10/11/2016
Thứ
năm tuần 32 thường niên
Thánh
Lêô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ
nhớ.
* Thánh nhân sinh tại Ê-tru-ri-a. Năm 440,
người làm giáo hoàng. Với tầm nhìn xa trông rộng và nghị lực phi thường, người
đã đương đầu với nguy cơ xâm lăng của dân man di và lạc giáo của Êu-ti-khê đang
đe dọa niềm tin về mầu nhiệm Nhập Thể. Nhưng trong tư cách một mục tử, người ý
thức sâu sắc trách nhiệm của mình và không ngừng nhắc nhở các tín hữu thể hiện
đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Người qua đời năm 461.
Bài Ðọc I: (Năm II) Plm 7-20
"Xin anh tiếp nhận nó không phải như một người
nô lệ, nhưng như một người anh em rất thân mến".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Philêmon.
Anh thân mến, tôi rất đỗi vui mừng và an ủi, vì lòng
bác ái của anh, vì hỡi anh, nhờ anh mà tâm hồn các thánh được hài lòng.
Bởi đó, dầu trong Ðức Giêsu Kitô, tôi có đủ quyền để
truyền cho anh điều phải lẽ, nhưng tôi thà nại vào đức bác ái mà nài xin anh
thì hơn, vì anh cũng như tôi. Phaolô già nua, và hiện đang bị cầm tù vì Ðức
Giêsu Kitô, tôi nài xin anh cho Ônêsimô, đứa con tôi đã sinh ra trong xiềng
xích. Xưa kia nó là người vô ích cho anh, nhưng hiện nay, nó lại hữu ích cho cả
anh và tôi nữa, tôi trao lại cho anh. Phần anh, anh hãy đón nhận nó như ruột thịt
của tôi.
Tôi cũng muốn giữ nó lại để thay anh mà giúp đỡ tôi
trong lúc tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng vì chưa biết ý anh, nên tôi
không muốn làm gì, để việc nghĩa anh làm là một việc tự ý, chứ không vì ép buộc.
Vì biết đâu nó xa anh một thời gian để rồi anh sẽ tiếp nhận nó muôn đời, không
phải như một người nô lệ, nhưng thay vì nô lệ, thì như một người anh em rất
thân mến, đặc biệt đối với tôi, huống chi là đối với anh, về phần xác cũng như
trong Chúa.
Vậy nếu anh nhận tôi là bạn hữu, thì xin anh hãy đón
nhận nó như chính mình tôi vậy. Nếu nó đã làm thiệt hại cho anh điều gì, hay mắc
nợ anh, xin anh hãy tính vào sổ của tôi. Chính tôi là Phaolô đây, tôi tự tay viết
là tôi sẽ thanh toán, trừ phi tôi kể ra cho anh hay rằng chính anh mắc món nợ với
tôi. Hỡi anh, thật thế. Nhờ anh tôi sẽ được hân hoan trong Chúa: anh hãy làm
cho tôi được thoả lòng trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Phúc
thay con người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ (c. 5a).
Xướng: 1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị
áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.
- Ðáp.
2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải
thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân,
Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.
3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và
làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi,
Ðức Thiên Chúa của người sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.
Alleluia: 2 Tx 2, 14
Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa đã dùng Tin Mừng mà
kêu gọi chúng ta, để chúng ta được chiếm lấy vinh quang của Ðức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 17, 20-25
"Nước Thiên Chúa ở giữa các ông".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu
"Khi nào nước Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại rằng: "Nước
Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được:
"Này nước trời ở đây hay ở kia". Vì nước Thiên Chúa ở giữa các
ông". Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có ngày các con ước ao
thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các con:
"Này Người ở đây và này Người ở kia", các con chớ đi đến và đừng tìm
kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì
Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải
chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Sống Sung Mãn Giây Phút Hiện Tại
Hiện nay, con số các nhóm khủng bố có mầu sắc tôn
giáo đang gia tăng đáng kể. Năm 1968, không có hoạt động khủng bố nào liên hệ đến
tôn giáo, nhưng ngày nay có rất nhiều nhóm tự xưng là Kitô giáo, Do thái giáo, Ấn
giáo, Hồi giáo. Mẫu số chung của các nhóm này là niềm tin vào một ngày thế mạt,
họ chủ trương bạo động, vì tin rằng nhờ cuộc chiến tranh ở qui mô thế giới, hay
nhờ một thiên tai nào đó, họ sẽ được đưa vào Thiên Ðàng. Các giáo phái mong mỏi
ngày thế mạt đã khởi sắc tại Hoa Kỳ từ thế kỷ 19 và hiện nay vẫn còn thu hút
nhiều tín đồ. Tuy nhiên mới đây một số đã cáo chung vì bạo động: cách đây vài
năm, một giáo phái tại Nam Hàn đã lôi kéo nhiều tín đồ đến chỗ tự vẫn và đã tự
giải tán, vì ngày thế mạt họ chờ đợi đã không đến. Vụ phun hơi ngạt do giáo
phái "Chân Lý Tối Thượng" chủ trương tại Nhật Bản dạo tháng 3/1995
cũng cho thấy sự khởi sắc bất ngờ của niềm tin vào ngày thế mạt nơi người Nhật
bản.
Tin vào ngày thế mạt, tức ngày Chúa lại đến trong
vinh quang cũng là một trong những điểm nòng cốt của Kitô giáo. Hàng ngày,
trong Thánh Lễ, Giáo Hội không ngừng nhắc nhở các tín hữu khi tuyên xưng:
"Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc
Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến". "Chúa lại đến", đó là
niềm xác tín của người Kitô hữu. Tuy nhiên, ngày đó có phải là năm 2000, năm
3000 hay một thời điểm nhất định nào không? Cái bí ẩn ấy không bao giờ được vén
mở. Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ trở lại, nhưng không cho biết ngày giờ nào.
Chính vì tính cách bất ngờ của Ngày Chúa Ðến, các
tín hữu phải luôn tỉnh thức. Tỉnh thức có nghĩa là dấn thân tích cực trong giây
phút hiện tại, chứ không phải là ăn không ngồi rồi mà chờ đợi. Ðó cũng là giáo
huấn của Chúa Giêsu mỗi khi Ngài nói đến Nước Thiên Chúa thời cánh chung: Nước
Thiên Chúa sẽ thành tựu ở một thời điểm mà không ai biết trước được vào ngày
Con Người sẽ quang lâm. Một trong những nét cao cả của con người chính là khả
năng vượt qua thời gian, chỉ con người mới có thể hồi tưởng quá khứ và dự phóng
tương lai, chỉ con người mới có khát vọng được trường sinh bất tử. Thiên Chúa
quả thực đã đặt để trong lòng con người hạt giống của sự sống vĩnh cửu, hạt giống
ấy chỉ có thể nẩy mầm trên thửa đất của hiện tại mà thôi: không thể đi vào vĩnh
cửu mà không bước qua hiện tại, không thể yêu mến vĩnh cửu mà lại khước từ hiện
tại.
Qua cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã vạch ra cho
con người đường đi vào vĩnh cửu, đó là sống sung mãn trong từng giây phút hiện
tại. Chính trong cuộc sống mỗi ngày mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những
giá trị vĩnh cửu. Sống như thế là sống tỉnh thức theo tinh thần mà Chúa Giêsu hằng
nhắc nhở trong Tin Mừng của Ngài; sống như thế, con người mới có thể nhận ra ý
nghĩa của cuộc sống. Một cuộc sống có đáng sống và có ý nghĩa hay không, là tùy
ở thái độ trân trọng và tích cực của con người đối với mỗi giây phút hiện tại.
Nguyện xin Chúa ban thêm niềm tin để chúng ta không
ngừng đón nhận Chúa qua từng biến cố và gặp gỡ mỗi ngày.
Veritas Asia
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ
Năm Tuần 32 TN2
Bài
đọc: Phm 7-20; Lk 17:20-25.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những dấu chỉ để nhận ra Triều Đại của Thiên Chúa trong tâm hồn.
Con người thường phán xét theo những gì họ xem thấy
bên ngòai. Họ muốn dùng những tiêu chuẩn bên ngòai để xác định khi nào Đấng
Thiên Sai và khi nào Ngày Phán Xét tới. Khác với con người, Thiên Chúa phán xét
theo những gì Ngài thấy bên trong. Ngài mời gọi con người nhìn sâu vào tâm hồn
bên trong, để nhận ra những tiêu chuẩn của Nước Trời. Trong Bài đọc I, Thánh
Phaolô cố gắng thuyết phục Philemon nhận lại người nô lệ của ông đã lỡ dại trốn
đi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cho biết để nhận ra triều đại của Thiên Chúa đến
hay chưa, con người không thể dựa vào những sự kiện bên ngòai, nhưng phải dựa
vào những thay đổi trong tâm hồn.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I:
Phải lấy tình bác ái mà đối xử với nhau.
Thư Thánh Phaolô gởi cho Philemon, cộng sự viên của
ngài, chỉ vỏn vẹn trong hai trang và liên quan chỉ một vấn đề chính: Ngài xin
ông nhận lại người nô lệ, Oneximo, đã trót dại bỏ trốn qua Roma tìm tự do. Nhiều
người đã so sánh việc Phaolô bầu cử cho Oneximo như việc Chúa Giêsu bầu cử cho
con người trước tòa Thiên Chúa. Đức bác ái của Kitô Giáo được nhấn mạnh trong
tòan thể thư này:
(1) Thánh Phaolô khen đức bác ái của Philemon: Ngay
từ đầu thư, Phaolô đã đề cao đức bác ái của Philemon: “Thật thế, tôi rất vui mừng
và lấy làm an ủi, khi thấy đức bác ái của anh, bởi vì, thưa anh, anh đã làm cho
lòng trí các người trong dân thánh được phấn khởi.”
(2) Ngài nhân danh đức bác ái xin Philemon làm cho
Ngài một chuyện: nhận lại Oneximo. Theo luật của Roma thời đó, người chủ có
tòan quyền trên nô lệ của mình. Nếu người nô lệ trốn đi và bị chủ bắt lại, anh
có thể bị chủ giết chết. Thánh Phaolô rất hiểu tâm lý: Con người không thích bị
bắt buộc phải làm, nhưng muốn có tự do để quyết định, nên Ngài nói với
Philemon: “Mặc dầu nhờ kết hợp với Đức Kitô, tôi có đủ mạnh dạn để truyền cho
anh làm điều anh phải làm; nhưng tôi thích kêu gọi lòng bác ái của anh hơn, để
xin anh làm điều đó. Tôi, Phaolô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị
tù vì Đức Kitô Giêsu.”
(3) Thánh Phaolô đối xử bác ái với Oneximo: Ngài
không coi anh như một người nô lệ nhưng như một người con ruột thịt. Ngài nói với
Philemon: “Tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôi đã sinh ra trong cảnh
xiềng xích, đó là Oneximo, kẻ xưa kia đối với anh là vô dụng, thì nay đã thành
người hữu ích cho cả anh lẫn tôi, tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận
nó như người ruột thịt của tôi.”
(4) Thánh Phaolô quan tâm đến người khác nhiều hơn
mình: Mặc dù ngài muốn giữ Oneximo ở lại để giúp đỡ ngài trong lúc già yếu và
tù đày, nhưng Oneximo thuộc về Philemon; vì thế chỉ Philemon mới có quyền quyết
định: “Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ
tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà
không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ
không phải tự nguyện.”
(5) Thánh Phaolô khuyên Philemon nên đối xử tốt với
Oneximo: không phải như một người nô lệ nữa, mà như một người anh em trong gia
đình và trong Chúa: “Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại
nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ,
thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với
anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em
trong Chúa.”
(6) Thánh Phaolô coi việc tiếp nhận Oneximo là tiếp
nhận chính ngài: “Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận
nó như đón nhận chính tôi.” Và Ngài xin Philemon cho ngài được hưởng ân huệ này
nhờ Đức Kitô: “Xin anh cho tôi được hưởng niềm vui đó trong Chúa. Anh hãy làm
cho lòng trí tôi được phấn khởi trong Đức Kitô.”
2/ Phúc Âm:
Triều Đại của Thiên Chúa đang ở giữa các ông.
2.1/ Khi nào triều đại của Thiên Chúa đến? Các động từ chính liên quan đến “triều đại của Thiên Chúa”
trong câu 21 và 22 đều được dùng ở thời hiện tại. Điều này chứng tỏ Thánh Luca
muốn phân biệt triều đại của Thiên Chúa đến trong trần gian với Ngày Đức Kitô sẽ
đến lần thứ hai trong 4 câu kế tiếp. Triều đại của Thiên Chúa đã đến trong trần
gian, nhưng để nhận ra con người không thể:
- dựa vào những dấu chỉ bên ngòai như lời Chúa Giêsu
tuyên bố: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và
người ta sẽ không nói: Ở đây này! hay Ở kia kìa!” nhưng phải nhận ra nhờ những
dấu chỉ bên trong như đức tin vào Thiên Chúa, sống bác ái với mọi người.
- triều đại của Thiên Chúa đang ở giữa (hiện tại)
các ông: Chúa Kitô là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa. Nhận ra Đức Kitô và tin
vào Ngài là dấu hiệu Triều Đại của Thiên Chúa đã đến trong lòng mỗi tín hữu.
2.2/ Khi nào Đức Kitô sẽ đến lần thứ hai? Các động từ chính của cả 3 câu 22, 23, 24 đều được dùng ở thời
tương lai. Câu 25 là lời tiên tri: Chúa Giêsu báo trước những gì sắp xảy ra cho
Ngài trong tương lai gần. Về Ngày Chúa Giêsu sẽ đến lần thứ hai:
- Không ai biết được thời gian: “Vì thế, khi người
ta sẽ bảo anh em: Người ở kia kìa! hay Người ở đây này! Anh em đừng đi, đừng chạy
theo.”
- Không ai biết được nơi chốn: “Vì như ánh chớp chói
loà chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người
cũng sẽ như vậy trong Ngày của Người.”
- Các môn đệ biết những gì sắp xảy ra cho Chúa Giêsu
trong tương lai gần: “Nhưng trước đó, Người phải chịu đau khổ nhiều và bị thế hệ
này loại bỏ.” Khi chứng kiến những sự kiện này, các môn đệ sẽ biết triều đại của
Thiên Chúa đã đến trong thế gian. Sau đó, Chúa Giêsu sẽ được cất đi khỏi các
ông. Lúc đó, các ông sẽ mong sống lại những ngày với Chúa Giêsu, nhưng không
còn nữa: “Sẽ đến thời anh em mong ước được thấy một trong những ngày của Con
Người thôi, mà cũng không được thấy.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta có thể nhận ra Triều Đại của Thiên Chúa
đã đến với chúng ta bằng niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô, biểu lộ qua việc
bác ái chúng ta đối xử với những người chung quanh, nhất là những người kém may
mắn, như Phaolô khuyên Philemon đối xử với Onesimo, người nô lệ.
- Triều đại của Thiên Chúa đến không từ bên ngòai để
chúng ta có thể nhận ra như những vương quốc của trần gian; nhưng chúng ta có
thể nhận ra triều đại của Thiên Chúa đã đến trong tâm hồn nhờ vào những dấu chỉ
bên trong như ăn năn xám hối, tin vào Đức Kitô, và sống bác ái với mọi người.
- Về Ngày Chúa đến lần hai, Chúa Giêsu đã nói rõ: Chắc
chắn Ngày đó sẽ xảy ra, nhưng không ai biết được thời gian và nơi chốn. Vì thế,
đừng tiên đóan hay tin ai cho biết về Ngày đó. Tốt hơn, chúng ta nên chuẩn bị
và sẵn sàng chờ đợi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
10/11/16 THỨ NĂM TUẦN
32 TN
Th. Lê-ô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ HT
Lc 17,20-25
Th. Lê-ô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ HT
Lc 17,20-25
Suy niệm: Sai lầm của đám đông hôm ấy không chỉ là muốn
biết bao giờ Nước Thiên Chúa đến mà họ còn đòi hỏi nước ấy phải có thể chứng
nghiệm được như một thực thể mà họ nhìn thấy được. Chúa Giê-su nói cho họ biết
rằng Nước Thiên Chúa không phải là một khái niệm trừu tượng, cũng không phải là
một vật thể họ có thể nắm được trong tay, nhưng là chính con người Đức Giê-su
Na-da-rét, hình ảnh Thiên Chúa vô hình. Muốn thấy Nước Thiên Chúa thì đến với
Chúa Giê-su. Nhiều lần họ tiếp xúc với Chúa Giê-su, và được chứng kiến những
phép lạ Ngài thực hiện, nhưng họ vẫn không nhận ra Đấng Chúa Cha sai đến và
cũng không nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện diện nơi con người của Đức Giê-su.
Vì thế, Chúa nhắn nhủ: “Nước
Thiên Chúa đang ở giữa các ông,” nhờ
đó họ có thể hướng về Chúa Giê-su và Nước Trời đích thực.
Mời Bạn: Đâu chỉ người Do Thái ngày xưa, có thể hôm nay
chúng ta đang tìm một chúa nào khác trong khi Chúa Giê-su đang hiện diện giữa
chúng ta trong bí tích Thánh Thể và các bí tích, trong Giáo Hội. Chúa nói Ngài
đang ở giữa chúng ta đó bạn.
Sống Lời Chúa: Viếng
nhà thờ hoặc chầu Mình Thánh Chúa và xin cho mọi tín hữu tiếp tục sống lòng
thương xót sau năm thánh này.
Cầu nguyện: Xin Chúa cho con nhận ra lòng Chúa xót thương con khi hiện diện
trong bí tích Thánh Thể. Xin cho con nhận ra Nước Thiên Chúa đang ở giữa thế
giới này trong Chúa Giê-su.
Nước Thiên Chúa
Chúng ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến.
Chúng ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.
Suy
niệm:
Từ
sau khi dân Israel định cư ở đất Canaan,
Thiên
Chúa được họ coi như một vị Vua cai trị mọi dân tộc.
Đặc
biệt Ngài là Vua ngự giữa dân Israel để lãnh đạo và chăm sóc họ.
Các
vị vua trần thế đã xuất hiện trong dòng lịch sử của Israel
như
những người phục vụ cho Đức Vua, cho Nước Thiên Chúa.
Tiếc
thay có những vị vua đã không làm tròn sứ mạng.
Trải
qua bao triều vua của nước Israel, bao thịnh suy của đất nước,
từ
sau khi lưu đầy trở về, dân chúng chỉ còn biết chờ một Đấng Mêsia.
Họ
tin Đấng ấy sẽ khai mở Nước Thiên Chúa.
“Nước
Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (c. 21).
Đức
Giêsu đã nói với các ông Pharisêu như vậy
khi
họ hỏi Ngài khi nào Nước Thiên Chúa đến.
Nước
ấy không đến một cách lộ liễu ở đây hay ở kia để kiểm tra (c. 20).
Người
Pharisêu không nhận ra Nước ấy đang ở giữa họ.
Chỉ
ai biết nhìn, mới nhận ra Nước ấy đang hiện diện và hoạt động
nơi
lời giảng và các phép lạ của Đức Giêsu.
Khi
bệnh được khỏi, khi quỷ bị trừ, khi tội được tha,
khi
con người biết hoán cải để sống những đòi hỏi của Đức Giêsu,
khi
ấy Nước Thiên Chúa có mặt và tăng trưởng.
Đức
Giêsu đã khai mở Nước Thiên Chúa.
Và
Nước đó vẫn lớn lên từ từ qua dòng thời gian.
Như
hạt giống được gieo trong đất, đêm hay ngày cũng cứ lớn lên,
như
chút men làm dậy khối bột, như hạt cải thành cây cao rợp bóng,
Nước
Thiên Chúa cũng cần thời gian để đạt đến chỗ viên mãn.
Hai
ngàn năm trôi qua, Nước Thiên Chúa đã lớn lên về mọi mặt.
Nhưng
Kitô hữu chúng ta vẫn thấy còn nhiều điều phải làm
để
Nước đó được nhìn nhận bởi gần 7 tỷ người trên trái đất.
Ngày
nào thế giới còn chiến tranh, bạo động, còn áp bức, bất công,
ngày
nào nhân loại còn bệnh tật đói nghèo, còn nô lệ cho vật chất,
ngày
ấy Nước Thiên Chúa chưa ngự trị trên địa cầu.
Nơi
nào công lý và hòa bình, khoan dung và nhân hậu,
chi
phối trái tim và cách hành xử giữa người với người,
nơi
đó Nước Thiên Chúa đã đến gần hơn.
Chúng
ta không chỉ cầu xin cho Nước Cha trị đến (Mt 6, 10).
Chúng
ta biết mình được mời gọi để xây dựng Nước đó trên trần gian.
Để
chuẩn bị cho Ngày Chúa Giêsu trở lại trong vinh quang,
chúng
ta còn bề bộn công việc phải làm.
Ngài
phải có chỗ trong lòng dân tộc, giữa thế kỷ hai mươi mốt.
Nhưng
trước hết Ngài phải có chỗ trong lòng chúng ta.
Xin
được đón lấy Nước Thiên Chúa như trẻ thơ, như người nghèo tay trắng.
Xin
được quảng đại bán tất cả để mua viên ngọc quý là Nước Trời.
Xin
được chia sẻ cho Giêsu nơi những người anh em bé nhỏ nhất.
Vì
Nước Thiên Chúa là một tiệc vui quy tụ mọi người từ bốn phương,
xin
được mở rộng vòng tay từ bây giờ để ôm lấy cả thế giới.
Cầu
nguyện:
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con
mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là
thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con
mơ ước
không
còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên
trong là người giàu yến tiệc linh đình.
Con
mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không
còn những cô gái đứng đường
hay
những người ăn xin.
Con
mơ ước
những
ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các
ông chủ coi công nhân như anh em.
Con
mơ ước
tiếng
cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các
công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.
Lạy
Chúa của con,
con
ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh
của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và
xanh của bao niềm hy vọng
nơi
lòng những ai ham sống và ham dựng xây.
Nếu
Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì
xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên
10 THÁNG MƯỜI MỘT
Kỹ Thuật: Tai Họa Hay Là Tiến Bộ?
Những khả năng vô song ấy của tai họa khủng khiếp
hay của sự tiến bộ ngoạn mục mời gọi thế hệ chúng ta khám phá lại những giá trị
lớn lao mà nền văn minh của mình cắm rễ trong đó.
Rất nhiều giấc mơ của con người hàng bao thế kỷ đã
trở thành hiện thực nhờ những bước tiến nhảy vọt của kỹ thuật. Chúng ta có thể
chặn đứng sự bành trướng của sa mạc và biến đổi chính sa mạc. Chúng ta có khả
năng chế ngự được hạn hán và sự đói kém. Chúng ta có khả năng làm giảm bớt gánh
nặng của sự làm việc vất vả lâu giờ. Chúng ta có khả năng giải quyết một số vấn
đề về tình trạng kém phát triển và nhờ đó có thể có được một sự phân phối công
bằng hơn về các nguồn tài nguyên của thế giới.
Nhưng cũng chính kho tàng kỹ thuật ấy hiện đang đe dọa
con người với những tai họa khủng khiếp. Trái đất có thể sẽ không còn cư ngụ được;
biển có thể trở thành vô dụng; bầu không khí có thể trở nên độc hại …
Đứng trước vô số những khả năng tích cực và tiêu cực
đó, kỹ thuật không được phép quên con người! Ngày nay, hơn lúc nào hết, chúng
ta khẩn thiết cần đến những giá trị đạo đức ưu tiên trên những giá trị khoa học,
và chúng ta khẩn thiết cần có sự hiệp nhất giữa mọi người chúng ta. Tất cả
chúng ta cần liên đới với nhau vượt qua cả những ranh giới quốc gia – bởi vì mọi
người trên hành tinh này sẽ cùng chia sẻ với nhau những số phận tốt hoặc xấu. Tất
cả chúng ta đều cùng ở trong một vòng ảnh hưởng.
Tương lai chúng ta cần phải được dẫn dắt bởi những giá
trị lớn của nền văn minh Kitô giáo. Các giá trị ấy phải đóng vai trò như người
bảo vệ chống lại những khả năng tàn phá và hủy diệt. Sự phát triển của các kỹ
thuật mới phải giúp thế hệ chúng ta khám phá lại những chuẩn mực đạo đức nền tảng
của văn minh chúng ta. Chúng ta phải ý thức lại bản tính của con người, phải
tôn trọng phẩm giá của nhân vị và phải tôn trọng sự sống.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời
Chúa Trong Gia Đình
Ngày 10 – 11
Thánh Lêô Cả, giáo hoàng, tiến sĩ Hội Thánh
Plm 1,7-20; Lc 17,20-25.
Lời suy niệm: “Triều Đại Thiên Chúa không đến như một điều
có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: Ở nơi này! Hay ở kia kìa! Vì
này Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.”
Đối với những người Pharisêu khi họ hỏi Chúa Giêsu về
Triều Đại Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã cho họ biết: chính sự hiện diện của Người
trước mặt họ: “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông” và Người còn giải
thích: “Triều Đại Thiên Chúa không như một điều có thể quan sát được.” Bởi Triều
Đại Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong mọi tâm hồn của con người; nên con mắt
loài người không thể thấy, để chỉ cho người khác.
Lạy Chúa Giêsu, Xin cho chúng con luôn tin vào lời dạy
của Chúa trong đầu kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời; Chúng con nguyện
Danh Cha cả sáng Nước Cha trị đến.” Giúp chúng con nhận ra Triều Đại Thiên Chúa
đang ở trong tâm hồn của chúng con để chúng con được trở nên chứng tá của Tin Mừng.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
Ngày 10-11
THÁNH LEO CẢ
Giáo Hoàng Và Tiến Sĩ Hội Thánh (-461)
Người ta không biết được thánh Lêo sinh ra ngày nào
và cả nơi sinh của Ngài cũng không được biết chắc. Có lẽ Ngài là người Roma.
Chúng ta chỉ biết được rằng: Ngài là một phó tế góp phần cai quản dưới hai triều
Giáo hoàng Cêlestinô I và Sixtô III và được bầu làm giáo hoàng năm 440. Được chọn
làm giám mục Roma, phải đợi 40 ngày sau Ngài mới được trở về.
Trước trách nhiệm chất đầy, Ngài đã sợ: - Lạy Chúa,
có sự cân xứng nào giữa gánh nặng Chúa trao và sự yếu hèn của con, giữa sự cất
nhắc và sự hư không của con ?
Và Ngài tiếp: - Chúa đã đặt gánh nặng cho con, xin
Chúa gánh với con, xin Chúa hãy là người hướng dẫn và nâng đỡ con.
Công cuộc Ngài làm thật lớn lao và đa diện khó có thể
tóm kết lại được mà không bất công. Dầu vậy, có thể nói công cuộc này qui về 4
hình thái chính: kiểm soát lạc giáo bên Tây phương, can thiệp về giáo thuyết
quan trọng bên Đông phương, bảo vệ Roma khỏi cuộc tấn công của dân rợ và những
nỗ lực của một mục tử và một nhà giáo dục.
Thánh Lêô đã phải có biện pháp đối với không dưới ba
lạc giáo. Không còn dễ dãi cho những người theo Pêlagiô được hiệp thông nữa và
đòi phải công khai tuyên xưng đức tin trước khi được nhận là phần tử đầy đủ của
Giáo hội. Những người trốn thoát cuộc tấn công của Valda Phi Châu đã mang thuyết
Manichêô đến Roma. Thánh Lêô thấy rằng: cộng đoàn bí mật này phải được công
khai đưa ra ánh sáng. Ngài cũng nhiệt liệt ủng hộ các giám mục Tây Ban Nha và
Phi Châu chống lại thuyết Priscillanô, những cuộc tranh luận về giáo thuyết tại
Giáo hội bên Đông phương liên quan tới chính bản tính của Chúa. Hai nhà tiền
phong của cuộc tranh luận là Eutiches, một tu viện trưởng ở Constantinople và
thánh Plavianê, thượng phụ giáo chủ Constantinople là người trong cuộc chiến đã
bị những người theo Eutiches hành hạ cho đến chết.
Năm 451, một cộng đồng qui tụ trên 600 giám mục về
Chalcedonia. Thánh Lêô đã viết lá thư danh tiếng gởi Plavianô, trình bày giáo
thuyết về ngôi vị và bản tính của Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã đặt bức thư này trên
mộ thánh Phêrô, vị thủ lãnh tiên khởi của Giáo hội và ăn chay cầu nguyện suốt
40 ngày. Bức thư được đọc tại công đồng và đã được nhận như một bản tuyên xưng
đức tin. Quyền tối thượng của Đức giáo hoàng tỏ hiện khi giám mục đồng thanh
kêu lớn: - Chính thánh Phêrô đã nói qua Lêô.
Như thế đứng đầu các giám mục không mấy quan tâm tới
quyền tối thượng của Roma. Ngài đã cất giữ được sự hiệp nhất Giáo hội. Ngài đã
viết: "Đức tin của Phêrô đã được chính Thiên Chúa mặc cho sự kiện vững
không thể lay chuyển nổi. Dù cho sự cúng lòng của các lạc giáo hay sư man rợ của
lương dân cũng sẽ không bao giờ đảo lộn được đức tin này".
Trong số các quyết định, Ngài đã tạo được sự đồng ý
giữa Đông Tây cử hành lễ phục sinh vào cùng một ngày ở khắp nơi.
Một cuộc chiến khác chờ đón Đức Giáo hoàng Attila và
rợ Hung Nô võ trang hùng hậu, gieo rắc những khủng khiếp chiến tranh và tàn
phá. Người ta nói rằng: những người man di này khi sinh ra là mẹ họ nghiền mặt
đi cho hợp với nón sắt, và chính họ xẻ má cho râu hết mọc nổi. Họ thờ thanh
gươm khắc sâu vào bàn thờ, tưới máu các tù nhân trên đó và làm một thiết đồ bằng
đầu các địch thủ. Năm 452, họ đổ vào miền Bắc Italia gieo rắc tàn phá trên đường
tiến quân. Không một đoàn quân nào có sức bảo vệ Roma. Các tướng lãnh và hoàng
đế Valentinô III run sợ chỉ biết đặt niềm tin tưởng vào Đức giáo hoàng.
Thánh Lêô sau 3 ngày cầu nguyện chay tịnh đã ra đón
người gieo vãi kinh sợ trên thế gian. Và điều gì đã xảy ra ? Người ta có thể tưởng
tượng được một Attila hùng hổ với đoàn quân đông đảo đối diện với người cha
chung của các Kitô hữu mặc phẩm phục giáo hoàng và chỉ có tình yêu trong lòng
làm khí giới. Attila tiến đến Roma với những dự tính đẫm máu, nhưng Đức Lêô đã
đổi lòng hắn. Vương quốc được bình an với lễ vật triều cống hàng năm. dân Hung
Nô trở lại Pannonnia. Đức Giáo hoàng nói với nhà vua: - Hãy tạ ơn Chúa vì Ngài
đã cứu chúng ta khỏi tai họa khủng khiếp.
Đối với dân chúng vui mừng sung sướng, Ngài truyền
cho họ phải cảm tạ Chúa.
Nhưng lòng nhiệt thành và biết ơn ban đầu đã không tồn
tại được lâu. Dân chúng vô ơn và sa đọa, khi nỗi sợ qua rồi họ quên rằng lòng
thương xót họ đã cứu vương quốc và họ lao mình vào các cuộc chơi bời phóng
đãng. Cả đến nhà vua Valentinô cũng làm gương xấu cho dân chúng. Những lời
trách cứ của đức giáo hoàng không được đến xiả tới. Và ba năm sau, những rợ
Vandales dưới quyền vua Ghenséric kéo quân tới. Các nhân vật lớn chạy trốn, cửa
thành bỏ ngõ và Đức giáo hoàng một mình ở lại với dân Roma. Ngài một lần nữa ra
đón quân xâm lăng. Lần này họ ít bị khắc phục hơn lần trước.
Dầu vậy, ảnh hưởng của thánh Lêô cũng đáng đủ để kiềm
chế bớt cuộc chém giết và sự tàn phá, các nhà thờ được tôn trọng. Trái với lời
hứa hẹn, nhiều dân thành vẫn bị bắt. Đức giáo hoàng đã chuyển đồ cứu tế cho họ,
sai các linh mục tới nâng đỡ họ và còn mua chuộc lại một số lớn các tù nhân.
Những năm cuối đời Ngài dành sửa sang lại các tai họa
do các cuộc xâm lăng gây nên, xây dựng lại các tu viện mà với cảm quan về nghệ
thuật, Ngài đã làm giàu thêm bao nhiêu là họa phẩm. Ngài để lai nhiều bài giảng,
nhiều thư từ rất quan trọng, ngày nay chúng ta còn đọc được.
Thánh Lêô từ trần năm 461. Ngài xứng đáng được mệnh
danh là người đầu tiên được chôn cất trong đại vương cung thánh đường thánh
Phêrô. Đức giáo hoàng Sergiô I ghi trên bia mộ của Ngài: "Tôi canh chừng kẻo
lang sói luôn rình mò phá phách đoàn chiên".
Đây là lời thánh Lêô để lại: - "Các con được thấm
nhập vào Chúa".
- " Trong tâm hồn mỗi tín hữu còn có cái trên
trời mà người ta thán phục".
- "Nước Trời không đến với những người ngủ mê.
Năm 1754, Ngài được suy tôn lên bậc thánh tiến sĩ
trong Giáo hội.
(daminhvn.net)
10 Tháng Mười Một
Hôm
Nay Là Ngày Của Chúa
Khi Ðức Gioan 23 lâm bệnh lần cuối, không biết vì lý
do gì mà các bác sĩ muốn dấu nhẹm sự nguy kịch của căn bệnh, họ bảo ngài chỉ bị
chứng lở bao tử. Nhưng Ðức Gioan 23 biết rõ bệnh tình của mình hơn ai hết, vì
thế ngài nói: "Tôi đã dọn sẵn hành trang".
Ông Giacômô Manzu, một nhà điêu khắc nổi tiếng người
ý viết hồi ký về những giây phút sau hết của cuộc đời Ðức Gioan 23 như sau: Vào
ngày cuối cùng của chuỗi ngày đau đớn kéo dài, linh mục Capovilla, bí thư riêng
của Ðức Thánh Cha đến bên giường bệnh, hôn tay bệnh nhân và hỏi xem ngài thấy
thế nào. Ðức Gioan 23 trả lời: "Tôi cảm thấy trong mình khỏe khoắn và an
bình như thể tôi đang ở trong Chúa. Nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơi
lo".
Linh mục Capovilla thưa: "Xin cha đừng lo. Những
người phải lo là chính chúng con, vì con đã nói chuyện với bác sĩ...". Ðức
Gioan 23 ngắt lời hỏi: "Họ đã nói với con những gì?".
Nghẹn ngào, linh mục bí thư của ngài nói: "Thưa
Ðức Thánh Cha, con muốn nói với cha sự thật: hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay
cha sẽ được về Thiên Ðàng".
Nói xong, linh mục bí thư quỳ xuống bên giường, hai
tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua, bỗng cha cảm thấy một bàn tay âu
yếm xoa đầu mình và nghe một giọng ôn tồn nói: "Hãy ngước mắt nhìn lên.
Bình thường, người bí thư của tôi rất mạnh mẽ, can đảm, nhưng bây giờ phải trở
nên mềm nhũn. Cha đã nói với người bề trên của cha những lời hay đẹp nhất mà
con người có thể nghe từ miệng của một linh mục: Hôm nay cha sẽ được vào Thiên
Ðàng".
Chúng ta đang sống trong tháng 11:
- Ðây là tháng Giáo Hội dành riêng để tưởng nhớ đến
những người quá cố.
- Ðây là tháng chúng ta đặc biệt có dịp để báo hiếu
cho ông bà, tổ tiên, tháng để trả nghĩa cho cha mẹ, anh chị em, bà con thân thuộc
đã qua đời bằng những kinh nguyện, bằng những chuỗi lần sốt sắng, nhất là bằng
cách siêng năng tham dự tích cực và cố gắng sống thành lễ để thực hành những
công việc bác ái như thánh lễ đòi hỏi.
Nhưng, vào tháng 11 hằng năm, Giáo Hội cũng muốn nhắc
nhở chúng ta phải nhớ bến bờ chúng ta phải tới, nhắc nhở khúc quẹo ngoặt nhất
trong đời chúng ta sẽ phải đi.
- Ðó là từ giã cõi đời.
- Ðó là nhắm mắt xuôi tay.
- Ðó là sự thật: ai trong chúng ta cũng phải chết.
Ước gì chúng ta có được sự bình thản trong giờ lâm tử
như Ðức Gioan 23 . Ước gì, như ngài, chúng ta có được sự bình an trong tâm hồn
và có niềm hy vọng để tin tưởng rằng: lời Chúa Giêsu phán với người trộm lành
cũng được áp dụng cho chúng ta: "Hôm nay con sẽ được cùng Ta về Thiên
Ðàng".
Nhưng, nếu Thiên Ðàng là bến bờ, là Ðức Mến, thì cuộc
sống của chúng ta phải định hướng theo đó.
Nếu Thiên Chúa là cùng đích của giây phút cuối cùng,
thì trong những chuỗi ngày sống, chúng ta cũng phải hướng mục và xây dựng theo
tiêu chuẩn đó.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét