Môsê: "Sao ông không để chúng tôi lại bên Ai Cập? Ở đó có thịt nướng hành thơm. Còn ở chỗ hoang vu nóng bỏng này, chúng tôi sẽ chết đói, chết khát mất". Những lời kêu chua chát ấy, giọng ca vô ơn bội nghĩa ấy, không phải chỉ làm rầu lòng Môsê. Ngay chính Thiên Chúa cũng không cầm nổi giận dữ. Tuy nhiên lòng thương xót vẫn trổi vượt. Thiên Chúa tiếp tục ban ơn cho đoàn người kém hiểu biết ấy. Người ban Manna và chim cút. Người cho nước chảy ở Massa và Meriba. Dân ăn no và uống đã. Nhưng đó vẫn là Dân hay thay lòng đổi dạ, dễ quên ân nghĩa và luôn sẵn sàng bội phản. Những lời kêu ca phàn nàn và trách móc trước đây bộc lộ một tâm trạng nghi ngờ, thiếu tín nhiệm. Chẳng vậy mà họ đã nói với nhau rằng: "Có Giavê ở giữa chúng ta hay không".
Tiếp theo đó họ đã gặp Amalek. Chúng ta coi đó là sự tình cờ, như khi người đi trong hoang địa có thể gặp vật nọ người kia. Chúng ta có thể coi đó cũng là sự tự nhiên, vì có gì lạ khi gặp cướp trong rừng sâu? Tuy nhiên đối với tác giả Thánh Kinh, chẳng có gì tình cờ và tự nhiên cả. Con cái Israel vừa thử thách Chúa, vừa nghi ngờ không biết Người có ở giữa họ hay không, thì Chúa để cho họ thấy Người để họ rơi vào hoàn cảnh mà chính họ phải mở mắt ra mà thấy Người có ở giữa họ hay không. Người để họ rơi vào tay Amalek.
Amalek không phải là ai khác dòng dõi Cain (Kng 36,3; 26,34; 28,9), kẻ đã nhẫn tâm sát hại em mình. Nó đã ra khỏi nhan Giavê và đi về phía đông Êđen. Nó đã ăn ở với vợ và sinh ra con cái. Chúng nó theo gương cha mình, luôn nuôi dưỡng một lòng thù địch đối với dòng dõi Abel, tức là dòng dõi được Chúa ưu tuyển. Ở đây chúng ta không thấy sách Xuất hành nói rõ Amalek tấn công con cái Israel thế nào. Nhưng sách Thứ luật (25,17-19) cho biết Amalek đã hèn hạ chặn đường đánh những kẻ lê lết đi sau cùng trong cộng đoàn con cái Israel khi những người này đã kiệt quệ đuối sức.
Thế nên Môsê phải nói với Giôsua: "Hãy lựa lấy người mà ra nghênh chiến với Amalek ngày mai"; nhưng ông nghĩ số ít những người còn khỏe cũng sẽ chẳng làm gì được quân địch. Phải nhờ đến Thiên Chúa, cậy vào sức mạnh của Người, phải tin rằng Thiên Chúa đang ở giữa Dân và gìn giữ Dân, mới có hy vọng thoát được gian nguy. Thế nên khi sai Giôsua ra trận địa, chính Môsê đã lên núi với Aharôn và Hur. Tay ông cầm cây gậy thủ lãnh mà ông vẫn mang theo từ ngày được lệnh Chúa đi giải phóng con cái Israel. Ðó là cây gậy đầy quyền lực của Thiên Chúa. Nó đã đập xuống, giáng xuống bao nhiêu tai ương trên đầu, trên cổ người Ai Cập để họ phải buông thả người Israel. Nó đã đập xuống Biển Ðỏ và mở đường cứu thoát cho Dân vừa ra khỏi đất nô lệ. Nó đã đánh vào tảng đá ở Khoreb để nước uống chảy ra trong sa mạc.
Cây gậy ấy là biểu tượng cho sức mạnh cứu thoát của Giavê và nói lên sự hiện diện của Người. Môsê cầm cây gậy ấy lên núi. Ông cắm nó nơi cao như cờ lệnh, như doanh trại, làm chứng sức mạnh của con cái Israel không ở nơi trận địa, nhưng ở chỗ này, nơi có cây gậy chỉ huy đứng làm cờ trận. Ðược thua không phải ở dưới thung lũng kia, nơi Giôsua giáp chiến với Amalek, nhưng ở tại trên núi này chỗ Môsê đang cầu nguyện. Hễ hai cánh tay ông rũ xuống là Giôsua kém thế; còn khi hai người đứng bên đỡ hai tay ông thì Giôsua tha hồ sát phạt.
Ðiều này không làm chứng Thiên Chúa đang ở giữa Dân, và bênh vực Dân đó sao? Ðó là chứng cớ hùng hồn, hiển nhiên. Do đó về sau Môsê đã cho xây một tế đàn ở chỗ núi và gọi tên nơi ấy là Giavê -Nissi, có nghĩa là Giavê là cờ trận của tôi; tức là chính Giavê đã chiến đấu cho tôi để chống lại Amalek; không có Người, tôi không thể nào thắng được tên cừu địch kia.
Và điều này không chỉ là chân lý của ngày hôm nay, ngày Giôsua xuất trận đánh Amalek ở Rơphiđim. Amalek là dòng dõi Cain, luôn mang hận thù chống lại dòng dõi Abel. Con cái Israel còn gặp lại Amalek nhiều lần. Và phải nói mỗi lần gặp lại các địch thủ muốn sát hại dòng dõi được ưu tuyển, Israel lại như gặp lại Amalek. Câu chuyện đụng độ với Amalek vì thế trở thành biểu tượng cho mọi thử thách mà những người được Thiên Chúa tuyển chọn gặp phải trong cuộc sống.
Ðó là câu chuyện trong cuộc đời của chúng ta khi gặp cám dỗ lăm le tiêu diệt Ơn Chúa nơi tâm hồn và đời sống của chúng ta. Sức chống cự của chúng ta giỏi lắm cũng như của Giôsua thôi. Chúng ta chẳng làm gì nên thân nếu chúng ta không dựng cờ trận của Thiên Chúa lên, tức là ý thức Người đang hiện diện, đứng về phe ta, chiến đấu cho ta, miễn là đôi cánh tay của ta phải không ngừng giơ cao để cầu nguyện.
Và điều này chỉ làm được khi chúng ta tin ở Chúa, tin Người hằng ở với chúng ta và bênh vực chúng ta. Chúng ta phải như Môsê mà Thánh Kinh gọi là người trung thành, chứ đừng cư xử như đại đa số con cái thất tín đến nỗi đã hỏi nhau rằng: Có Thiên Chúa ở với chúng ta hay không? Những kẻ thất tín sẽ rơi vào tay địch. Và ở trong tay họ có tin tưởng cầu nguyện mới được cứu thoát.
Bài học của sách Xuất hành rõ ràng cụ thể và sâu xa. Nó cho thấy đời sống tế nhị và hiểm nguy của những người con Chúa. Nó cho biết trên đường đi về Hứa Ðịa, chốn chảy sữa và mật, nơi thiên đàng hạnh phúc, chúng ta cần phải cầu nguyện và cầu nguyện không ngừng.
Và như vậy, chúng ta đã bắt gặp câu đầu tiên của bài Tin Mừng hôm nay.

2. Phải Cầu Nguyện Thế Nào?
Tác giả Luca luôn trung thành với mình, với thầy mình là Phaolô và nhất là với Chúa Giêsu. Ông luôn nói và nhấn mạnh đến việc cầu nguyện. Ông dùng ngay cả các công thức của thầy mình là Phaolô mà nói: Phải cầu nguyện luôn đừng nhàm chán, (Rm 1,10; 12,12; Ep 6,18; Co 13,1...). Ðặc biệt ông trung thành truyền đạt lại cho chúng ta những gương mẫu và giáo huấn của Chúa Giêsu về việc cầu nguyện. Có thể nói muốn thấy Chúa Giêsu cầu nguyện và hiểu ý Người về việc này, chúng ta chỉ cần mở sách Tin Mừng Luca.
Trong đoạn văn hôm nay, thoạt nhìn chúng ta chưa thấy những tư tưởng đặc sắc. Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ phải kiên tâm cầu nguyện. Người kể một câu chuyện tầm thường, có thể gặp ở bất cứ nơi đâu. Nơi đô thị bé nhỏ nào lại không có một viên chức xét xử các việc kiện tụng? Và càng ở nơi hẻo lánh, các vị thẩm phán ấy lại càng lấy ý riêng của mình làm pháp luật áp đặt trên quần chúng: họ muốn làm việc lúc nào, cách nào thì nhân dân thấp cổ bé họng cũng phải chịu. Vậy ở một đô thị kia có viên thẩm phán ngạo ngược chẳng sợ trời cũng chẳng nể ai. Ông làm việc trì trệ. Một quả phụ đã từ lâu xin ông xử giúp cho một việc, nhưng ông vẫn chẳng quan tâm, và cũng chẳng hối hả gì. Có lẽ sự việc mà bà kia thưa chẳng quan trọng bao nhiêu. Nhưng nhất là vì bà ta là người góa bụa, chẳng đáng kể gì ở trong xã hội. Nên từ ngày này qua ngày khác ông thẩm phán đó vẫn bỏ ngoài tai lời kêu xin của bà kia. Tuy nhiên bà này kiên trì, có lẽ chẳng phải vì bà có đức tính ấy nhưng rất có thể; đối với bà, câu chuyện đem thưa đây rất quan trọng, có thể là một sống một chết đối với bà. Vậy bà cứ dai dẳng nài xin. Cuối cùng ông thẩm phán tự nghĩ: Phải xử cho bà ta đi cho rồi kẻo nó cứ quấy rầy mình mãi...
Câu chuyện chỉ có vậy thôi. Trọng tâm của nó không nằm ở một nội dung độc đáo vì tác giả không nói bà kia kiện tụng về việc gì. Luca chỉ muốn người ta chú ý đến thái độ dai dẳng của người cầu xin và sự nhượng bộ rốt cuộc của người phải nghe tiếng van nài. Lấy những thái độ ấy để nói về quan hệ giữa loài người cầu nguyện và Thiên Chúa nghe lời, không tầm thường quá sao?
Tác giả Luca khẳng định nơi việc cầu nguyện của chúng ta không như vậy đâu. Chúng ta không phải như một góa phụ, ít giá trị trước mặt xã hội. Chúng ta là những người được Thiên Chúa ưu tuyển. Và Người không giống vị thẩm phán vô tâm; Người rất nhân hậu đối với con cái loài người. Ở đây Chúa Giêsu dường như muốn nói đến một "trường hợp cực chẳng đã", một hoàn cảnh tệ hơn cả, để chứng tỏ rằng những trường hợp và hoàn cảnh bình thường hơn tất nhiên sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Nếu quan hệ giữa người góa phụ và vị thẩm phán cuối cùng còn như vậy, huống nữa là quan hệ giữa người ta và Thiên Chúa chắc chắn sẽ mỹ mãn vạn phần. Miễn là người ta phải kiên tâm cầu nguyện, tức là luôn tín nghĩa với Thiên Chúa. Chính điều kiện tín thành này là khó. Thế nên Chúa Giêsu đã kết thúc bài giáo huấn hôm nay bằng một câu hỏi có vẻ não nuột nhưng rất chân thành: "Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa không?". Tức là các con người ưu tuyển có luôn giữ mãi lòng tín nhiệm với Thiên Chúa không? Thái độ nhàm chán của họ khi cầu nguyện không phải là dấu chỉ lòng trung tín của họ đã suy giảm rồi sao? Thế nên chúng ta phải tập kiên tâm cầu nguyện để duy dưỡng lòng tin, hầu mãi mãi nhận được lòng thương xót của Chúa. Nhưng...
3. Cầu Nguyện Mà Thôi Ðã Ðủ Chưa?
Bài thư Phaolô hôm nay không trực tiếp nói đến vấn đề này. Ðấy chỉ là một đoạn trong thư II gửi cho Timôthê. Chúng ta đã được biết ông này bấy giờ đã rã rời chán nản vì thấy Phaolô thầy mình bị xiềng xích và giải sang Rôma. Thầy mà như vậy, thì trò sẽ thế nào? Công việc của thầy rốt cuộc đã đi đến xiềng xích, thì tiếp tục việc rao giảng Tin Mừng như thầy đã dạy bảo sẽ đi đến đâu? Phaolô gửi thư ngay cho Timôthê. Và trong đoạn thư hôm nay chúng ta nghe Phaolô nói: Con hãy bền vững trong các điều con đã học... và hãy cứ rao giảng Lời Chúa!
Thử thách mà Timôthê gặp phải cũng giống việc con cái Israel gặp Amalek, và cũng như những lúc chúng ta thấy nhàm chán trong việc cầu nguyện. Tất cả đều là cám dỗ và trở ngại khiến chúng ta giảm bớt lòng tin vào Chúa và đời sống đạo đức của chúng ta không còn tín nghĩa nữa. Phaolô hôm nay giúp Timôthê một phương pháp: hãy cầm lấy Thánh Kinh như Môsê cầm cây gậy leo lên núi.
Ðối với Môsê, cây gậy là biểu tượng, cờ trận của Chúa. Cắm nó lên đối diện với Amalek là dựng doanh trại của Thiên Chúa thiên binh. Người sẽ bảo vệ, giao chiến cho Dân Người. Nhưng Môsê mới đã xuất hiện thay thế cho Môsê cũ. Người là Thiên Chúa. Ðức Giêsu Kitô là Ðấng có lời ban sự sống và cứu độ. Timôthê hãy đọc lời Chúa, như Môsê đã đặt cây gậy tin tưởng vào quyền phép mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Và chúng ta khi muốn nâng đỡ việc cầu nguyện của mình chống lại sự nhàm chán, cũng hãy cầm lấy sách Thánh "Ðã được Thần Hứng, và có ích để dạy dỗ, để biện bác, để tu chỉnh, để giáo huấn trong sự công chính". Ðọc sách Thánh, chúng ta sẽ biết sửa mình, nuôi dưỡng và phát triển lòng tín nghĩa với Thiên Chúa. Bây giờ chúng ta sẽ biết cầu nguyện đẹp lòng Chúa hơn và lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được chấp nhận. Thường thì chúng ta chỉ lắm lời xin ơn, và không muốn nghe Lời Chúa dạy dỗ, khiến cầu nguyện của chúng ta trở thành độc thoại, khó đẹp lòng Chúa và chúng ta dễ thấy nhàm chán trong việc cầu nguyện.
Những bài Kinh Thánh hôm nay chỉ dẫn cho chúng ta những thái độ để làm cho lời cầu xin của chúng ta dễ được kết quả hơn.
Và chính các mầu nhiệm cử hành nơi bàn thờ bây giờ cũng nói với chúng ta như vậy. Chúa Giêsu Kitô trong mầu nhiệm thập giá là con người cầu xin được lắng nghe bởi vì Người có lòng tín nghĩa, thi hành và mạc khải thánh ý của Thiên Chúa Cha. Chúng ta hãy theo gương Người, thi hành và rao giảng Lời Chúa cho trung tín để được Chúa chấp nhận mỗi khi cầu nguyện.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật 29 Thường Niên, Năm C
Bài đọc: Exo 17:8-13; 2 Tim 3:14-4:2; Lk 18:1-8.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kiên trì cầu nguyện cho đến khi đạt được kết quả mong muốn.
 Rất nhiều người chúng ta không hiểu đúng cách và giá trị của cầu nguyện. Nhiều người trách người cầu nguyện: Tại sao không dùng cố gắng của mình để đạt mà cứ phải trông vào sự ban ơn của Thiên Chúa? Làm như thế là yếu đuối và biến Thiên Chúa thành cái máy làm phép lạ theo sự điều khiển của con người. Người cầu nguyện bị trách có thể trả lời: “Muôn sự tại nhân, thành sự tại thiên.” Nếu Thiên Chúa không cho, có làm việc cật lực cũng vô ích!
Liên tiếp hai tuần lễ, Lời Chúa tập trung trong việc kiên trì trong đức tin cho đến khi đạt được kết quả mong muốn: tuần trước tập trung trong đức tin, tuần này tập trung trong cầu nguyện và làm hết mọi cách. Trong bài đọc I, Moses cầu nguyện trong khi Joshua đem quân giao chiến. Quân của Israel thắng thế khi Moses giơ hai tay lên trời cầu nguyện. Quân địch Amalek thắng thế khi Moses bỏ hai tay xuống. Trong bài đọc II, Phaolô khuyên Timothy phải kiên trì học hỏi và rao giảng Tin Mừng khi thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Tin Mừng có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính, trở nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành và để lãnh nhận ơn cứu độ. Trong Phúc Âm, bà góa kiên trì mỗi ngày đến năn nỉ ông thẩm phán ngoại đạo cứu xét cho trường hợp bị đối xử bất công của bà, cho đến khi bà dành phần thắng lợi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Khi ông Moses giơ tay lên, dân Israel thắng thế; khi ông hạ tay xuống, Amalek thắng thế.
1.1/ Tại sao ông Moses phải cầu nguyện? Nhiều người cho thắng lợi ngoài mặt trận là do tài năng điều khiển và sức mạnh quân đội, chứ họ không tin vào lời cầu nguyện và sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, thắng trận nhờ binh hùng tướng mạnh là chuyện bình thường; nhưng thắng trận với một số binh lính với vũ khí thô sơ là hoàn toàn do uy quyền trợ giúp của Thiên Chúa. Lịch sử Do-thái đầy dẫy những thắng lợi do bởi Thiên Chúa và lời cầu nguyện của con người; ví dụ: biến cố Xuất Hành và chiến thắng quân đội của vua Pharaoh, biến cố cầu nguyện giữa ngôn sứ Elijah và 450 ngôn sứ của Baal trên núi Carmel, biến cố vua Cyrus cho dân Do-thái hồi hương và giúp phương tiện để họ tái thiết Đền Thờ...
Ông Moses cầu nguyện với Thiên Chúa, vì ông biết chỉ có Ngài mới giúp dân Israel đạt được thắng lợi trên đường vào Đất Hứa. Ông chỉ có một số binh lính trên đường đi tỵ nạn với vũ khí thô sơ, nhưng với một đức tin vững mạnh vào Thiên Chúa. Ông tin chắc Thiên Chúa sẽ nhận lời ông cầu xin.
1.2/ Tại sao phải ông Moses phải khó nhọc cầu nguyện? Thiên Chúa có uy quyền ban cách nhanh chóng, tại sao Ngài lại muốn ông Moses phải mệt nhọc đến độ hai ông Aaron và Hur phải lấy đá kê lên để giúp ông Moses giữ vị thế giơ hai tay lên trời? Có hai lý do:
(1) Thiên Chúa muốn cho dân Do-thái biết chiến thắng do quân Amalek là do Thiên Chúa. Không phải Thiên Chúa cần lấy điểm với dân Do-thái; nhưng Ngài muốn chứng tỏ cho họ thấy nếu họ tin tưởng vâng lời làm theo những gì Ngài dạy dỗ, Ngài sẽ giúp họ thành công.
(2) Thiên Chúa Ngài muốn con người cộng tác trong việc mang lại kết quả. Ngài không muốn con người biến Ngài thành cái máy làm phép lạ, muốn gì cứ việc thầm thĩ cầu xin; nhưng Ngài muốn con người phải cố gắng hết sức và phải kiên nhẫn chờ đợi, để hiểu giá trị của những điều con người cầu xin. Nếu đạt được kết quả cách dễ dàng và nhanh chóng, con người sẽ không hiểu biết tình thương Thiên Chúa và giá trị của món quà. Họ sẽ dễ dàng khinh thường Thiên Chúa và vất những quà tặng Ngài ban.
2/ Bài đọc II: Hãy rao giảng lời Chúa lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.
2.1/ Cầu nguyện và hoạt động bằng Kinh Thánh: Nhiều người hiểu lầm cầu nguyện là xin ơn. Hiểu cách đúng đắn, cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa; xin ơn chỉ là một phần trong cầu nguyện. Trong cuộc nói chuyện cần có hai chiều: Thiên Chúa nói, con người nghe; và khi con người nói, Thiên Chúa nghe. Cầu nguyện bằng Kinh Thánh là cách cầu nguyện xứng hợp nhất, vì trong Kinh Thánh, Thiên Chúa nói và dạy dỗ con người; sau khi đã hiểu những gì Thiên Chúa nói, con người quyết định mang ra hành động với sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Cầu nguyện bằng Kinh Thánh cũng giúp con người biết xin những gì đẹp ý Thiên Chúa và có ích cho tha nhân, chứ không ích kỷ chỉ xin cho mình.
Phaolô hiểu rõ giá trị của Kinh Thánh, nên Ngài khuyên nhủ môn đệ Timothy: “Phần anh, hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc... Từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Giêsu Kitô.
Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.”
2.2/ Hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện: Con người thường có khuynh hướng chỉ học hỏi khi thuận tiện, chỉ cầu nguyện khi cần, và chỉ giữ đạo khi được mọi sự lành bằng an. Họ quên đi mọi sự đều có lúc và có thứ tự của nó. Để có thể làm việc trong lãnh vực chuyên môn giới hạn, họ phải kiên trì trải qua gần 20 năm của cuộc đời với biết bao cố gắng, hy sinh, và gian khổ, mới có kiến thức đủ để hoạt động trong lãnh vực đó. Trong khi cuộc sống hạnh phúc đời này và đời sau còn quan trọng hơn bội phần, thế mà họ không chịu bỏ thời gian để học hỏi Kinh Thánh, bằng lòng với những bài giảng và thánh lễ cuối tuần mà thôi!
Khi nhìn lại cuộc đời của Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, họ gần như dành cả cuộc đời cho việc học hỏi, cầu nguyện, và rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu dành 30 năm học hỏi và 3 năm rao giảng không ngừng. Các tông đồ cũng noi gương Chúa, theo Ngài để học hỏi, và sau đó dành cả cuộc đời để rao giảng và chết làm chứng cho Tin Mừng. Sau khi nhận ra tình thương của Đức Kitô, thánh Phaolô dành trọn cuộc đời để rao giảng Tin Mừng: trong hội đường khi có hội đường; ngoài bãi biển khi không có hội đường; với quan chức cũng như với thường dân; khi được tự do cũng như khi vào tù ra khám. Ngài đã thực sự trở nên mọi sự cho mọi người.
Hiểu được tầm quan trọng của Tin Mừng, Phaolô truyền lại những lời tâm huyết cho môn đệ Timothy: “Trước mặt Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh: Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.
3/ Phúc Âm: Chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?
3.1/ Ông quan tòa vô đạo và bà góa quấy rầy: Mục đích tại sao Chúa Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn này là để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.
(1) Ông quan toà: chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, huống hồ một bà góa nghèo. Một thời gian khá lâu, ông không chịu nghe lời kêu xin của bà góa; nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: "Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta xét xử cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc."
(2) Bà góa: Bà là người cô thân cô thế, chẳng có chồng để nương nhờ; vì thế, trở thành mồi ngon cho người khác hãm hại. Bà đã nhiều lần đến thưa với ông quan tòa: "Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho.” Bị ông quan tòa từ chối nhiều lần, nhưng Bà không nản chí và nhất định kiên trì xin cho tới khi được. Hai điều cần phải chú ý trong trình thuật là: Thứ nhất, bà góa này đã bị đối xử bất công và bà xin được đối xử công bằng, chứ bà không xin được đối xử thiên vị. Chính viên quan tòa cũng nói là sẽ xét xử công bằng (ekdikein) cho bà. Thứ hai, bà góa phải vất vả van xin ông quan tòa nhiều lần, chứ không phải chỉ ngồi nhà cầu xin!
3.2/ Thiên Chúa yêu thương các con của Ngài: Chúa Giêsu so sánh ông quan tòa vô đạo đó với Cha Ngài, và Ngài bảo đảm sự đáp trả công chính hơn ông quan tòa bất chính: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ.” Hai điểm chính Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua câu truyện này:
(1) Thiên Chúa là Đấng công chính. Ngài sẽ không bao giờ để các con cái của Ngài bị đối xử bất công. Ngài sẽ trừng trị thích đáng những kẻ làm điều đó; nhưng Ngài muốn con cái kiên nhẫn chờ đợi để luyện tập đức tin. Đức tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô là món quà vô giá Thiên Chúa ban cho con người, nhưng để bảo vệ đức tin và làm cho đức tin ngày một tăng trưởng là bổn phận của con người. Để đức tin được tăng trưởng, đau khổ thử thách là điều không thể thiếu. Chính Chúa Giêsu đã nhận ra sự khinh thường đức tin của con người khi hỏi khán giả: "Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"
(2) Cho kẻ gian ác có cơ hội ăn năn trở lại: Con người thường có khuynh hướng tiêu diệt kẻ thù ngay; nhưng họ quên đi kẻ gian ác cũng là con cái của Thiên Chúa. Ngài không muốn kẻ gian ác bị tiêu diệt, nhưng muốn họ ăn năn xám hối để được sống. Nếu Thiên Chúa đã kiên nhẫn với chúng ta khi ta vẫn còn là tội nhân, chúng ta cũng phải kiên nhẫn và cho mọi người cơ hội.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa là người quan phòng mọi sự trong cuộc đời, chúng ta không thể thành công nếu không có sự trợ giúp của Thiên Chúa. Vì thế, học hỏi và cầu nguyện để tìm ra ý của Thiên Chúa để thi hành là điều kiện không thể thiếu.
- Để được Thiên Chúa ban, chúng ta phải xin, và nhất là nỗ lực cố gắng và kiên trì để làm cho điều đó trở thành hiện thực; chứ không chỉ ngồi nhà cầu xin mà thôi.
- Học hỏi Kinh Thánh trước khi có thể áp dụng trong cuộc sống, dạy dỗ, biện bác, sửa dạy, và rao giảng Tin Mừng là điều cần các tín hữu phải làm càng sớm càng tốt, và trong mọi hoàn cảnh; chứ không phải là điều muốn làm cũng được hay chỉ làm khi có thời giờ rảnh rỗi mà thôi.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

16/10/16 CHÚA NHẬT TUẦN 29 TN – C
Lc 18,1-8

Suy niệm: Ba bài hát “Hòn Vọng Phu” đầy cảm xúc của nhạc sĩ Lê Thương cảm hứng từ truyền thuyết gán cho khối đá giống hình tượng “mẹ bồng con” trên một số đỉnh núi cao mà nổi tiếng nhất là truyền thuyết về nàng Tô Thị bế con lên núi ngóng trông chồng đến nỗi hoá thành tượng đá. “Hòn Vọng Phu” biểu tượng của sự chờ đợi ròng rã, kiên trì, vẫn đang còn đó, đề cao hình ảnh thủy chung của người vợ ngày đêm trông ngóng chồng mình trở về. Song buồn thay! Mòn mỏi mong đợi bao năm tháng vẫn chỉ là “tượng đá cô đơn”.
Đời sống đức tin của người tín hữu được diễn tả qua việc cầu nguyện cũng là một sự chờ đợi, trông mong được Chúa đáp lời. Thế nhưng, sự chờ đợi của người tín hữu không bị hóa đá, trái lại thật hạnh phúc vì họ đã được Thiên Chúa đáp lời. Điều quan trọng chính là người tín hữu phải biết cầu nguyện liên lỉ, không được nản chí. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự, chắc chắn sẽ đáp lời.
Mời Bạn: Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương đồng hành và lắng nghe những lời cầu nguyện tha thiết của bạn và tôi. Và Ngài sẵn sàng đáp lời chúng ta, miễn là chúng ta biết cầu nguyện không ngừng, cầu nguyện hoài, cầu nguyện mãi, không sờn lòng nản chí.
Chia sẻ: Bạn có thấy việc cầu nguyện là cần thiết không? Mời bạn chia sẻ kinh nghiệm cầu nguyện của bạn.
Sống Lời Chúa: Quyết tâm hằng ngày cầu nguyện với Chúa mỗi sáng thức dậy và trước khi đi ngủ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con kiên trì cầu nguyện và gắn bó với Chúa trong mọi việc chúng con làm vì biết rằng chắc chắn Chúa sẽ đáp lời chúng con.

KHÔNG NẢN CHÍ
Đức Giêsu mong chúng ta đừng thất vọng trước sự bất công trên thế giới... Hãy tiếp tục cầu nguyện, vì Thiên Chúa tốt hơn ông quan tòa nhiều.


Suy nim:
Ngày 14-10-2010 là ngày vui đối với người dân Chilê.
Ba mươi ba người thợ mỏ bị sụp hầm sâu gần 700 m, được giải cứu.
Mười bẩy ngày đầu họ sống trong bóng tối, cạn kiệt lương thực.
Họ còn phải sống gần hai tháng nữa mới được cứu lên khỏi mặt đất.   
“Tôi ở giữa Thiên Chúa và quỷ sứ. Tôi bị giằng co giữa hai bên.
Tôi nắm chặt lấy bàn tay Chúa, và Chúa đã cứu tôi.”
Đó là câu nói của anh Mario Sepulveda,
người thợ mỏ thứ hai được đưa lên khỏi “địa ngục”.
Khi còn ở dưới hầm, Jimmy Sanchez, anh thợ trẻ nhất nhóm đã viết lên:
“Ở đây chúng tôi có 34 người, vì Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi chúng tôi.”
Dù người ta nhắc đến khoa học như chìa khóa cho thành công,
nhưng chính việc cầu nguyện đã cho họ sức mạnh để đứng vững.
“Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.”
Đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta qua dụ ngôn bà góa quấy rầy.
Bà là người không còn chỗ dựa vững chãi của người chồng.
Bà lại còn là nạn nhân đáng thương của một sự bất công chèn ép.
Nhất quyết không để mình bị bóc lột,
bà đã nhiều lần đến gặp quan tòa để xin ông minh xét cho (c. 3).
Tiếc thay ông này lại là một vị quan tòa bất chính (c. 6),
nên vụ kiện bị ngâm trong một thời gian khá lâu.
Nhưng bà không hề nản chí, và cuối cùng bà đã thắng.
Ông quan tòa đã phải đem ra xử vụ kiện, chỉ vì bị bà quấy rầy liên tục.
Đức Giêsu đã táo bạo khi kể dụ ngôn trên.
Ngài dám so sánh Thiên Chúa với ông quan tòa bất chính.
Dĩ nhiên, Thiên Chúa thì tốt lành và chăm lo cho con người,
ngược hẳn với ông quan tòa chẳng coi ai ra gì (c. 2).
Nhưng cả hai lại có một nét chung.
Nhiều khi chúng ta có kinh nghiệm về một Thiên Chúa như hững hờ,
như không muốn đáp lại tiếng kêu của những người chịu bất công áp bức.
Có biết bao tiếng kêu như thế vang vọng từ khắp địa cầu.
Có biết bao người chịu bách hại mà không thể lên tiếng.
“Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho” (c. 3).
Đó vẫn là lời kêu nài muôn thuở của những người thấp cổ bé miệng.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa không lên tiếng bênh vực,
không hành động gì để giải cứu, giải oan.
Đức Giêsu mong chúng ta đừng thất vọng trước sự bất công trên thế giới,
đừng nản lòng khi lời cầu nguyện của chúng ta có vẻ rơi vào quên lãng.
Hãy tiếp tục cầu nguyện, vì Thiên Chúa tốt hơn ông quan tòa nhiều.
Nếu quan tòa cuối cùng còn xử kiện cho bà góa chỉ vì tránh bị quấy rầy,
thì huống hồ là Thiên Chúa, Đấng sẽ làm rõ trắng đen vì lòng cảm thương.
Lẽ nào Người bắt những kẻ Người tuyển chọn,
những kẻ ngày đêm kêu cứu với Người phải chờ đợi mãi? (c. 7).
Lòng tin của chúng ta vẫn bị thách đố ngày nào còn bất công trên thế giới.
Chỉ mong ta vẫn giữ được lòng tin như người thợ mỏ ở trong hầm tối.
Cầu nguyn:

Lạy Cha,
con phó mặc con cho Cha,
xin dùng con tùy sở thích Cha.
Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.
Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.
Miễn là ý Cha thực hiện nơi con
và nơi mọi loài Cha tạo dựng,
thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.
Con trao linh hồn con về tay Cha.
Con dâng linh hồn con cho Cha,
lạy Chúa Trời của con,
với tất cả tình yêu của lòng con,
Vì con yêu mến Cha,
vì lòng yêu mến
thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,
thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,
không so đo,
với một lòng tin cậy vô biên,
vì Cha là Cha của con.

(Chân phước Charles de Foucauld)

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

16 Tháng Mười

Xin Cho Chúng Con Lương Thức Hằng Ngày

Hôm nay là ngày quốc tế về lương thực do tổ chức Lương Nông của Liên Hiệp Quốc đề xướng.
Nói đến lương thực, nhất là trong một quốc gia nghèo đói như Việt Nam, có lẽ tự nhiên, ai trong chúng ta cũng nghĩ đến cái đói trên thế giới.
Ðói không chỉ là một trạng thái cần ăn uống, nhưng được các chuyên viên về thực phẩm và sức khỏe định nghĩa như là một tình trạng thường xuyên của một người không đủ ăn để có thể có một cuộc sống lành mạnh. Danh từ chuyên môn thường được dùng để chỉ tình trạng này là dưới mức dinh dưỡng. Nạn nhân dễ thấy nhất của tình trạng này là các trẻ em của những nước nghèo.
Mỗi năm người ta tính có đến 15 triệu trẻ em chết vì nhiều nguyên do có liên quan đến tình trạng thiếu dinh dưỡng. Mỗi ngày, trên khắp thế giới, có khoảng 40 ngàn trẻ em chết vì đói. Số người chết vì đói ăn cũng tương đương với số thương vong nếu cứ ba ngày có một trái bom hạt nhân được ném xuống một vùng đông dân cư.
Có rất nhiều nguyên nhân đưa đến nạn đói kém. Người ta cho rằng nguyên nhân chính nằm trong chính sách kinh tế, chế độ chính trị, xã hội. Nhưng tựu trung, căn rễ sâu xa nhất vẫn là sự ích kỷ của con người. Nếu một phần mười những người giàu có trên thế giới biết san sẻ cho những người nghèo, thì có lẽ thế giới này không còn có những trẻ em chết đói mỗi ngày nữa. Nếu ngay cả trong một quốc gia, người ta biết dùng tiền bạc để mua cơm bánh cho con người hơn là đầu tư vào khí giới, thì chắc chắn sẽ không còn cảnh người chết đói nữa.
Tại một vài quốc gia kỹ nghệ đang chuyển mình để bước vào cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ ba, người ta thường nói đến kỷ nguyên điện toán, thụ thai trong ống nghiệm... Thế nhưng, tại rất nhiều nơi trên thế giới, mỗi ngày vẫn có đến 40 ngàn trẻ em chết vì đói ăn... Thế giới của chúng ta quả là một nhân thể bệnh hoạn. Một nơi nào đó trong cơ thể, một số bộ phận phát triển một cách dư dật, một nơi khác, nhiều cơ phận đang chết dần chết mòn vì thiếu tiếp tế.
Có lẽ nhân loại chúng ta không chết đói cho bằng vì thiếu tình thương. Những người đang chờ chết cũng là những người đang chờ từng nghĩa cử yêu thương của đồng loại. Những người dư dật nhưng không biết san sẻ cũng là những người đang chết dần trong ích kỷ. Con người cần có cơm bánh để sống đã đành, nhưng con người cũng cần có tình thương để tồn tại. Kẻ đón nhận tình thương cũng được sống mà người san sẻ tình thương cũng được sống.
Chúng ta phải làm gì để được sống? Dĩ nhiên, chúng ta phải có đủ cơm bánh hằng ngày. Nhưng câu trả lời mà mỗi người Kitô phải tự nói với mình là: để được sống, tôi cần phải làm cho người khác được sống. Ðó là sự sống đích thực của chúng ta. Bởi vì ai sống trong tình yêu, người đó sống trong Thiên Chúa.
Lẽ Sống


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét