30/04/2017
Chúa Nhật 3 PHỤC SINH năm A
(phần I)
Bài Ðọc I: Cv 2, 14.
22-28
"Không thể nào
để cho Người bị cầm giữ trong cõi chết".
Trích sách Tông đồ
Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần,
Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: "Hỡi các người
Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng nghe lời
tôi! Hỡi những người Israel, hãy nghe những lời này: Ðức Giêsu Nadarét là người
đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ
diệu và những phép lạ mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh em, như
chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Người đã bị nộp,
và anh em đã dùng tay những kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Sau khi bẻ gãy xiềng
xích tử thần, Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết mà
cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó. Vì
chưng Ðavít đã nói về Người rằng: 'Tôi hằng chiêm ngưỡng Chúa trước mặt tôi, vì
Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Vì thế, lòng tôi hân hoan, miệng lưỡi
tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ trong niềm cậy trông: vì Chúa không để linh hồn
tôi trong cõi chết, và không để Ðấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho
tôi biết con đường sự sống và cho tôi đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh
Chúa'".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và
5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh (c.
11a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Xin bảo toàn
con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: "Ngài là
chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận
mạng của con". - Ðáp.
2) Con chúc tụng Chúa
vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm
khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ
không nao núng. - Ðáp.
3) Bởi thế lòng con
vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an
toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân
của Ngài thấy sự hư nát. - Ðáp.
4) Chúa sẽ chỉ cho con
biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc
bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! - Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 1,
17-21
"Anh em được cứu
độ bằng Máu châu báu của Ðức Kitô, Con Chiên tinh tuyền".
Trích thư thứ nhất của
Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, nếu
anh em gọi Người là Cha, Ðấng không thiên vị ai khi xét đoán mỗi người theo việc
họ làm, thì anh em hãy sống trong sự kính sợ suốt thời anh em còn lưu trên đất
khách. Anh em biết rằng không phải bằng vàng bạc hay hư nát mà anh em đã được cứu
chuộc khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền, nhưng bằng máu châu báu của Ðức Kitô,
Con Chiên tinh tuyền, không tì ố. Người đã được tiền định trước khi tác thành
vũ trụ và được tỏ bày trong thời sau hết vì anh em. Nhờ Người, anh em tin vào
Thiên Chúa, Ðấng làm cho Người sống lại từ cõi chết, và ban vinh quang cho Người
để anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng nơi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: x. Lc 24, 32
Alleluia, alleluia! -
Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh; xin làm cho
tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 24, 13-35
"Hai ông đã nhận
ra Người lúc bẻ bánh".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Cùng ngày thứ nhất trong
tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi
dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói
truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ,
nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có
truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là
Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà
không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi:
"Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê
thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ,
trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của
chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng
tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến
ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng
tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy
thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra
thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ
không gặp".
Bấy giờ Người bảo họ:
"Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng
phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Ðoạn Người bắt đầu
từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh
Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa
hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi,
vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Ðang khi cùng các ông
ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ
sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng
lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải
thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về
Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai
ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng
thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh
như thế nào.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Loan báo Nước Trời và đổi mới con người
Như Ðức Kitô đã dùng
Thánh Kinh để giải thích cho hai môn đệ tin vào mầu nhiệm Người sống lại mà hồi
sinh, Phụng vụ hôm nay cũng muốn dùng các bài chúng ta vừa nghe đọc để khai
sáng tâm trí ta hiểu hơn về việc Chúa phục sinh hầu được tinh thần mới và nếp sống
mới.
A. Bài Sách Công Vụ
Trước hết chúng ta hãy
để tai nghe lời thánh Phêrô. Nói đúng hơn chúng ta hãy khảo sát bài đọc I, vì
diễn từ chúng ta vừa nghe là của tác giả sách Công vụ hơn là của chính thánh
Phêrô.
Hôm ấy là ngày lễ Ngũ
Tuần. Các môn đệ vừa được đầy Thánh Thần. Thiên hạ chen nhau tuốn đến nhà các
ngài vì nghe tiếng động từ trời vang xuống nơi đó. Phêrô đứng lên cùng với 11
Tông đồ và cất tiếng nói với dân. Ông phải giải thích cho mọi người hiểu: Chính
Ðức Kitô phục sinh vừa gửi Thần trí của Người xuống trên các môn đệ. Ðiều quan
trọng là phải làm chứng việc Người đã sống lại vì ơn để Thánh Thần xuống chỉ là
điều tất yếu phải theo sau. Việc làm đó thật tế nhị và cũng khó; vì Phêrô phải
nói với những người mà đa số cũng đã nghe đầu mục Dothái xúi giục đòi đóng đanh
Ðức Yêsu. Nhưng tác giả bản văn đã rất tài tình. Ông vắn tắt phác lại hình ảnh
Ðức Yêsu, một Ðấng đã được Thiên Chúa chứng nhận bằng bao việc kỳ diệu, tức là
như một tiên tri, nói đúng hơn như một Môsê; "Thế mà anh em đã giết Người",
lẽ ra ông chỉ cần nói như thế. Nhưng không! Ông đã khéo léo chữa lỗi cho họ.
Chính theo ý định đã vạch sẵn và sự dự tri của Thiên Chúa mà Người đã bị nộp, rồi
họ mới dùng tay kẻ vô đạo mà giết Người. Nhưng đây mới là điều quan trọng:
Thiên Chúa đã phục sinh Người từ kẻ chết để ứng nghiệm lời tiên tri Ðavít. Quả
thật, Thánh vịnh 16 có câu: Người không để Ðấng Thánh của Người phải thấy mục
nát.
Rõ ràng Phêrô không nại
đến sự kiện mồ trống. Ông cũng không nói đến những lần Chúa sống lại hiện ra.
Có thể những chuyện đó đã được đồn đãi nhiều nhưng không gây được sự nhất trí.
Ðó chỉ là những dấu hiệu cần được giải thích. Cũng như việc Thánh Thần hiện xuống
hôm nay cũng chỉ là một dấu hiệu. Ðối với Phêrô chẳng lời giải thích nào đáng
tin như lời Thánh Kinh. Ông dẫn giải Thánh Kinh để soi sáng hiện tượng, để kêu
gọi lòng tin. Và hôm đó ông đã thu phục được "lối ba ngàn linh hồn".
Chúng ta tưởng chính
thánh Phêrô đã sáng nghĩ ra đường lối ấy sao? Ðó chỉ là phương pháp Ðức Yêsu đã
làm khi còn tại thế và lúc đã sống lại. Cuộc đàm đạo của Người với hai môn đệ
trên đường Emmau sẽ làm chứng điều đó.
B. Bài Tin Mừng Luca
Tác giả sách Công vụ
và sách Tin Mừng Luca chỉ là một, nên bài Tin Mừng hôm nay có nhiều nét giống với
bài Công vụ mà chúng ta vừa khảo sát.
Câu chuyện được kể bắt
đầu xảy ra vào buổi sáng ngày Chúa Nhật Phục sinh và kết thúc vào buổi tối. Hai
môn đệ chứ không phải hai Tông đồ đi đường đến Emmau. Họ trở về nhà sau khi đã
chứng kiến những sự việc xảy ra tuần rồi ở Yêrusalem? Luca kể họ đang nói với
nhau những chuyện đó và buồn rầu vì thất vọng. Họ đã tưởng Ðức Yêsu sẽ cứu chuộc
Israel; nhưng này Người đã bị giết được ba ngày rồi. Sáng nay cũng có mấy bà ra
thăm mộ đấy. Họ thấy trống trơn. Các thiên thần nói với họ rằng Người đã sống lại,
nhưng mấy môn đệ ra coi thì chẳng thấy gì cả.
Người khách lạ vừa đến
nói ngay với họ: Hỡi những kẻ ngu độn và trí lòng chậm tin vào mọi điều các
tiên tri đã nói. Ông ta là ai mà dám nói thẳng như thế? Lời kia không giống lời
Ðức Yêsu nói hôm nào khi môn đệ ở trên thuyền đánh thức Người dậy lúc sóng nước
làm thuyền sắp chìm sao? Hai môn đệ kia chưa nhận ra Người. Nhưng Người dẫn giải
Thánh Kinh đến đâu, lòng họ nóng lên đến đó và cuối cùng họ đã nhận ra Người
khi bẻ bánh.
Câu kết của câu chuyện
rất quan trọng. Hai môn đệ trở về Yêrusalem tức khắc. Họ chưa kịp kể chuyện của
mình thì các Tông đồ đã cho họ biết: "Thực thế, Chúa đã sống lại và đã hiện
ra cho Simon". Người ta có thể đoán sau đó câu chuyện họ kể không còn hào
hứng nhiều nữa vì không còn hi hữu và mới mẻ gì.
Chúng ta tiếc vì Luca
đã kết thúc câu chuyện như vậy sao? Nhưng dường như đó là chủ ý cuối cùng với
câu kết lại làm cho người nghe hết hào hứng. Là vì đối với ông, việc Chúa hiện
ra với hai môn đệ, dù có thật và phấn khởi, vẫn chỉ là phụ thuộc. Ðức tin của
chúng ta về việc Chúa sống lại chỉ căn cứ vào nhân chứng của các Tông đồ mà đứng
đầu là Phêrô. Câu "Chúa đã sống lại và hiện ra với Phêrô", tuy vắn tắt,
khô khan, nhưng chính là đá tảng vững vàng xây lên Hội Thánh. Mọi câu chuyện
khác về việc ấy chỉ là trang trí.
Và quả thật Luca đã có
ý trang hoàng câu chuyện của ông hơn là ghi lại trung thực một sự kiện y như đã
xảy ra. Rõ ràng ông đã có ý muốn cho có nhiều chuyện xảy ra trong ngày thứ nhất
trong tuần để tô điểm ngày ấy nên ngày Phục sinh. Ông là "y sĩ" ưa
nói đến lòng thương xót của Chúa, nên câu chuyện ông kể có vẻ tâm tình và khiến
lòng bốc cháy. Ông chỉ là một môn đệ và mất ý thức về vai trò của các Tông đồ,
nên muốn cho các chuyện của môn đồ đứng hàng thứ sánh với sự nghiệp của các
Tông đồ. Nhất là ông muốn viết một tác phẩm sau khi đã sưu tra và xếp đặt cho
có đầu có ngọn; do đấy câu chuyện của ông có nhiều nét chắc chắn , tức là diễn
tả nhiều điểm đức tin vững vàng: nào là hình ảnh Ðức Yêsu được phác họa như một
tiên tri hứa hẹn nhiều hy vọng, nào là sự kiện mồ trống với lời thuật của các
phụ nữ được trình bày một cách khách quan và chưa có lời giải thích. Nhất là
Luca muốn nhấn mạnh: các môn đệ chậm tin lời tiên tri, chẳng hiểu gì về mầu nhiệm
Thập giá và phải đọc lại Lời Thánh Kinh để thấy ánh sáng cứu độ. Khi nhắc lại lời
Chúa nói ở trên biển bão táp. Luca ngầm ví việc Người chịu chết như khi Người
ngủ trên thuyền; môn đồ hốt hoảng, nhưng tỉnh dậy Người đưa họ vào bến bình an.
Cũng vậy, việc Người sống lại kéo họ ra khỏi vực sâu sự chết. Họ phải nhờ Thánh
Kinh để nhận ra mầu nhiệm này và đức tin của họ sẽ đạt tới cao điểm trong việc
bẻ bánh.
Ở đây ta cũng nên hỏi:
có thật Ðức Kitô đã làm lễ nghi bẻ bánh với hai môn đệ không? Suy nghĩ kỹ, ta
nên kết luận: có lẽ không, vì Người đang hiện diện ở đó, không cần đến bí tích
làm gì, bởi lẽ bí tích là để thay thế hiện diện. Ðó có thể chỉ là bữa ăn thường,
nhưng Luca đã hữu ý dùng những từ ngữ của việc bẻ bánh để mô tả (như khi kể việc
Chúa làm phép lạ hóa bánh ra nhiều: 9,16), để đề ra một ẩn ý thần học: niềm tin
vào việc Chúa sống lại đạt tới cao điểm trong việc bẻ bánh, tức là nơi bí tích
Thánh Thể và bữa ăn này thực hiện lời hứa sẽ cho môn đệ vào dự bàn tiệc Nước Trời
khi Người lên nơi vinh hiển.
Như vậy, câu chuyện
hai môn đệ trên đường Emmau hôm nay không những hấp dẫn, nhưng nhất là sâu sắc.
Nó diễn tả quan niệm của Luca về việc Chúa sống lại. Có những sự kiện dẫn tới
niềm tin ấy như sự kiện mồ trống và việc Chúa hiện ra. Nhưng đức tin thật sự của
ta phải căn cứ vào chứng tá của các Tông đồ mà đứng đầu là Phêrô và vào sự tìm
hiểu Kinh Thánh. Ðức tin ấy đạt tới mức độ đầy đủ trong việc cử hành bàn tiệc
Thánh Thể loan báo Nước Trời và đổi mới con người, làm cho họ mến Chúa nồng nàn
và nhiệt thành truyền giáo.
Ðó cũng là những tư tưởng
mà bài sách Công vụ đã thoáng thấy. Nói đúng hơn vì viết sau bài Tin Mừng, diễn
từ của Phêrô là một bản văn súc tích, gồm đủ các yếu tố mà Luca đã trình bày
trong bài Tin Mừng.
Phụng vụ hôm nay đọc lại
cho chúng ta nghe những lời Kinh Thánh ấy để làm gì?
C. Bài Thư Phêrô
Tất nhiên đã có nhiều
điều chúng ta có thể đem ra ứng dụng và thi hành sau khi hiểu biết các bài đọc
trên. Chúng ta đã hiểu rõ hơn về niềm tin của chúng ta đối với việc Chúa sống lại.
Và muốn hun đúc niềm tin ấy để đổi mới con người và cuộc đời, chúng ta cũng phải
bắt chước hai môn đệ, để Thần Trí Chúa phục sinh hướng dẫn mình đọc lại Kinh
Thánh và tham dự các buổi phụng vụ Thánh Thể.
Nhưng để giúp chúng ta
có một thái độ cụ thể, Phụng vụ đã trích một đoạn thư Phêrô. Tác giả không nói
gì mới lạ, chỉ xinh chúng ta đánh giá đúng ân sủng đã nhận được. Nhờ Ðức Kitô
chúng ta đã tin vào Thiên Chúa (c.21), xưng tụng Người là Cha (c.17), nhìn nhận
Người là Thẩm phán chí công, thì hãy sống trong lòng kính sợ Người. Lý do là vì
niềm tin của chúng ta thật là đắt giá. Nó đã được trả bằng Máu châu báu của Ðức
Kitô và chỉ có Máu Người mới trả được. Thế nên chúng ta phải bảo toàn niềm tin ấy,
tức là hy vọng của chúng ta luôn phải hướng về Thiên Chúa (c.21), là sống trong
lòng kính sợ (kẻo mất) Người.
Giờ đây chúng ta sẽ cử
hành mầu nhiệm Thánh Thể, nhắc nhở việc Chúa chịu chết và sống lại, nhận thức đức
tin của chúng ta đã được trả bằng Máu châu báu của Người, chúng ta hãy mở mắt
tinh thần ra như hai môn đệ Emmau và như những người đã nghe bài diễn từ của
Phêrô. Và lòng chúng ta hãy nồng nàn lên khi thấy Chúa hiện diện nơi Thánh Thể.
Chúng ta hãy quyết tâm đổi đời như lối "ba ngàn người" nghe Phêrô nói
ngày trước; và chúng ta hãy ra về trở lại với đồng bào như hai môn đệ Emmau.
Chúng ta sẽ làm như họ, tin tưởng tuyệt đối vào mầu nhiệm Phục sinh, khai triển
lời Kinh Thánh trong đời sống, làm chứng Ðức Kitô đã sống lại đang kêu gọi mọi
người hiểu biết kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa mà phấn chấn trong cuộc sống,
nhiệt tình xây dựng hạnh phúc, vì này, sức mạnh của Chúa đi kèm công việc của
những người đã tin Ðức Yêsu Kitô sống lại từ kẻ chết.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật III Phục Sinh, Năm A
Bài đọc: Acts
2:14, 22-28; 1 Pet 1:17-21; Lk 24:13-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được phác họa ngay từ đầu, khi trái đất và con
người chưa được tạo dựng.
Có những sự khác biệt
to lớn giữa Thiên Chúa và con người: Ngài không bị lệ thuộc vào thời gian như
con người; tư tưởng và ý định của Ngài bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành,
trong khi kiến thức con người quá giới hạn đến độ không thể lãnh nhận những mặc
khải của Thiên Chúa một lúc. Thiên Chúa đã có kế hoạch cứu độ con người ngay từ
đầu, khi trời đất và con người chưa được tạo thành, và dĩ nhiên, chưa phạm tội
trong vườn Địa Đàng. Trọng tâm của kế hoạch cứu độ là Đức Kitô, Ngài là Đấng sẽ
mang lại ơn cứu độ cho con người qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển của
Ngài. Kế hoạch cứu độ có hai phần chính: phần đầu Thiên Chúa chọn dân tộc
Do-thái để chuẩn bị cho việc nhập thể của Đức Kitô; phần hai khi Đức Kitô đến,
Ngài mở rộng ơn cứu độ của Thiên Chúa cho tất cả mọi người. Vì thế, Đức Kitô là
giao điểm của Cựu Ước và Tân Ước. Tất cả những gì Đức Kitô sẽ làm đã được tiên
báo cách ẩn tàng trong Cựu Ước. Khi Đức Kitô đến, Ngài thực thi tất cả những gì
đã được tiên báo trong Cựu Ước. Thánh Augustinô nhận định rất chính xác: Cựu Ước
chuẩn bị cho Tân Ước và Tân Ước làm trọn những gì Cựu Ước chuẩn bị. Thánh
Phaolô diễn tả cách tương tự: nếu chỉ đọc Cựu Ước thôi, một người sẽ chỉ hiểu lờ
mờ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa như đang bị một bức màn che mắt; nhưng nếu đọc
Cựu Ước với ánh sáng của Tân Ước, một người sẽ hiểu rõ tất cả chi tiết của kế
hoạch cứu độ (2 Cor 3:13-17).
Các bài đọc hôm nay
cho chúng ta thấy lợi ích của việc giải thích những biến cố xảy ra cho Đức Kitô
trong ánh sáng của Cựu Ước. Trong bài đọc I, thánh Phêrô chứng minh cho người
Do-thái biết Đức Giêsu thành Nazareth chính là Đấng Thiên Chúa sai đến, để thực
thi kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa và mang lại cuộc sống trường sinh cho con
người, như đã được loan báo trong Kinh Thánh. Trong bài đọc II, tác giả Thư
Phêrô thứ nhất cũng lặp lại tư tưởng của bài đọc I, Đức Kitô là Đấng mà Thiên
Chúa đã biết trước khi vũ trụ được dựng nên. Ngài xuất hiện trong thời cuối
cùng để làm trọn kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, chính Đức Kitô
thân hành hiện đến và cùng đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmaus, để giải
thích cho họ về những lời Kinh Thánh được làm trọn qua cái chết và sự phục sinh
của Ngài. Hai ông đã nhận ra chính là Ngài khi Ngài cùng bẻ bánh với hai ông.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Giêsu đã bị nộp và giết chết theo kế hoạch Thiên Chúa
đã định và biết trước.
Bài giảng của Phêrô
sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống gồm hai phần chính:
1.1/ Phêrô làm chứng cho
những gì Đức Kitô đã thực hiện: Phêrô đứng
chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng: "Thưa anh em miền Judah
và tất cả những người đang cư ngụ tại Jerusalem, xin biết cho điều này, và lắng
nghe những lời tôi nói đây... Thưa đồng bào Israel, xin nghe những lời sau đây.
Đức Giêsu Nazareth, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng
thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng
và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó.” Phêrô không cần phải dẫn chứng
nhiều, vì tất cả những gì Đức Kitô đã làm và những gì xảy ra cho Ngài vẫn còn sống
động trong tâm hồn khán giả của ông.
1.2/ Phêrô nối kết những
biến cố này với những gì đã được đề cập tới trong Kinh Thánh: Vì người Do-thái tin vào Kinh Thánh, Phêrô làm chứng
cho Đức Kitô bằng cách liên kết những biến cố mới xảy ra với những gì đã được đề
cập trong Kinh Thánh. Mục đích của Phêrô là để khơi niềm tin nơi khán giả vào
Thiên Chúa và vào Đức Kitô. Kinh Thánh đã nói trước về mục đích của cái chết và
sự sống lại của Đức Kitô. Ngài phải chết và phục sinh theo kế hoạch cứu độ của
Thiên Chúa. Mục đích là để tha thứ tội lỗi và mang lại cuộc sống trường sinh
vĩnh cửu cho con người: “Theo kế hoạch Thiên Chúa đã định và biết trước, Đức
Giêsu ấy đã bị nộp, và anh em đã dùng bàn tay kẻ dữ đóng đinh Người vào thập
giá mà giết đi. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại, giải thoát Người khỏi
những đau khổ của cái chết. Vì lẽ cái chết không tài nào khống chế được Người
mãi.”
Phêrô trưng dẫn những
lời của Thánh Vịnh 16:8-11, để minh chứng điều này. Câu 27 của trình thuật mang
một ý nghĩa quan trọng về cuộc sống trường sinh: “Vì Chúa chẳng đành bỏ mặc
linh hồn con trong cõi âm ty, cũng không để Vị Thánh của Ngài phải hư nát.” Ai
là “Vị Thánh của Ngài” mà Thánh Vịnh 16 nói tới? Chắc chắn không phải là vua
David, vì David đã chết, và mộ của vua vẫn còn ở Hebron cho tới ngày nay. Truyền
thống Do-thái thời đó vẫn tin người nào đã vào trong cõi âm ty (Sheol, Hades),
sẽ không bao giờ có ngày trở về trên cõi dương gian. Quan niệm về cuộc sống đời
sau, được hưởng hạnh phúc muôn đời với Thiên Chúa, là một quan niệm rất xa lạ với
người Do-thái thời đó. Vì thế, câu “Chúa sẽ dạy con biết đường về cõi sống, và
cho con được vui sướng tràn trề khi ở trước Thánh Nhan” phải là một lời tiên
tri nói về Đấng Cứu Thế, và được áp dụng cho sự chết và phục sinh của Đức Kitô.
2/ Bài đọc II: Người là Đấng Thiên Chúa đã biết trước khi vũ trụ chưa được
dựng nên.
(1) Chúng ta được cứu
độ là do bởi máu vô giá của Đức Kitô: Tác giả Thư Phêrô I nhắc nhở cho các tín
hữu biết: “không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã
được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại; nhưng anh
em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức
Kitô.” Theo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa có từ muôn thuở, “Người là Đấng
Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện
vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng
đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt
niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa.” Ai tin vào Ngài, người ấy sẽ nhận được ơn
cứu độ là được sống muôn đời.
(2) Hãy biết sống làm
sao ở đời này cho xứng với tình yêu Thiên Chúa: Con người không thể nhận lãnh
ơn cứu độ bằng sức riêng của mình hay bằng việc giữ cẩn thận Lề Luật; vì mọi
người đều phạm tội. Họ chỉ có thể được cứu độ bằng việc tin tưởng vào Đức Kitô
và cố gắng giữ những gì Ngài truyền. Để đáp trả tình yêu của Thiên Chúa và của
Đức Kitô đã hy sinh mạng sống cho con người, tác giả răn dạy các tín hữu: “Vậy
nếu anh em gọi Người là Cha, thì anh em hãy đem lòng kính sợ mà sống cuộc đời lữ
khách này.”
3/ Phúc Âm: Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người
trong tất cả Sách Thánh.
3.1/ Lòng trí các anh thật
là chậm tin vào lời các ngôn sứ: Khi phải
đương đầu với những biến cố đau buồn trong cuộc sống, nhiều người đã không còn
nhận ra Thiên Chúa và sự quan phòng của Ngài. Thái độ này dễ đưa con người đến
chỗ thất vọng và không nhận ra Thiên Chúa, dù Ngài có hiện ra và đồng hành với
họ. Hai môn đệ của Chúa Giêsu rời Jerusalem để về Emmaus là một ví dụ sống động
của thái độ này. Họ buồn và rời Jerusalem vì bao nhiêu hy vọng của họ đặt nơi
Chúa Giêsu giờ đã tan thành mây khói. Họ tưởng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai uy
quyền, Ngài sẽ dùng quyền năng để đánh đuổi đế quốc Rôma và giải phóng dân tộc
Do-thái khỏi ngoại bang; nhưng nay Ngài đã chết rồi. Vài tia hy vọng mong manh
của việc Chúa sống lại không đủ để trợ giúp niềm tin bị thử thách của họ.
Điều này chứng minh
cho chúng ta thấy chúng ta cần có những giây phút cầu nguyện và thinh lặng để
suy niệm và để nối kết những biến cố xảy ra trong cuộc đời. Chỉ có sự soi sáng
của Thiên Chúa mới có thể giúp chúng ta nhận ra những lý do của sự việc xảy ra,
và giúp chúng ta vững tin nơi quyền năng của Ngài.
3.2/ "Mời ông ở lại
với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn." Hai môn đệ nhận ra sự tăm tối của tâm hồn và mời Ngài ở lại.
Chính lời mời gọi này đã giúp cho hai ông nhận ra Đức Kitô và thêm tin tưởng
nơi Ngài. Ba điều quan trọng chúng ta cần học là:
(1) Đức tin được kiên
cố qua việc học hỏi Lời Chúa để nhìn ra kế hoạch cứu độ trong các biến cố xảy
ra hàng ngày và các biến cố đặc biệt. Bấy giờ Đức Giêsu nói với hai ông rằng:
"Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các
ngôn sứ! Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong
vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Moses và tất cả các ngôn sứ, Người
giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh.
Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giêsu làm như còn phải đi xa hơn nữa. Họ nài
ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày
sắp tàn."
Bấy giờ Người mới vào
và ở lại với họ.
(2) Tham dự Lễ Bẻ Bánh
giúp tăng tình yêu của con người vào Thiên Chúa: “Khi đồng bàn với họ, Người cầm
lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và họ nhận
ra Người, nhưng Người lại biến mất. Họ mới bảo nhau: "Dọc đường, khi Người
nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng
cháy lên sao?"
(3) Đức tin cần được sự
nâng đỡ của cộng đoàn: “Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Jerusalem, gặp
Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó. Những người này bảo hai ông: "Chúa
trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon." Còn hai ông thì thuật lại
những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ
bánh.” Người nào có khuynh hướng xé lẻ để tự giải quyết lấy thường dễ rơi vào cạm
bẫy của ma quỉ, Judah Iscariot là một trường hợp điển hình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải học Cựu
Ước để hiểu rõ Tân Ước, và phải học Tân Ước để hiểu rõ Cựu Ước. Cả hai chỉ là
hai phần khác nhau của một kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.
- Tham dự Thánh Lễ
cách trọn vẹn, vừa lắng nghe Lời Chúa vừa lãnh nhận Mình Thánh Chúa, thắp lên
trong chúng ta ngọn lửa tình yêu cho Thiên Chúa, giữ vững niềm hy vọng, và nhiệt
thành làm chứng cho Ngài.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
Lc 24,13-35
CÓ CHÚA ĐỒNG HÀNH
“Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế,
rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26)
Suy
niệm: Đi từ
Giê-ru-sa-lem về Em-mau là đi về phía tây, phía mặt trời lặn, phía đêm tối. Tâm
trạng hai môn đệ lúc ấy cũng rối bời như đêm đen: hy vọng vào việc Thầy giải
phóng Ít-ra-en vỡ tan như bong bóng. Thế rồi, Đức Giê-su xuất hiện như người lữ
hành cùng đi với họ, trò chuyện, giải thích Kinh Thánh cho họ. Mà cũng lạ, Ngài
nói đến đâu, lòng họ mở ra đến đấy! Ý nghĩa của cuộc đời trở nên trong sáng,
tối tăm trở nên sáng như ban ngày. Sau khi Ngài biến mất, họ phải đứng dậy
ngay, quay trở lại Giê-ru-sa-lem, đi về phía đông, phía mặt trời mọc, phía ánh sáng.
Trong vài tiếng đồng hồ trên con đường mười một cây số ấy, Đức Giê-su đã đưa họ
từ tâm trạng thất vọng, chán nản sang niềm vui phục sinh.
Mời Bạn: Chỉ trong Đức Giê-su,
bạn mới nhận ra được ý nghĩa của cuộc đời. Có Ngài hiện diện, ngay cả trong
những ngày tháng đen tối, bạn vẫn có thể thấy ánh sáng cho hành trình cuộc đời.
Được Ngài lưu lại trong tâm hồn, bạn nhận ra thiên đàng đã bắt đầu ngay trên
trần thế này. Bạn đã có cảm nghiệm đó chưa? Nếu chưa, bạn sẽ làm gì để có được
cảm nghiệm quý giá ấy?
Sống Lời Chúa: Tôi dành thời gian để
tiếp xúc với Chúa mỗi ngày qua kinh nguyện, thánh lễ, vì hiểu rằng có Chúa,
cuộc đời tôi mới có ý nghĩa.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa
thật tế nhị và lịch sự, Chúa làm như muốn đi xa hơn. Chúa không ép, nhưng muốn các
môn đệ mời Chúa ở lại. Chúa ban cho con tự do và tôn trọng tự do ấy. Xin cho
con hiểu được giá trị lớn lao của tự do, và sử dụng tự do ấy cách xứng hợp với
ý Chúa. Amen.
(5 phút lời Chúa)
MỜI ÔNG Ở LẠI VỚI CHÚNG TÔI (30.4.2017 – Chúa nhật 3 Phục sinh, Năm A)
Sống như Chúa phục sinh là tập đến với tha nhân, tập đồng hành, tập gợi ý, tập lắng nghe, tập soi sáng..
Suy niệm:
Dưới dáng dấp một người
khách lạ,
Chúa Giêsu phục sinh đến
với hai môn đệ Emmau.
Ngài đến đúng lúc, đúng
lúc họ đang bỏ cuộc,
quay quắt và ray rứt vì
chuyện đã qua.
Ngài đi cùng với họ, đi
gần bên họ,
khiêm tốn trở thành một
người bạn đồng hành.
Ngài gợi chuyện, hay đúng
hơn,
Ngài muốn tham dự vào câu
chuyện dở dang của họ.
Chúa Giêsu không nản lòng
trước câu trả lời lạnh nhạt:
“Chắc chỉ có ông mới
không biết chuyện vừa xảy ra...”
Ngài không cắt đứt cuộc
đối thoại: “Chuyện gì vậy?”
Ngài giả vờ không biết để
họ nói cho vơi nỗi buồn.
Chúa Giêsu kiên nhẫn lắng
nghe lời họ tâm sự.
“Trước đây, chúng tôi hy
vọng rằng...”
Như thế niềm hy vọng này
chỉ còn là chuyện quá khứ.
Cả niềm tin cũng trở nên
chai lì,
họ đâu có tin vào lời của
các bà ra thăm mộ.
Khi lắng nghe, Chúa Giêsu
nhận ra cái gút của vấn đề,
những câu hỏi mà họ không
tìm ra lời giải đáp.
Tại sao một người của
Chúa, người mà họ tin là Ðức Kitô
lại bị đóng đinh như một
kẻ bị Thiên Chúa chúc dữ?
Chúa Giêsu vén mở ý nghĩa
của mầu nhiệm đau khổ.
Ðau khổ là nhịp cầu mà
Ðức Kitô phải vượt qua
để sang bờ bên kia là
vinh quang bất diệt.
Ðau khổ không phải là
chuyện xui xẻo, rủi ro,
nhưng nó có chỗ đứng
trong chương trình cứu độ.
Lời của Chúa Giêsu là Tin
Mừng ngọt ngào,
khiến nỗi đau của họ dịu
đi, lòng họ như ấm lại.
Họ cố nài ép Ngài ở lại
dùng bữa chiều.
Và chính lúc Ngài cầm
bánh bẻ ra trao cho họ
thì họ nhận ra vị khách
lạ chính là Thầy Giêsu.
Kinh nghiệm của hai môn
đệ Emmau cũng là của chúng ta.
Lúc ta tưởng Ngài vắng
mặt, thì Ngài lại đang ở gần bên.
Lúc ta nhận ra Ngài ở gần
bên, thì Ngài lại biến mất rồi.
Nhưng chính lúc Ngài biến
mất,
ta lại cảm nghiệm sâu hơn
sự hiện diện của Ngài.
Ngài đến lúc ta không
ngờ.
Ngài đi mà ta không giữ
lại được.
Ngài ở lại với ta cả khi
ta không thấy Ngài nữa.
Ðấng Phục Sinh vẫn đến
với ta hôm nay
qua một người bạn hay một
người lạ ta gặp tình cờ.
Qua họ, Ngài thổi vào
lòng ta niềm hy vọng tin yêu.
Ngài vẫn đến với ta qua
từng thánh lễ.
Ngài đích thân giảng Tin
Mừng và bẻ bánh trao cho ta.
Sống như Chúa phục sinh
là tập đến với tha nhân,
tập đồng hành, tập gợi ý,
tập lắng nghe, tập soi sáng...
Hôm nay vẫn có nhiều
người bạn đang lê gót về Emmau.
Cầu nguyện:
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy
Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để
con khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt hăng
say.
Xin ở lại với con, lạy
Chúa,
vì trời đã xế chiều và
ngày sắp tàn,
cuộc đời qua đi, vĩnh cửu
gần đến.
Con cần được thêm sức mạnh
để khỏi ngừng lại dọc
đường.
Xin ở lại với con, lạy Chúa,
vì con cần Chúa trong đêm
tối cuộc đời.
Con không dám xin những ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài hiện
diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa
và không đòi phần thưởng nào khác
ngoài việc được yêu Chúa hơn.
(Cha Piô)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
30 THÁNG TƯ
Nghe Theo Tiếng Người
Mục Tử
Sứ mạng của Đức Kitô
bao gồm một sự hiểu biết cụ thể về những ai thuộc về Người. “Chiên của tôi thì
nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng” (Ga 10,27). Đây là một sự hiểu biết đến từ đức
tin và sự tín nhiệm. Thực vậy, người mục tử là người duy nhất mà đàn chiên tín
nhiệm. Đó là lý do tại sao chiên đi theo người ấy. Người ấy biết chính xác từng
con chiên. Mỗi con chiên đều ở trong tâm tư của người ấy. Và chỉ người ấy mới
có thể trả giá cho mỗi con chiên.
Giá ở đây, với Đức
Kitô, là Thập Giá: “Người mục tử thí mạng mình vì chiên”. Đức Kitô biết rằng
chiên của Người được định liệu để chia sẻ sự sống vĩnh cửu trong Người: “Chúng
theo tôi. Và tôi ban cho chúng sự sống đời đời.” (Ga 10,27-28).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 30 – 4
Chúa Nhật III Phục
Sinh
Cv 2, 14.22-33; 1Pr
1, 17-21; Lc 24, 13-35.
LỜI SUY NIỆM: “Dọc đường,
khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng
bừng cháy lên sao?”
Câu chuyện hai môn đệ
trên đường Emmau cho chúng ta thấy được cả hai người môn đệ đặt niềm tin
vào Chúa Giêsu: “Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời
nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân.” Nhưng niềm tin này đã bị “Bóng tối” sau
cái chết của Chúa Giêsu, các ông đã thất vọng. Chúa Giêsu đã đến và đồng hành với
hai ông, giải thích Kinh Thánh những gì liên quan đến Người. Niềm hy vọng trở lại
với hai ông: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời dã xế chiều, và ngày sắp
tàn.” Và ánh sáng “Bẻ Bánh” đã giúp hai ông nhận ra Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin
cho mỗi người trong chúng con ham thích đọc Kinh Thánh được ơn sáng soi của
Chúa Thánh Thần để giúp đức tin chúng con ngày càng trưởng thành trong việc thờ
phượng Chúa và yêu thương anh em mình.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 30-04
Thánh PIÔ V
Giáo Hoàng (1504 -
1572)
Thánh Piô V chào đời
vào ngày lễ thánh Antôn năm 1504 tại Boscô, là con của ông Paolô và bà Đômen
icaghisieri. Gia đình nghèo túng, Ngài phải đi chăn chiên. Khi một người láng
giềng giàu có muốn trả giúp lệ phí học hành thì Ngài được gởi tới trường Đaminh
ở Bôscô. Mười bốn tuổi Ngài nhập dòng và được mang tên là Micae. Năm 1528, thụ
phong linh mục ở Ghenoa. Ngài đã dạy triết học và thần học một ít năm trong nhà
dòng ở Pavia.
Năm 1543, khi ở nhà mẹ
dòng Đaminh Ngài đã nỗ lực trong việc bảo vệ uy quyền của tòa thánh. Ngài được
đặt làm ủy viên tòa án tôn giáo ở địa phận Pavia, rồi ở Bergamô và Cômô. Các hoạt
động của Ngài ít được biết đến và bị chỉ trích nhiều. Một số lớn sách ủng hộ lạc
giáo bị tịch thu để ở tại Milan và đưa về Rôma là nơi thánh nhân đã thắng cuộc
và được Đức Hồng y Caraffa quí mến. Năm 1551, theo sự yêu cầu của Đức Hồng y,
Ngài được Đức Giáo hoàng Giuliô III triệu về Rôma để làm Tổng Uy viên tòa án
tôn giáo. Cùng năm này, Đức Hồng y Caraffa được bầu làm giáo hoàng.
Năm sau Đức tân giáo
hoàng Phaolô IV đặt cha Micae Ghisleri làm giám mục Sutri và Nêpi. Ngài miễn cưỡng
lãnh nhận trách nhiệm giám mục, chức vụ mà Đức Giáo hoàng nói là để "cột
chân Ngài lại để Ngài khỏi trở lại tu viện". Năm sau Ngài lại được cất nhắc
lên làm Hồng y rồi làm đại Phán Quán. Bấy giờ Đức Giáo Hoàng trở nên gắt gỏng
và vì Đai Phán Quan đôi khi bắt buộc phải chước giảm những chỉ thị quá khích của
Ngài. Trái lại Đức Giáo Hoàng kế tiếp là Piô IV lại thiên về thế tục đến nỗi
thánh nhân phải lui về địa phận thứ hai của Ngài là Mondovi ở Lombardi. Nhưng
năm 1565 Đức Giáo Hoàng qua đời dưới ảnh hưởng của thánh Carôlô Bôrrômeô, Đức Hồng
y Ghisleri được chọn làm Đức Giáo Hoàng trong một cuộc họp không bị những can
thiệp từ bên ngoài, Ngài chọn danh hiệu là Piô V.
Việc tuyển chọn Đức
Piô V ít được mong đọi và không được vua chúa Tây Ban Nha đồng ý và đã là một
thắng lợi quyết liệt cho nhóm canh tân. Dầu mang tước vị nào đi nữa, Đức Piô V
luôn sống như một người ăn xin trong mức độ có thể được. Chẳng hạn, Ngài chỉ giữ
một số nhỏ người giúp việc, thích đi bộ hơn là đi ngựa, luôn nhận biết nguồn gốc
khiêm tốn của mình.
Lúc đầu, Ngài ít được
dân Rôma biết đến nhưng rồi sự chuyên chăm tham dự phụng vụ, sự thánh thiện cá
nhân, thói quen đi bộ để viếng 7 thánh đường ở Rôma, nhóm người tùy tùng ít ỏi,
sự từ chối không đề bạt những người trong gia đình, giải pháp phần lớn đoàn
quân của giáo hoàng, việc bố thí rộng rãi. Tất cả đã góp phần tô điểm cho Ngài
một khuôn mặt Đức Giáo Hoàng vừa bình dân vừa thân thịên.
Nhưng cuộc canh tân
công đồng Tridentinô đòi hỏi đã được Đức Giáo Hoàng Piô V thực hiện ngay sau
khi được tuyển chọn. Sách nguyện và sách lễ được duyệt xét lại đồng thời bản
kinh thánh Phổ Thông và Tân ước tiếng Hy Lạp cũng đã được sửa lại, một ấn bản mới
về các tác phẩm của thánh Tôma đã được chuẩn bị và cuốn giáo lý công đồng
Tridentinô được phiên dịch sang nhiều thứ tiếng. Thánh nhân đã quan tâm nhiều đến
việc thánh hóa hàng Giáo sĩ, khích lệ họ. Ngài diệt trừ thói buôn thần bán
thánh và nghiêm khắc với những lạm dụng về luân lý. Ngoài ra Ngài cũng nhạy cảm
với nghệ thuật. Chính Ngài bảo trợ việc soát lại Thánh nhạc.
Dầu không thông thạo
việc trần thế, thánh nhân cũng đã gặt hái được nhiều thành quả trong lãnh vực
chính trị. Trước sức tấn công ngày càng lớn mạnh của quân Thổ, Ngài được thành
lập một liên minh với vua Tây Ban Nha, cộng hòa Vênêtia. Các Kitô hữu xuất trận
dưới quyền chỉ huy của Don Giuan d'Autriche. Cuộc chiến diễn ra ở vịnh Lêpantê.
Chính Đức Giáo Hoàng chạy đến phương thế thiêng liêng. Ngài kêu gọi các tín hữu
gia tăng cầu nguyện.
Quận công Soliman nói:
- Tôi sợ những lời cầu nguyện của Đức Giáo Hoàng hơn là những đoàn quân hùng hậu
của các hoàng đế.
Cuộc chiến đã đưa tới
thành công như một phép lạ. Quân Hồi đã bị đánh bại và không còn ngóc lên nổi nữa.
Hôm ấy là ngày 07 tháng 10 năm 1571.
Đang hội họp với các hồng
y Đức Giáo Hoàng đã ra cửa sổ nhìn về phía Lêpantê rồi quay lại loan báo tin vui
chiến thắng, cùng với lời kêu gọi tạ ơn Chúa và Đức Mẹ.
Để kỷ niệm biến cố
này, Ngài đã thêm lời cầu: "Đức Bà Phù hộ các giáo hữu, cầu cho chúng
con" vào Kinh Cầu Đức Mẹ. Ngài cũng lập một lễ kính mẹ vào ngày 07 tháng
10, sau đổi thành lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Cuộc chiến tại Lêpantê
chấm dứt, Đức Giáo Hoàng Piô V cũng linh cảm thấy đời mình sắp chấm dứt. Thật vậy,
Ngài đã ngã bệnh nặng, trong cơn đau đớn, Ngài đã cầu nguyện: - Lạy Chúa, xin
cho con được chịu đau khổ nhiều hơn nhưng xin cũng thêm sức chịu đựng cho con.
Ngày 01 tháng 5 năm
1572, Đức Giáo Hoàng Piô V từ trần.
(daminhvn.net)
30 Tháng Tư
Tôi Xin Chấp Nhận
Tại một bệnh viện
trong thành phố Hiroshima bên Nhật Bản, một người đàn bà bị phóng xạ nguyên tử
từ 30 năm qua đang lên cơn hấp hối.
Bác sĩ chữa trị cho biết bà chỉ còn nhiều lắm là một hay vài giờ nữa là cùng. Theo thói quen tại Nhật Bản, người ta thông báo để người sắp chết cho biết ý muốn trong những giây phút cuối cùng.
Bác sĩ chữa trị cho biết bà chỉ còn nhiều lắm là một hay vài giờ nữa là cùng. Theo thói quen tại Nhật Bản, người ta thông báo để người sắp chết cho biết ý muốn trong những giây phút cuối cùng.
Bác sĩ vào phòng bệnh
nhân và nói nhỏ với bà: "Akiramé".
Người đàn bà ngước
nhìn vị bác sĩ và dùng ngón tay trỏ viết vào trong lòng bàn trái của bà câu:
"Akiramé", nghĩa là "Tôi xin chấp nhận".
Với tất cả bình thản,
người đàn bà đã biến những giờ phút hãi hùng nhất trong cuộc sống thành một biến
cố tự nhiên và thanh thản.
Cuộc sống của chúng
ta dường như được cấu tạo bằng nhiều vị khác nhau: đắng cay, chua xót, ngọt
bùi... Gia vị là một điều cần thiết cho thức ăn. Người không thích cay đắng thì
sẽ xem trái ớt, hạt tiêu là kẻ thù của khẩu vị. Người thích cay đắng thì lại
tìm ra mùi vị thơm ngon của nó.
Hoa nào cũng có mật
đắng. Nhưng loài ong khéo léo để chỉ hút mật ngọt.
Thiên Chúa ban cho
chúng ta một cuộc sống với muôn màu sắc và hương vị khác nhau. Chúng ta phải là
loài ong đi tìm mật ngọt trong vườn hoa cuộc sống ấy. Nếu chỉ nhìn thấy mật đắng,
chúng ta sẽ bỏ cuộc đầu hàng trong chán nản. Nếu biết biến báo, chúng ta có thể
tìm được mật ngọt và biến những đắng cay chua xót thành mật ngọt và hương thơm.
Sau khi đã đánh bại Ðức
Quốc Xã và giải phóng Âu Châu, Churchill thủ tướng nước Anh đãtuyên bố:
"Không gì buồn thảm cho bằng một chiến thắng". Cảnh thu dọn chiến trường,
cảnh kẻ khóc người cười, cảnh vợ mất chồng, cảnh cha mẹ mất con cái... Chiến thắng
ngự trị trên tro tàn, đổ nát.
Dù vui với chiến thắng đến đâu, có ai mà không ngậm ngùi xót xa.
Dù vui với chiến thắng đến đâu, có ai mà không ngậm ngùi xót xa.
Hôm nay 30 tháng tư,
đánh dấu một trong những biến cố đau thương nhất của lịch sử dân tộc. Mỗi năm
chúng ta có dịp ôn lại ngày lịch sử ấy. Mỗi người một tâm tình. Nhưng dưới cái
nhìn Ðức tin, người Kitô luôn được mời gọi để nhận ra bàn tay quan phòng của
Chúa. Với tất cả bình thản và lạc quan, chúng ta hãy thốt lên như thánh nữ
Têrêxa Hài Ðồng giữa cơn đau quằn quại trong thân xác và tâm hồn: "Tất cả
đều là ơn Chúa".
Tuyên xưng niềm tin
vào Chúa Quan Phòng có nghĩa là chấp nhận mọi biến cố trong cuộc sống như một
khởi đầu mới, một khởi đầu với những ơn sủng dồi dào hơn. Với những kẻ Thiên
Chúa yêu thương, thì mọi sự đều quy về điều tốt...
Còn tâm tình nào đúng
đắn hơn trong ngày lịch sử này là cảm tạ và phó thác. Cảm tạ Chúa vì qua mọi biến
cố, Chúa Quan Phòng luôn gìn giữ chúng ta và hướng dẫn chúng ta trên đường ân
phúc của Ngài. Phó thác cho Ngài bởi vì Ngài luôn có mặt trong cuộc sống để biến
tất cả những thất bại, đau khổ, cay đắng trong cuộc sống thành khởi đầu của một
cuộc sống tốt đẹp hơn.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét