16/11/2016
Thứ
tư tuần 33 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm II) Kh 4, 1-11
"Thánh, Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã có, hiện có
và sẽ đến".
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi là Gioan, tôi đã thấy: kìa cửa trời mở ra và tiếng tôi đã
nghe trước kia nói cùng tôi như tiếng loa rằng: "Hãy lên đây, Ta sẽ cho
ngươi thấy điều phải xảy ra sau này". Bỗng tôi xuất thần, và kìa, một ngai
đã đặt trên trời, có Ðấng ngự trên ngai, và Ðấng ngự trên ngai rực rỡ như bích
ngọc hoặc như hồng thạch; có mống cầu vồng màu lục thạch bao bọc ngai. Chung
quanh ngai có hai mươi bốn toà, và trên đó, có hai mươi bốn trưởng lão, mặc áo
trắng tinh, đầu đội triều thiên vàng. Từ nơi ngai phát ra những tia chớp, tiếng
nói và tiếng sấm; lại có bảy cây đèn cháy trước ngai, đó là bảy Thần linh của
Thiên Chúa. Phía trước ngai coi như có biển trong ngần như pha lê.
Còn chính giữa và chung quanh ngai có bốn con vật, đàng trước
đàng sau chỗ nào cũng có mắt: Con vật thứ nhất giống như sư tử; con vật thứ hai
giống như con bò; con thứ ba có dung mạo như mặt người; con thứ tư như chim phượng
hoàng đang bay. Bốn con vật ấy con nào cũng có sáu cánh quanh mình, và trong
mình đầy những mắt, ngày đêm không ngớt tung hô:
"Thánh, Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã
có, hiện có, và sẽ đến".
Và mỗi lần bốn con vật tôn vinh, chúc tụng và cảm tạ Ðấng ngự
trên ngai, là Ðấng hằng sống muôn đời, thì hai mươi bốn trưởng lão phủ phục trước
Ðấng ngự trên ngai và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời; họ gỡ triều thiên của họ
mà đặt trước ngai và tung hô rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Chúa
đáng được vinh quang, danh dự và quyền năng, vì chính Chúa đã tạo thành vạn vật,
chính do ý Chúa mà muôn vật mới có và được tạo thành".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 150, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Thánh, thánh, thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng (Kh 4,
8b).
Xướng: 1) Hãy ngợi khen Chúa trong Thánh đài của Chúa, ngợi khen
Chúa nơi thanh không cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ
đại, ngợi khen Người bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm. - Ðáp.
2) Hãy ngợi khen Người với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với
cây đàn sắt đàn cầm. Hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người
với tiếng tơ đàn, với ống tiêu. - Ðáp.
3) Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi khen Người với
tiếng rền rĩ mã la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Tv 110, 8ab
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, mọi gới răn Chúa được lập ra cho
tới muôn đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 19 11-28
"Sao ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần
Giêrusalem, mà dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong
giây lát. Vậy Người phán rằng:
"Có người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi
trở về. Ông cho gọi mười người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng:
"Hãy làm lợi cho đến khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy
ghét ông, sai người đi theo mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua
chúng tôi". Ðược phong vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước
kia ông đã giao tiền cho, để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu.
"Người thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua
đã sinh lợi được mười nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt
lành, ngươi đã trung tín trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười
thành". Người thứ hai đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi
được năm nén". Nhà vua đáp: "Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm
thành".
"Người thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua,
tôi còn giữ trong khăn, vì tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài
không gửi, gặt cái ngài không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất
lương, ta cứ lời ngươi mà xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái
ta không gửi, gặt cái ta không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để
rồi khi ta trở về, ta có thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc
của nó mà trao cho người đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người
ấy đã có mười nén rồi". Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho
thêm, và người đó sẽ được dư dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó
đang có. Còn những kẻ nghịch cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra
đây và giết chúng trước mặt ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên
Giêrusalem.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tỉnh Thức Chờ Chúa
Cộng đoàn tín hữu Thessalonica sống trong niềm thao thức việc
Chúa sắp trở lại đến độ một số người trong họ không còn muốn dấn thân làm việc
nữa. Thái độ lệch lạc này không phù hợp với lời dạy của Chúa Giêsu là sống tỉnh
thức chờ đợi ngày Chúa trở lại trong vinh quang. Cần phải có thái độ tỉnh thức
được thể hiện bằng những việc làm tốt, chứ không phải một thái độ canh chừng thụ
động. Thánh Phaolô đã viết cho tín hữu Thessalonica: "Chúng tôi cầu xin
Thiên Chúa cho anh em được sống xứng đáng với ơn gọi, xin Ngài dùng quyền năng
mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng
tin... Còn về ngày Chúa Giêsu Kitô quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài,
tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải,
hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng
vội để cho tinh thần giao động, cũng đừng hoảng sợ. Ðừng để ai lừa dối anh em bất
cứ cách nào" (2Tx 1,11; 2,1-2)
Ðó là những lời khuyên cụ thể của thánh Phaolô cho tín hữu
Thessalonica đang mong chờ lần trở lại của Chúa Giêsu, và những lời đó diễn đạt
những lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: "Hãy làm lợi thêm những nén bạc
được giao phó, chứ đừng đem chôn dấu nó".
Dụ ngôn nén bạc mời gọi mỗi người chúng ta ý thức trách nhiệm với
tư cách là người có niềm tin. Ðức tin không là nén bạc để được cất giữ, nhưng
phải được đầu tư để phát triển, sinh lợi. "Một đức tin không có việc làm
là đức tin chết". Nếu chúng ta chỉ đóng khung cuộc sống đạo trong bốn bức
tường nhà thờ, nếu chúng ta chỉ giản lược đức tin vào những biểu dương bên
ngoài, nếu đức tin chỉ là một mớ những giáo điều phải tin, những điều răn phải
giữ, thì quả thực chúng ta đang chôn chặt đức tin như gia nhân đã chôn nén bạc
mà chủ đã trao: chúng ta có giữ đạo, nhưng chưa thực sự sống đạo.
Cuộc đầu tư nào cũng bao hàm những bất tất, rủi ro; một đức tin
sống động cũng hàm chứa nhiều hy sinh, mất mát. Nhưng chúng ta tin rằng chính
lúc chúng ta mất mát là lúc chúng ta được lợi lộc, chính lúc chúng ta quên mình
là lúc gặp lại bản thân, chính lúc chết đi là khi được vui sống. Ðó phải là bài
trường ca trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa vì hồng ân đức tin chúng ta đã
lãnh nhận. Xin Chúa ban thêm can đảm, để đức tin của chúng ta thực sự được đầu
tư trong từng giây phút của cuộc sống, để đáng được phần thưởng Chúa ban trong
ngày Ngài trở lại vinh quang.
Veritas
Asia
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ
Tư Tuần 33 TN2
Bài
đọc: Rev 4:1-11; Lk 19:11-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con
người phải tính sổ với Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét.
Mọi việc xảy ra trong cuộc đời đều có lý do của nó: người thợ mộc
làm chiếc ghế để ngồi, nhà nông trồng lúa để có gạo ăn … Cũng thế, Thiên Chúa dựng
nên và cho con người mọi sự trong cuộc đời là để con người chứng tỏ niềm tin và
tình yêu của họ dành cho Ngài. Con người sẽ phải tính sổ với Thiên Chúa về những
gì con người đã thực hiện trong cuộc sống trên dương gian; và tùy vào kết quả,
con người sẽ được trọng thưởng hay phải chịu hình phạt.
Trong Bài đọc I, Thánh Gioan được cho nhìn thấy thị kiến về Ngày
Phán Xét trên trời, khi tất cả mọi tạo vật của Thiên Chúa ra trước Ngai Thiên
Chúa để chịu phán xét bởi Ngài và 24 Kỳ-mục. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kể cho
dân chúng dụ ngôn: Nước Trời cũng giống như truyện một Nhà Vua phân phối của cải
cho đầy tớ trước khi trẩy đi phương xa. Khi ông trở về, họ sẽ phải tính sổ với
ông; và ông sẽ phân xử họ tùy vào những gì họ đã sinh lời được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Thị kiến “Ngai Thiên Chúa trên trời”
1.1/ Ngai của Thiên Chúa và 24 ngai của các Kỳ-mục:
(1) Ngai Thiên Chúa: Gioan nhìn thấy và mô tả Ngai Thiên Chúa;
nhưng chính Thiên Chúa, Gioan không thể mô tả. Ông chỉ có thể nói “Đấng ngự đó
trông giống như ngọc thạch và xích não.” Theo truyền thống Do-Thái, vinh quang
Thiên Chúa được mô tả như ánh chớp của đá quí (x/c Exo 24:10, Eze 1:26-28,
10:1).
(2) 24 ngai khác: 12 ngai tượng trưng cho 12 Bộ-tộc của Cựu-Ước,
và 12 ngai tượng trưng cho 12 Tông-đồ của Tân-Ước. Các vị ngồi trên ngai để
cùng thống trị và phân xử với Thiên Chúa.
“Bảy ngọn đuốc, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa cháy sáng trước
ngai.” 6 Thần Khí được liệt kê trong Sách Isaiah 11: thần khí khôn ngoan và
minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Thiên
Chúa. Thần khí thứ 7 là đạo đức được GH thêm vào và gọi là 7 ơn của Thánh Thần.
1.2/ Các vật xuất hiện trước Ngai Thiên Chúa:
- Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê: truyền thống
Do-Thái tin đây là bức tường ngăn cách giữa trời và đất.
- Ở giữa ngai và chung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và
đằng sau đầy những mắt: Ý tưởng nền tảng của sự mô tả này là (Eze 1:10). Bốn
Con Vật tượng trưng cho tất cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa; mỗi Con Vật
tượng trưng cho những gì huy hòang nhất của các vật tạo dựng. Đầy những mắt:
Thiên Chúa luôn hiện diện và điều khiển công trình sáng tạo của Ngài:
* Con Vật thứ nhất giống như sư tử: sự cao quí; “Sư tử của Judah
= Đấng Thiên Sai.”
* Con Vật thứ hai giống như bò tơ: tượng trưng cho sức mạnh.
* Con Vật thứ ba có mặt như mặt người: tượng trưng cho sự khôn
ngoan.
* Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay: tượng trưng cho sự
mau lẹ.
- Tất cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa đứng trước Ngai
Thiên Chúa để thờ phượng Ngài và hòan tất những gì Ngài mong muốn. Từ thời
Thánh Irenê, Bốn Con Vật tượng trưng cho 4 Thánh Ký, theo thứ tự: Marcô, Luca,
Matthêu, và Gioan.
- Cả trái đất và trên trời hợp lời và không ngớt tiếng tung hô
Thiên Chúa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Ngài xứng đáng lãnh nhận
vinh quang, danh dự và uy quyền, vì Ngài đã dựng nên muôn vật, và do ý Ngài muốn,
mọi loài liền có và được dựng nên."
2/ Phúc Âm: Ngày Chúa Phán Xét
Dụ ngôn này cũng giống như trình thuật của (Mt 25:14-30). Điểm
khác biệt giữa 2 trình thuật là Luca cho biết lý do tại sao nhà quí tộc trẩy đi
phương xa: để “lãnh nhận vương quyền;” và thái độ của dân chúng: “Nhưng đồng
bào ông ghét ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: "Chúng
tôi không muốn ông này làm vua chúng tôi.”” Sự kiện lịch sử của dụ ngôn này là
sau khi Vua Herôđê Cả chết, ông chia vương quốc thành 3 miền cho 3 con:
Antipas, miền Galilê; Philip, miền Jordan; và Archelaus, miền Judah. Quyết định
này phải được phê chuẩn bởi Hòang-đế Augustus bên Rôma. Khi Archelaus rời bỏ
Judah đi Rôma để thuyết phục Hòang-đế, người Do-Thái cũng gởi một phái đòan gồm
50 người đến Rôma để nói lên nguyện vọng: “Họ không muốn Archelaus cai trị họ.”
Hậu quả là Hòang-đế Augustus phê chuẩn Archelaus làm Vua cai trị Judah. Khán giả
của Chúa Giêsu biết rõ sự kiện lịch sử này.
Dụ ngôn muốn làm sáng tỏ 3 điều:
(1) Thiên Chúa tin tưởng con người: Ngài không ấn định mức phải
sinh lời; nhưng Ngài để con người tùy khả năng và sáng kiến để làm việc sinh lời.
Ngài cũng không ở gần bên để xem xét, chỉ trích; nhưng trẩy đi phương xa để con
người hòan tòan tự do để quyết định và làm việc.
(2) Thiên Chúa đòi con người phải tính sổ với Ngài: Tài sản được
ban để sinh lời, không phải để hoang phí. Điều quan trọng hơn là để con người
chứng tỏ niềm tin và tình yêu của mình cho Thiên Chúa: Người thứ nhất đến
trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén.” Ông bảo
người ấy: "Khá lắm, hỡi đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc
rất nhỏ, thì hãy cầm quyền cai trị mười thành.” Người thứ hai đến trình:
"Thưa ngài, nén bạc của ngài đã làm lợi được năm nén.” Ông cũng bảo người ấy:
"Anh cũng vậy, anh hãy cai trị năm thành.”
Người thứ ba đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đây,
tôi đã bọc khăn giữ kỹ. Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái
không gửi, gặt cái không gieo.” Ông nói: "Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng
anh mà xử anh. Anh đã biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái
không gieo. Thế sao anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến,
tôi mới rút ra được cả vốn lẫn lời chứ!” Rồi ông bảo những người đứng đó:
"Lấy lại nén bạc nó giữ mà đưa cho người đã có mười nén.” Họ thưa ông:
"Thưa ngài, anh ấy có mười nén rồi!” "Tôi nói cho các anh hay: phàm
ai đã có, thì sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ
bị lấy đi.”
(3) Phần thưởng và hình phạt: Hậu quả thu được chứng tỏ khả năng
của mỗi người với Thiên Chúa. Nếu ai chứng tỏ mình xứng đáng với niềm tin của
Thiên Chúa như người thứ nhất và thứ hai, Ngài sẽ tin tưởng và trao cho những
trách nhiệm nặng nề hơn; vì Ngài biết họ có thể hòan thành trách nhiệm. Còn ai
không chứng tỏ mình xứng đáng với niềm tin của Thiên Chúa, lại còn tìm cách biện
minh cho sự lười biếng của mình bằng cách đổ tội cho Thiên Chúa như người thứ
ba, làm sao Thiên Chúa có thể tin tưởng mà trao cho sứ vụ khác? Hậu quả là Ngài
sẽ lấy lại hết tất cả những gì anh có mà trao cho những người biết sinh lợi cho
Ngài. Kinh nghiệm cuộc sống là một bằng chứng cho lời Chúa nói: Nếu con người
không chịu chăm chỉ thực hành những tài năng đã có, chúng sẽ dần dần mất đi;
nhưng nếu con người biết “văn ôn võ luyện,” tài năng càng ngày càng phát triển
và đem lại nhiều lợi ích cho con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng ta cần biết lý do tại sao Thiên Chúa cho chúng ta sống
trên đời này: là để chúng ta chứng tỏ niềm tin và tình yêu của chúng ta dành
cho Ngài qua những gì chúng ta làm cho mình và cho tha nhân. Chắc chắn chúng ta
sẽ phải tính sổ với Ngài trong Ngày Phán Xét.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
16/11/16 THỨ TƯ TUẦN 33
TN
Th. Ma-ga-ri-ta Xcốt-len
Lc 19,11-28
Th. Ma-ga-ri-ta Xcốt-len
Lc 19,11-28
Suy niệm: Nhà nghiên cứu lịch sử Võ Hương An dựng lại
tấn bi kịch về cuộc tranh giành vương quyền trong lịch sử Việt Nam thời cận đại
với những vụ trả thù tàn bạo. uoơHơHĐể đáp trả hành vi vua Quang Trung san bằng
phần mộ tổ tiên nhà Nguyễn, Nguyễn Phúc Ánh sau khi lên ngôi vua lấy hiệu là
Gia Long đã cho quật mộ anh em nhà Tây Sơn và truyền “phanh xác tan xương, để trả
thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân” (Thực Lục I, q. XVIII). Với bút pháp “truyện
trong truyện,” thánh Lu-ca đặt dụ ngôn các nén bạc lồng trong câu chuyện về
người quý tộc “trẩy
đi phương xa lãnh nhận vương quyền.” Trong bối cảnh Chúa Giê-su đang hành trình lên
Giê-ru-sa-lem, dụ
ngôn muốn nhấn mạnh rằng Nước Thiên Chúa khác vương quốc trần gian; vương quyền
của Ngài không xây dựng bởi gươm giáo mà bởi tình yêu; và nếu có máu đổ ra thì
không phải là máu trả thù rửa hận mà là máu Chúa đổ ra để cứu độ muôn người
khỏi tội lỗi.
Mời Bạn: Những
ai đón nhận vương quyền của Chúa Ki-tô thì tuân hành luật pháp của Nước Chúa,
đó là Hiến Chương Nước Trời, là Tám Mối Phúc Thật, đồng thời tham gia vào
chương trình cứu độ bằng thập giá của Ngài. Bạn sẽ thật hạnh phúc vì lúc đó “Nước Thiên Chúa là của bạn” (Lc 6,20).
Sống Lời Chúa: Bạn
chọn một trong Tám Mối Phúc Thật làm châm ngôn sống và nỗ lực thực hành theo
châm ngôn đó trong ngày sống của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho Danh Chúa cả sáng, Nước Chúa hiển trị, Ý Chúa
được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Amen.
Làm ăn sinh lợi
Ra khỏi thái độ rụt rè, sợ hãi, để dám nghĩ, dám
làm việc lớn cho Chúa, đó mới là thái độ đúng đắn của người Kitô hữu có trách
nhiệm.
Suy niệm:
Khi Đức Giêsu đến gần
Giêrusalem,
nhiều người nghĩ rằng
Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện rồi.
Họ cho rằng khi Ngài tiến
vào thành thánh lẫm liệt như một vị vua,
Nước ấy sẽ bừng tỏa trọn
vẹn trên đoàn dân của Thiên Chúa (c. 11).
Thật ra Nước Thiên Chúa
không đến nhanh như họ nghĩ.
Đức Giêsu còn phải chịu
đau khổ, chết, rồi được phục sinh.
Sau đó Giáo Hội còn phải
chờ một thời gian dài
trước khi Nước Thiên Chúa
đến cách viên mãn qua việc Ngài trở lại.
Thời gian của Giáo Hội là
thời gian đợi chờ,
thời gian lo làm ăn sinh
lợi với những gì Chúa tặng ban.
Đó chính là ý nghĩa của
dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay.
Một nhà quý tộc kia đi xa
để lãnh nhận vương quyền.
Trước khi đi ông gọi mười
người đầy tớ lại,
và trao cho họ mỗi người
một số tiền không lớn lắm, là một đồng mina.
Ông ra lệnh: “Hãy lo làm
ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến” (c. 13).
Khi nhà quý tộc trở về
trong tư cách là vua,
ông truyền gọi các đầy tớ
lại để họ báo cáo về công việc làm ăn.
Hai người đầy tớ đầu tiên
đã sinh lợi không ít.
Một người được lời thêm
mười đồng, người kia được thêm năm đồng.
Cả hai được vua ban
thưởng rất trọng hậu, cho cai trị các thành phố.
Còn người thứ ba trả lại
cho nhà vua đồng mina anh đã nhận.
“Thưa Ngài, đồng mina của
Ngài đây, tôi đã giữ kỹ nó trong khăn.”
Tất cả tội của người đầy
tớ này nằm ở thái độ giữ kỹ.
Giữ kỹ thì chẳng mất gì,
vẫn còn nguyên vẹn.
Nhưng giữ kỹ lại không
thể làm cho đồng tiền sinh lời.
Hơn nữa, giữ kỹ là không
vâng lời ông chủ trước khi đi: “Hãy lo làm ăn!”
Người đầy tớ sợ ông chủ,
vì ông là người nghiêm khắc (c. 21).
Chính vì sợ làm ăn thua
lỗ, sợ bị ông chủ trừng phạt
mà anh chọn thái độ chắc
ăn là giữ kỹ đồng vốn trong khăn.
Thái độ này không được
ông chủ, nay trở thành nhà vua, chấp nhận.
“Tại sao anh không gửi
tiền của tôi vào ngân hàng,
để khi trở về, tôi mới
rút được cả vốn lẫn lời chứ ?” (c. 23).
Ý của chủ là đồng tiền
cần phải được đầu tư để sinh lời.
Nỗi sợ đã làm cho anh đầy
tớ mất đi sự liều lĩnh cần thiết.
Bài Tin Mừng nhắc các
Kitô hữu một điều cần.
Giữ kỹ, giữ nguyên những
gì Chúa ban vẫn chỉ là một thái độ tiêu cực.
Kitô hữu là người tích
cực sử dụng đồng vốn nhận được để sinh lời.
Ra khỏi thái độ rụt rè,
sợ hãi, để dám nghĩ, dám làm việc lớn cho Chúa,
đó mới là thái độ đúng
đắn của người Kitô hữu có trách nhiệm.
Nếu không liều lĩnh trong
những dự tính và hành động,
nhiều nén bạc Chúa ban sẽ
bị bỏ quên mãi trong khăn.
Ông chủ trong dụ ngôn
thật ra không phải là người ham lời.
Ông chỉ muốn các đầy tớ
trung tín trong việc rất nhỏ (c. 17).
Nhờ dấn thân làm việc cho
Nước Chúa mà người Kitô hữu được lớn lên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt
khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo
Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan
hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại
hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả
chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập
giá,
xin cho con dám liều theo
Chúa
mà không tính toán thiệt
hơn,
anh hùng vượt trên mọi
nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu
đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho
sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim
con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm
vui bất diệt
của người một lòng theo
Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy
Nâng Tâm Hồn Lên
16 THÁNG MƯỜI MỘT
Bí Tích Hôn Nhân Phản Ảnh Tình Yêu Của Đức Kitô
Sự hiện diện của Chúa Giêsu tại tiệc cưới Cana – nếu chúng ta muốn
nhận hiểu một cách đầy đủ – cũng nhằm làm một động thái nhắc chúng ta nghĩ đến
những gì thuộc thượng giới (Cl 3,2). Ở đây, Chúa muốn nhắc chúng ta về ý nghĩa
thiêng liêng sâu xa của tình yêu vợ chồng. Tình yêu này là một dấu hiệu và một
sự thông dự trong chính tình yêu vốn tồn tại giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Tình
yêu ấy không thể chịu sự chi phối của những thay đổi thất thường và bất định của
cuộc sống. Không, nó có thể và phải là một sự dấn thân vĩnh viễn không thể phân
ly và không thể phá hủy. Như vậy, tình yêu vợ chồng mở ra tới những viễn tượng
vô hạn của Vương Quốc Thiên Chúa và của cuộc sống bất diệt.
Mẫu thức tối thượng và siêu việt này của tình yêu vợ chồng được
minh họa cho chúng ta trong Thư Eâphêsô. Trong Thư này, chúng ta khám phá nền tảng
cho việc chọn lựa hôn nhân để chúng ta thực sự hạnh phúc và sống theo thánh ý
Thiên Chúa. Sự dấn thân và chọn lựa đời sống hôn nhân Kitô giáo nâng đỡ và đào
sâu tình yêu của chúng ta trong những lúc gặp khó khăn thử thách, giúp làm cho
tình yêu của chúng ta tinh tuyền hơn và sinh hoa trái nhiều hơn.
Chúng ta cần đánh giá tình cảm của mình trong ánh sáng của nhận thức
nói trên về tình yêu vợ chồng. Nhờ đó chúng ta có thể đảm bảo rằng một tình yêu
đích thực và một cuộc hôn nhân Kitô giáo đích thực sẽ được bộc lộ rõ rệt trong
đời sống vợ chồng. Hôn nhân quả là một bí tích. Chúng ta bắt đầu thoáng thấy
các lý tưởng của tình yêu và khả năng sinh hoa trái mà mỗi người vợ người chồng
Kitôhữu đều được mời gọi đạt đến với sự hỗ trợ của ân sủng.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên
tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Lời
Chúa Trong Gia Đình
Ngày 16 – 11
Thánh nữ Margarita Scorland và Thánh Gertruđê, trinh nữ
Kh 4,1-11; Lc 19,11-28.
Lời suy niệm: “Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì
sẽ được cho thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.”
Mỗi người sống trên trần gian này đều là do ơn ban của Chúa, cần
phải biét dùng ơn ban đó mà làm cho đời sống của mình ngày càng phong phú trước
mặt Chúa và người đời. Được như vậy thì ơn Chúa sẽ tiếp tục tuôn đỏ trên chúng
ta mãi mãi, néu không biết dùng ơn ban của Chúa, thì Chúa sẽ lấy lại mà trao
ban cho những người biét sử dụng.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong gia đình chúng con luôn
nhận ra ơn ban của Chúa để nuôi sống chúng con ngày càng trưởng thành trong đức
tin và thực hành đức ái.
Mạnh Phương
Gương
Thánh Nhân
Ngày 16-11
Thánh GERTRUĐÊ
Đồng Trinh (1256 - 1301)
Thánh GERTRUDÊ sinh ra vào ngày lễ Hiển linh năm 1256. Người ta
không biết gì về cha mẹ Ngài, nhưng chắc hắn cha Ngài đã có lòng đạo đức sâu xa
và đã dâng con gái 5 tuổi của mình làm tu sĩ tu viện Helfia theo luật dòng
thánh Benedictô. Chẳng may Ngài lại trùng tên với vi tu viện trưởng. Ngài lớn lên
xa mọi thú vui thế gian và sớm chứng kiến hoạt động trí thức lớn mạnh.
Trong bầu khí chiến tranh, nhà dòng trốn về Rossdorf, rồi vì thiếu
nước lại trở về Helfta. Thánh Mechtilde chị của tu viện trưởng Gertrudê đứng
trường. Người nữ tu trẻ GERTRUDÊ say mê quên bỏ đời sống cầu nguyện. Việc trau
dồi văn chương nghệ thuật thu hút Ngài đến nỗi Ngài nói rằng vào thời đó
"Ngài lo lắng cho tâm hồn chỉ bằng lo lắng cho đôi chân của mình
thôi".
Vào lúc 25 tuổi, trong một thị kiến, Chúa Kitô đã trách móc Ngài
là đã bỏ Chúa mà lo học hành. Thế là đảo lộn tất cả: "Mọi bồng bột tuổi trẻ
đối với con bắt đầu xem ra lạt lẽo vô vị. Lạy Chúa, Chúa là chân lý trong suốt
hơn mọi ánh sáng, nhưng sâu thẳm hơn mọi bí mật. Chúa đã quyết phá tan những
bóng đêm đậm đặc của con". Và thị kiến kết thúc bằng một cuộc trở lại.
Ngài đã kể lại và nói: "Trong một niềm vui của tinh thần mới, tôi bắt đầu
tiến tới".
Gertrudê chỉ còn muốn học và suy gẫm thánh kinh, các giáo phụ và
các nhà thần học. Ngài kiềm chế tính hiếu động bằng việc hãm mình dữ dằn và sống
trong sự kết hiệp liên lỉ với Chúa. Đáp lại việc hiến thân hoàn toàn ấy, Ngài
được nhiều ơn thần bí phi thường. Ngài được mạc khải nhiều lần trong khi hát
kinh nhật tụng viết lại những mạc khải này trong cuộc khảo luận.
Cùng với thánh nữ Mechtilde, Ngài là người đầu tiên tỏ bày lòng
tôn sùng Trái Tim Chúa. Lúc đó Gertrudê 35 tuổi. Sức khỏe Ngài không cho phép
Ngài giữ những nhiệm vụ quan trọng nữa, Ngài chỉ còn là phó ca trưởng. Nghi ngờ
nhiều, Ngài chỉ thấy sự thấp kém và hư không của mình mà chạy đến với ý kiến của
thánh Mechtilde là ca trưởng. Chúa đã tỏ cho thánh Mechtilde: "Cuộc đời của
Gertrude là một thánh ca liên tục ca ngợi vinh quang Cha. Trên trần gian này,
sau bí tích Thánh Thể, Cha chỉ cư ngụ cách đặc biệt trong lòng Gertrudê".
Thánh nhân được ơn những dấu đinh vô hình và một vết thương
trong lòng. Các sách của Ngài chỉ được phổ biến 200 năm sau, cho thấy đời sống
nội tâm nồng nhiệt của Ngài, Ngài liên kết say mê với phụng vụ cố gắng đồng nhất
đời mình với những mầu nhiệm mà chu kỳ phụng vụ nhắc lại. Ngài muốn chịu khổ vì
phần rỗi anh em và tìm những lời nồng cháy để cải hoá các tội nhân và đổ ra nhiều
nước mắt vì những đau khổ gây nên cho Chúa.
Năm tháng cuối đời, thánh nữ nằm bệnh bất động với những đau đớn
dữ dằn. Ngài không còn nói được nữa, nhưng vẫn giữ được sự bình thản. Ngài biết
giờ vinh quang sắp tới. Ngày 17 tháng 10 năm 1031 hay là 1032 thánh nữ từ trần.
Tương truyền rằng: lúc chết Ngài thấy Chúa Giêsu và đức trinh nữ với đoàn người
trên trời đến dẫn Ngài vào thiên đàng trong khi quỉ dữ khóc ròng.
Để kết thúc, nhà chép sử ghi lại mạc khải của một nữ tu thấy
linh hồn thánh Gertrudê bay thẳng như một cánh chim vào lòng Chúa Giêsu đang mở
rộng đón tiếp Ngài vào tình yêu vô cùng của Ngài.
Không được chính thức tôn phong làm thánh, nhưng lễ kính Ngài có
trong lịch chung theo nghi thức Roma.
++++++++++++++++++++
Ngày 16-11
Thánh MAGARITA SCOTIA
(1045 - 1093)
Thánh Magarita sinh ra khoảng năm 1045. Cha Ngài là hoàng tử
Edward người Anh, bị lưu đày và cưới một nữ công chúa người Đức, có lẽ là cháu
của hoàng hậu vua thánh Stephanô nước Hungaria. Magarita lớn lên trong triều
đình Hungari và đã gặp được sự công chính và thánh thiện để làm nên dấu thánh
thiện của chính mình. Khoảng 12 tuổi trở lại nước Anh, thánh nữ sống trong triều
đình của vua thánh Edward.
Trong cuộc chinh phục Norman năm 1066, Magarita cùng với mẹ và
anh chị em Ngài bị lưu đày một lần nưã. Họ trốn sang Scotia, dầu lúc ấy đang có
chiến tranh giữa hai nước, vua Scotia là Malcola Cannore cũng đã nhân ái tiếp
nhận những kẻ lưu đày.
Malcolm Cannore mà tên gọi có nghĩa là "nhà cai trị vĩ đại"
là một vị vua uy quyền có khả năng. Ông yêu Magarita, còn Magarita thì có ý định
đi tu dòng. Nhưng ông đã khuyên Magarita lập gia đình với ông. Cuộc sống chung
của họ được mô tả với vài chi tiết trong một tập hồi ký có lẽ do cha giải tội của
Ngài là Turgot, sau là giám mục viết. Đây là một câu chuyện thích thú về sự gặp
gỡ giữa một người đàn bà trẻ khôn ngoan và thánh thiện với người chồng hung
hăng ít được giáo dục nhưng hứơng chiều về sự thánh thiện của vợ mình.
Cuộc hoà hợp nhân duyên này mang lại cho họ sáu người con trai
và hai người con gái. Hoàng hậu chỉ chấp nhận cho những gương lành tới gần các
tâm hồn trẻ thơ này và không một người xấu nào dám tới triều đình. Những hoàng
tử công chúa này lớn lên và tham gia vào các công cuộc của người mẹ thánh thiện
và của người cha đã trở thành vị vua gương mẫu.
Thánh Magarita dùng nhiều thì giờ và tiền của cho các công cuộc
bác ái, chính Ngài hầu hạ người nghèo khó, già cả, côi cút và yếu đau. Ngài
khám phá ra mọi hình thức khổ cực, giúp đỡ các gia đình phá sản phục hồi, chuộc
lại các tù nhân, xây dựng nhà thương, nhà vãng lai cho du khách. Người lạ biết
rằng: họ có thể luôn tìm được chỗ trú ngụ nơi Ngài khi ra khỏi nhà. Cả đoàn người
bất hạnh vây quanh Ngài và đây mới là triều đình thật của Ngài. Khi trở về nhà,
Ngài chỉ muốn ngồi vào bàn ăn sau khi đã hầu bàn cho 300 người nghèo ngồi đầy một
phòng ăn lớn.
Scotia đã được cải hoá từ lâu, nhưng sự man rợ còn tồn tại ở đó
trở thành mẹ của một vương quốc, thánh Magarita biến nó thành một gia đình rộng
lớn và dẫn tới Thiên Chúa, Ngài trao cho những quan liêm chính tái lập trật tự,
sai các nhà giảng thuyết đi loan báo Tin Mừng để Chúa Giêsu được yêu mến khắp
nơi. Ngài giải quyết vấn đề Giáo hội ở Scotia thời Ngài gặp phải. Bị cắt đứt
liên lạc do cuộc xâm lăng của người ngoại, Giáo hội Celt đã khác biệt nhiều điểm
với Roma và chính thánh Magarita đã hoà giải những yếu tố tranh chấp và đưa
Giáo hội Celt ở Scotia về qui phục. Ngài làm việc này mà vẫn tránh được sự phân
ly đau đớn.
Cũng thế những cố gắng đưa văn hóa Âu Châu vào Scotia của Ngài rất
thành công. Trong khi bên Anh, cuộc chinh phục Norman đã để lại một di sản cay
đắng thì ở Scotia dưới ảnh hưởng của Magarita và các con của Ngài, việc lan
tràn văn hóa Trung Cổ đã mang lại cho Scotia một thời đại hoàng kim kéo dài cả 2000
năm sau khi thánh nữ qua đời.
Thánh Magarita qua đời năm 1093 tại lâu đài Ediburgh như rất nhiều
vị thánh, vào lúc mà mọi công trình xem ra tiêu tan hết. Vua nước Anh xâm chiếm
một pháo đài. Malcoln và hai người con cả đi tái chiếm. Thánh nữ cảm thấy âu
lo. Ngày kia Edgar con Ngài trở về, thánh nữ hiểu ngay thực tế khủng khiếp là
vua và người con kia đã chết. Đau đớn, thánh nữ chỉ biết nói: - Lạy Chúa toàn
năng, Chúa đã gửi cho con sự đau đớn lớn lao này để thanh tẩy tâm hồn con, con
xin chúc tung Chúa .
Ngài không than trách, đức tin và lòng dũng cảm không rung chuyển,
nhưng sáu tháng sau Ngài đã qua đời.
Ba người con của Ngài tiếp tục cai trị trên ngai vàng, công cuộc
của người mẹ được tăng cường và đi tới hoàn thành. Thánh Magarita được phong
thánh năm 1250.
(daminhvn.net)
16 Tháng Mười Một
Vui
Ðể Ðợi Chết
Theo giai thoại của người Trung Hoa thì ngày xưa có một người
tên là Vinh Khải Kỳ tỏ ra là một bậc tiên ông đạo cốt, mình mặc áo lông cừu,
lưng thắt dây, ngày ngày giao du ở sơn thủy, vui thú cầm ca chậm rãi rảo bước,
tay đánh đàn miệng ca hát không ngừng. Một hôm, đức Khổng Tử đi dạo gặp Vinh Khải
Kỳ, ngài mới hỏi ông: "Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ ca hát như
thế?".
Khải Kỳ thưa: "Trời sanh muôn vật, loài người cao quý nhất.
Ta đã được làm người, đó là điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què,
có người non yếu... mà ta thì khỏe mạnh sống lâu, thế là hai điều đáng vui. Còn
cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là hết sự đời. Ta nay biết vui với
cảnh đời để đợi cái chết thì còn gì lo buồn nữa?".
Lạc quan, vui sống là đức tính cơ bản nhất của người Kitô. Người
Kitô nhận ra phẩm giá cao cả của mình và tiếp nhận mọi sự xảy đến như một hồng
ân của Chúa. Cây cỏ đồng nội, muôn thú trên rừng không nhọc công tích trữ mà
còn được Chúa che chở nuôi nấng, huống chi con người là hình ảnh của Người... Mỗi
ngày có niềm vui nỗi khổ của nó. Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống từng phút
giây như một ân ban của Chúa, đó là bí quyết để giúp ta được hạnh phúc ở đời
này.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét