01/05/2017
Thứ Hai tuần 3 Phục Sinh
Thánh Giuse thợ
* Là một người thợ ở làng Galilê, thánh Giuse là mẫu gương người Kitô hữu phải noi theo để chu toàn các bổn phận nghề nghiệp, vì thánh Giuse đã làm việc trong tâm tình liên kết với Đức Giêsu. Lao động thì vất vả nhưng cũng đem lại niềm vui. Lao động phục vụ con người nhưng cũng giúp đưa tới gần Thiên Chúa: đó là điều ta học được nơi trường học Nagiarét.
Bài Ðọc I: Cv 6, 8-15
"Họ không thể đương đầu với sự khôn ngoan và Thánh Thần vẫn giúp cho
ông nói".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Têphanô đầy ân sủng và sức mạnh, làm nên những điều
kỳ diệu và những phép lạ cả thể trong dân. Bấy giờ có nhóm người kia thuộc hội
đường mệnh danh là "của những người Tự Do, người Xirênê và
Alexandria", và những người khác từ xứ Cilicia và Tiểu Á, đã nổi dậy. Họ
tranh luận với Têphanô, nhưng họ không thể đương đầu với sự khôn ngoan và Thánh
Thần vẫn giúp cho ông nói. Họ xúi giục một số người nói lên rằng: "Chúng
ta đã nghe nó nói những lời lộng ngôn phạm đến Môsê và Thiên Chúa". Họ
xách động dân chúng, các kỳ lão và luật sĩ; rồi họ tuôn đến bắt Têphanô điệu tới
công nghị. Họ đưa ra những người làm chứng gian nói rằng: "Tên này không
ngớt nói những lời xúc phạm đến nơi thánh và lề luật, vì chúng tôi nghe nó nói
rằng: "Ông Giêsu Nadarét sẽ phá nơi này, và thay đổi các tập tục Môsê truyền
lại cho chúng ta". Toàn thể cử toạ trong công nghị chăm chú nhìn Têphanô,
thấy mặt người giống như mặt thiên thần.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 118, 23-24.
26-27. 29-30
Ðáp: Phúc cho ai theo đường lối
tinh toàn (c. 1a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Dầu vua chúa hội lại và buông lời đả kích, tôi tớ Ngài vẫn suy
gẫm về thánh chỉ Ngài. Vì các lời nghiêm huấn của Ngài là điều con ưa thích,
các thánh chỉ Ngài là những bậc cố vấn của con. - Ðáp.
2) Con đã trình bày đường lối của con và Chúa nghe con, xin dạy bảo con
các thánh chỉ của Ngài. Xin cho con am hiểu đường lối huấn lệnh của Chúa, để
con suy gẫm các điều kỳ diệu của Ngài. - Ðáp.
3) Xin đưa con xa cách con đường gian dối, và rộng tay ban luật pháp của
Ngài cho con. Con đã chọn con đường chân lý, con quyết tâm theo các thánh chỉ của
Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 16, 28
Alleluia, alleluia! - Thầy bởi Cha mà ra, và đã đến trong thế gian, rồi
bây giờ Thầy bỏ thế gian mà về cùng Cha. - Alleluia.
Phúc Âm: Ga 6, 22-29
"Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của
ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Hôm sau, đám người còn ở lại bên kia biển thấy rằng không có thuyền nào
khác, duy chỉ có một chiếc, mà Chúa Giêsu không lên thuyền đó với các môn đệ,
chỉ có các môn đệ ra đi mà thôi. Nhưng có nhiều thuyền khác từ Tibêria đến gần
nơi dân chúng đã được ăn bánh. Khi đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và
môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền kia và đến Capharnaum tìm Chúa
Giêsu.
Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người: "Thưa Thầy, Thầy
đến đây bao giờ?" Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các
ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi
đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay
hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người
sẽ ban cho các ngươi. Người là Ðấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu". Họ liền
thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên
Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Ðây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi
hãy tin vào Ðấng Ngài sai đến".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Hoán cải nội
tâm
Ở thời đại nào, đám đông cũng có thể là một sức mạnh mù quáng, hành động
thiếu suy nghĩ và bị lôi cuốn bởi những dòng chảy của sự dữ. Trước khi bị các
thượng tế và tổng trấn Philatô kết án, Chúa Giêsu đã bị chính đám đông kết án.
Cái đám đông đã từng tung hô Ngài trong ngày Ngài khải hoàn tiến vào
Giêrusalem, cũng cái đám đông ấy gào thét, đòi đóng đinh Ngài vào thập giá. Bi
kịch ấy dường như được thánh Gioan báo trước qua đoạn Tin Mừng được Giáo Hội
cho chúng ta lắng nghe và suy niệm hôm nay. Ðám đông được Chúa Giêsu cho ăn no
nê ngày hôm trước, ngày hôm sau vẫn còn đứng bên kia bờ Biển hồ. Chúa Giêsu đã
đọc được động lực thúc đẩy họ tìm kiếm Ngài, họ đã đi tìm kiếm Ngài không phải
vì Ngài là đối tượng của khát vọng tìm kiếm của họ, mà chỉ vì đã được Ngài cho
ăn no nê; họ đi tìm kiếm không phải vì đã nhận ra ý nghĩa của phép lạ nhân bánh
và cá ra nhiều; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì chính Ngài đã mang lại ý
nghĩa và giá trị cho cuộc sống của họ; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì giáo
huấn của Ngài; họ đi tìm kiếm Ngài không phải vì những giá trị cao quí của cuộc
sống mà Ngài đến để bày tỏ. Cái đám đông ấy bị lôi kéo bởi những cái hời hợt,
nhất thời và chóng qua là cơm bánh. Ðây chính là bi kịch đã xảy ra cho Chúa
Giêsu. Ðám đông đã khước từ Ngài và treo Ngài lên thập giá chỉ vì họ đã không
hành động theo những xác tín thâm sâu thể hiện trên đạo lý, trên tiếng gọi của
lương tâm, mà chỉ sống theo cảm tính và những xu thế mù quáng. Ðây cũng chính
là nguy cơ mà người tín hữu Kitô có thể rơi vào.
Dĩ nhiên, nói đến đạo là nói đến đám đông. Chúng ta lãnh nhận đức tin
trong một cộng đồng. Chúng ta sống và thể hiện đức tin trong một cộng đồng.
Chúng ta cần có một đám đông nào đó để nâng đỡ niềm tin của chúng ta. Tuy
nhiên, cái đám đông ấy cũng dễ lôi kéo và biến việc thể hiện đức tin của chúng
ta thành một lối giữ đạo hình thức và máy móc. Ðạo dễ trở thành một chuỗi biểu
dương bên ngoài hơn là một cuộc gặp gỡ thâm sâu giữa tha nhân và Chúa. Ðạo sẽ
chỉ còn là những bó buộc và nghĩa vụ mà đám đông thôi thúc để tuân giữ hơn là
được thực thi vì xác tín và lòng mến.
Nguyện xin Chúa Kitô Phục Sinh mà chúng ta đón nhận mỗi ngày trong Thánh
Thể và gặp gỡ thường xuyên qua tha nhân trở thành đối tượng của sự khao khát và
tìm kiếm không ngơi nghỉ của chúng ta, để trong tất cả mọi sự, chúng ta có thể
thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống, mà
chính Chúa Kitô sống trong tôi".
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần III PS
Bài đọc: Acts
6:8-15; Jn 6:22-29.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy tin vào Đấng mà Thiên Chúa sai đến.
Cùng chứng kiến một sự
kiện, nhưng mỗi người nhìn dưới góc cạnh khác nhau: Có những người nhìn ra sự
thật ngay; có những người mất thời gian lâu dài mới có thể nhận ra sự thật;
nhưng cũng có những người cố giữ thái độ ngoan cố không chịu nhìn nhận sự thật.
Trong biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô cũng thế: Khi các Tông-đồ và nhiều
người Do-thái nhận ra lầm lỗi của họ, qua việc kết án và đóng đinh Con Thiên
Chúa, họ đã ăn năn sám hối và trở lại làm chứng cho Ngài; nhưng ngược lại, vẫn
có những người ngoan cố không chịu tin, họ tiếp tục dùng sức mạnh và mưu mô để
truy tố và luận tội các môn đệ của Chúa.
Các Bài Đọc hôm nay vạch
ra những cái nhìn sai trái và hành động không đúng của con người. Trong Bài Đọc
I, Phó-tế Stephanô tranh luận với những người Do-thái thuộc Nhóm nô lệ được giải
phóng về giáo lý của Chúa Giêsu về Đền Thờ và Lề Luật. Dù họ không địch nổi với
ông, họ vẫn tìm người phao tin đồn thất thiệt để có cớ bắt ông trao cho Thượng
Hội Đồng. Trong Phúc Âm, dân chúng đi tìm Chúa Giêsu, không phải vì nhận ra
Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng vì để có lương thực hàng ngày. Chúa Giêsu sửa sai
lối nhìn của họ: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát,
nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực
Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã
ghi dấu xác nhận.”
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.
1.1/ Xung đột giữa Phó-tế
Stephanô và hội đường của Nhóm nô lệ được giải phóng: Ông là một trong 7 Phó-tế mới được chọn để phục vụ cho
các bà góa theo văn hóa Hy-lạp. Ông được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những
điềm thiêng dấu lạ lớn lao trong dân.
Đối thủ của ông là những
người thuộc hội đường gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc
Cyrene và Alexandria. Họ cùng với một số người gốc Cilicia và Asia, đứng lên
tranh luận với ông Stephanô; nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thánh
Thần đã ban cho ông. Khi không dùng trí khôn ngoan để thắng ông được, họ quay
qua dùng những thủ đoạn hèn hạ. Họ bầy mưu tố cáo Stephanô bằng cách xui mấy
người phao lên rằng: "Chúng tôi đã nghe hắn nói lộng ngôn xúc phạm đến ông
Moses và Thiên Chúa."
1.2/ Phó-tế Stephanô bị bắt
và buộc tội: Những người này sách động dân
và các kỳ mục cùng kinh sư, rồi ập đến bắt ông và điệu đến Thượng Hội Đồng. Họ
đưa mấy người chứng gian ra khai rằng: "Tên này không ngừng nói những lời
phạm đến Nơi Thánh và Lề Luật. Vì chúng tôi đã nghe hắn nói rằng Giêsu người
Nazareth sẽ phá huỷ nơi này và thay đổi những tục lệ mà ông Moses đã truyền lại
cho chúng ta." Phó-tế Stephanô có lẽ đã tranh luận với họ về 3 điểm chính:
(1) Nơi Thánh (tức Đền
Thờ) phải qua đi để mọi người có thể thờ phượng Chúa trong tinh thần và chân lý
(Jn 4:20-24). Sự thật hiển nhiên là tuy Đền Thờ Jerusalem đã bị phá hủy hoàn
toàn vào năm 70 AD, Dân Chúa vẫn tiếp tục thờ phuợng Chúa ở mọi nơi, mọi thời,
và mọi lúc.
(2) Lề Luật phải hướng
tới sự làm nên trọn vẹn của Đức Kitô, và Tin Mừng của Ngài cần được rao giảng
cho mọi người; chứ không phải để họ tự ý phiên dịch Lề Luật, rồi bóc lột dân
nghèo và đàn áp những người công chính.
(3) Ơn Cứu Độ dành cho
mọi người: Người Do-thái vẫn tự tôn nghĩ rằng chỉ có họ mới là con Thiên Chúa
và xứng đáng được cứu độ, mọi dân tộc khác chỉ xứng đáng làm nô lệ cho họ và tiền
định để sa hỏa ngục. Họ không biết rằng đặc quyền Thiên Chúa ban cho họ, là để
họ mang nhiều người về cho Thiên Chúa.
Họ biết ông vô tội qua
lời trình thuật: “Toàn thể cử toạ trong Thượng Hội Đồng đều nhìn thẳng vào ông
Stephanô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.” Nhưng họ vẫn ngoan cố buộc
tội ông như đã từng buộc tội Chúa Giêsu.
2/ Phúc Âm: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng
Người đã sai đến."
2.1/ Dân chúng kéo nhau
đi tìm Chúa Giêsu vì muốn được ăn no: Trình
thuật hôm nay tiếp tục trình thuật Chúa làm phép lạ “Bánh hóa nhiều” cho dân
chúng ăn no nê; sau đó, họ muốn tôn Ngài làm vua. Chúa Giêsu truyền lệnh cho
các Tông-đồ chèo thuyền qua Capernaum trước, còn Ngài đi lên núi cầu nguyện.
Ngài đến cứu các ông khi Biển Hồ dậy sóng và đưa các ông cặp bến bình an.
Hôm sau, đám đông dân
chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó chỉ có một chiếc thuyền và
Đức Giêsu lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông
đi mà thôi. Tuy nhiên, có những thuyền khác từ Tiberias đến gần nơi dân chúng
đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. Vậy khi dân chúng thấy Đức Giêsu
cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Capernaum tìm Người.
Khi gặp thấy Người ở
bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?"
Đức Giêsu thấu hiểu những
gì trong lòng họ, nên Ngài đáp: "Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi
tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh
no nê.”
2.2/ Chúa Giêsu khuyên họ
hãy tìm những giá trị vĩnh cửu.
(1) Lương thực hư nát và
không hư nát: Ngài khuyên bảo họ: “Các ông hãy ra công làm việc, không phải vì
lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường
sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì chính Con Người là
Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận." Lương thực mau hư nát Chúa Giêsu
muốn nói ở đây là của ăn uống nuôi dưỡng phần xác, chúng vào qua cửa miệng rồi
tan biến đi. Lương thực không hư nát là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa như sẽ được
đề cập đến gần cuối chương 6; những lương thực này sẽ nuôi dưỡng phần linh hồn
của con người, và giúp họ đạt đến cuộc sống vĩnh cửu sau này.
(2) Thi hành thánh ý của
Thiên Chúa: Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những
việc Thiên Chúa muốn?" Đức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho
các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến." Ngoài những lương thực mà
Chúa Giêsu sẽ ban cho, họ còn phải luôn mong muốn chu toàn thánh ý Thiên Chúa,
như chính Chúa Giêsu đã tuyên bố với các Tông-đồ khi các ông thúc giục Ngài ăn:
“Của ăn Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta” (Jn 4:34). Ý của Thiên Chúa muốn cho mọi
người là tin vào Chúa Kitô để được hưởng ơn Cứu Độ.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta phải giữ một
thái độ khách quan và thiện chí khi đi tìm sự thật, và cầu xin để Chúa Thánh Thần
soi sáng và hướng dẫn chúng ta nhận ra sự thật.
- Chúng ta phải dùng sự
khôn ngoan của Thiên Chúa ban để nhận ra và hướng dẫn người khác nhận ra và chấp
nhận sự thật. Đừng bao giờ dùng sức mạnh để bắt ép, và dùng những mưu mô thủ đọan
để truy tố những người công chính.
- Chúng ta hãy ra sức
tìm những của ăn không hư nát: Thiên Chúa, Lời Chúa, Mình Chúa, Ý Chúa, sự thật,
cuộc sống đời sau, công bằng và bác ái… Đừng để những lo lắng và cám dỗ thế
gian làm chúng ta quên đi hay không dám sống cho những giá trị vĩnh cửu này.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Ga 6,22-29
TIN LÀ ĐÓN NHẬN
CHÚA GIÊ-SU
Họ liền hỏi Chúa
Giê-su: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Chúa
Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người
sai đến.” (Ga 2,28-29)
Suy niệm: Đám
đông hiểu rằng Chúa đang khích lệ họ làm những việc đẹp lòng Thiên Chúa, nên thắc
mắc việc gì phải thực hiện để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Câu hỏi của họ phản ánh
não trạng nệ luật nơi họ, cho rằng tất cả mọi điều Luật Cựu Ước dạy làm là tất
cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi, vì thế, việc giữ Luật đủ cho họ được sống đời đời.
Thật sai lầm! Vì ơn cứu độ không do những cố gắng của con người tạo nên, nhưng
do lòng thương xót của Chúa dành cho những ai tin vào đấng Ngài sai đến là Con
Một của Ngài: Đức Giê-su Ki-tô. Về điều này thánh Phao-lô đã dạy: “Luật chẳng
qua chỉ làm cho người ta ý thức về tội…, nhưng họ được trở nên công chính do ân
huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su”
(Rm 2,20-24).
Mời Bạn: Đấng Thiên Chúa sai đến hôm nay là Chúa Giê-su đang hiện
diện nơi bí tích Thánh Thể. Bạn có đến với Ngài, gặp gỡ Ngài và nhận ra điều gì
Ngài muốn bạn sửa đổi đời sống của bạn cho phù hợp với ý Ngài chưa?
Sống Lời Chúa: Dành 10 phút viếng Thánh Thể và cầu nguyện với Chúa thật
chân tình.
Cầu nguyện: Lạy Mẹ Ma-ri-a, xin cho con tận dụng mọi ngày của thánh
Hoa này, bắt chước Mẹ đón lấy Chúa Giê-su Thánh Thể và tin nhận Ngài là Đấng Cứu
Độ của con. Xin cho hồn con vui lên trong Chúa, như Mẹ reo lên khi đón nhận
Ngôi Hai Thiên Chúa làm người trong lòng Mẹ.
(5 phút Lời Chúa)
LỄ THÁNH GIUSE THỢ
BÀI ĐỌC I: St 1, 26 –
2, 3
“Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều
đầy mặt đất, và thống trị nó”.
Trích sách Sáng Thế.
Thiên Chúa phán:
“Chúng ta hãy dựng nên con người theo hình ảnh giống như Ta, để chúng làm chủ
cá biển, chim trời, dã thú khắp mặt đất, và tất cả loài bò sát di chuyển trên mặt
đất”. Vậy Thiên Chúa đã tạo thành con người giống hình ảnh Chúa. Người tạo thành
con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Người tạo thành họ có nam có nữ. Thiên
Chúa chúc phúc cho họ và phán rằng: “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều đầy mặt đất,
và thống thị nó, hãy bá chủ cá biển, chim trời và toàn thể sinh vật di chuyển
trên mặt đất”.
Thiên Chúa phán: “Đây
Ta ban cho các ngươi làm thức ăn mọi thứ cây cỏ mang hạt giống trên mặt đất, và
toàn thể thảo mộc sinh trái có hạt tuỳ theo giống. Ta ban mọi thứ cây cỏ xanh
tươi làm thức ăn cho mọi dã thú trên mặt đất, chim trời và toàn thể sinh vật di
chuyển trên mặt đất”. Và đã xảy ra như vậy. Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm
rất tốt đẹp. Qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ sáu. Thế là trời
đất và mọi vật trang điểm của chúng đã hoàn thành.
Ngày thứ bảy, Thiên
Chúa đã hoàn tất công việc Người đã làm. Và sau khi hoàn tất công việc Người đã
làm, thì ngày thứ bảy Người nghỉ ngơi. Người chúc phúc và thánh hoá ngày thứ bảy,
vì trong ngày đó Người nghỉ việc tạo thành. Đó là lời Chúa.
2. Hoặc: Cl 3, 14-15. 17. 23-24
“Tất cả những gì anh em thực hiện, anh em hãy thành tâm
thực hiện như cho Thiên Chúa, chớ không phải cho người đời”.
Trích thư của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, trên
hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện.
Nguyện cho bình an của Chúa Kitô làm chủ trong lòng anh em, sự bình an mà anh
em đã được kêu gọi tới để làm nên một thân thể. Anh em hãy cảm tạ Thiên Chúa.
Và tất cả những gì anh
em làm, trong lời nói cũng như trong hành động, tất cả mọi chuyện, anh em hãy
làm vì danh Chúa Giêsu Kitô, nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Tất cả những gì anh em
thực hiện, anh em hãy thành tâm thực hiện như cho Thiên Chúa, chứ không phải
cho người đời; vì anh em biết rằng anh em sẽ lãnh nhận phần thưởng gia nghiệp
do Thiên Chúa trao ban, nên anh em hãy phục vụ Chúa Kitô. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 89, 2. 3-4.
12-13. 14 và 16
Đáp: Lạy Chúa, xin củng
cố sự nghiệp tay chúng con làm ra (c. 17c).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Ôi Thiên
Chúa, trước khi núi non sinh đẻ, trước khi địa cầu và vũ trụ nở ra, tự thuở này
qua thuở kia, vẫn có Ngài. – Đáp.
2) Thực ngàn năm ở trước
thiên nhan, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh.
Chúa khiến con người trở về bụi đất, Ngài phán: “Hãy trở về gốc, hỡi con người”.
– Đáp.
3) Xin dạy chúng con
biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan. Lạy Chúa, xin
trở lại, chứ còn để tới bao giờ? Xin tỏ lòng xót thương tôi tớ của Ngài! – Đáp.
4) Xin cho chúng con sớm
được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con được mừng rỡ hân hoan trọn đời sống
chúng con. Xin cho các bầy tôi nhìn thấy sự nghiệp của Chúa, và cho con cháu họ
được thấy vinh quang Ngài. – Đáp.
ALLELUIA: Tv 67, 20
Alleluia, alleluia! –
Chúc tụng Chúa trong mọi ngày, Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ chúng ta, Người vác lấy
gánh nặng của chúng ta. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 13, 54-58
“Ông ta không phải là con bác
phó mộc sao?”
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở
về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: “Bởi đâu
ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ
ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh
em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy
bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?” Và họ lấy làm gai chướng về Người. Nhưng
Chúa Giêsu nói với họ: “Không có tiên tri nào được vinh dự nơi quê hương và nơi
nhà mình”. Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin. Đó là
lời Chúa.
Đức Giêsu về quê (1.5.2017 – Thứ hai: Lễ Thánh Giuse Thợ)
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết hẹp hòi, để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần bên.
Suy niệm:
Sau khi đã chịu phép Rửa, vào hoang địa để cầu nguyện,
ăn chay,
có một ngày nào đó, Đức Giêsu chia tay Đức Mẹ để lên
đường.
Lên đường là bỏ lại ngôi làng Nazareth dấu yêu với bao
kỷ niệm.
Chính tại đây Ngài đã sống hơn ba mươi năm trong bầu
khí gia đình.
Chính tại nơi này, Ngài đã lớn lên quân bình về thân
xác, trí tuệ, tâm linh.
Nazareth như một ngôi trường lớn, chuẩn bị cho Ngài
chững chạc đi sứ vụ.
Tại đây, Đức Giêsu đã là con bác thợ Giuse
(c. 55),
và đã trở thành thợ theo truyền thống cha truyền con
nối.
Ngài đã được dạy nghề và hành nghề để kiếm sống cho
bản thân và gia đình.
Đức Giêsu là một người thợ tại Nazareth, phục vụ cho
nhu cầu dân làng.
Ngài biết đến cái vất vả của công việc chân tay nặng
nhọc.
Đức Giêsu không thuộc giới trí thức, thượng lưu, quyền
quý.
Lao động làm Ngài gần với người nghèo và thấy sự đơn
sơ của tâm hồn họ.
Cũng tại Nazareth, đời sống cầu nguyện của Đức Giêsu
được nuôi dưỡng.
Ngài học được lối cầu nguyện một mình ở nơi vắng vẻ.
Đức Giêsu có khả năng thấy sự hiện diện yêu thương của
Cha nơi mọi sự,
nơi một bông hoa, nơi chim trời, nơi ánh nắng và cơn
mưa.
Tình thân của Con đối với Cha ngày càng trở nên sâu
đậm.
Ngài tìm ý Cha mỗi lúc và để Cha chi phối trọn vẹn đời
mình.
Hôm nay Đức Giêsu trở về làng cũ sau một thời gian đi
sứ vụ.
Ngài vào lại hội đường quen thuộc, gặp lại những khuôn
mặt đồng hương.
Không rõ trước đây có lần nào bác thợ Giêsu được mời
giảng ở đây chưa.
Nhưng lần này, khi trở về với tiếng tăm từ những phép
lạ làm ở nơi khác,
Đức Giêsu đã khiến dân làng sửng sốt vì sự khôn ngoan
trong lời giảng dạy.
Hai lần họ đặt câu hỏi: Bởi đâu ông ta được như thế?
(cc. 54. 56).
Một câu hỏi rất hay, nếu được tìm hiểu một cách nghiêm
túc.
Câu hỏi này có thể đưa họ đi rất xa, để gặp được căn
tính của Đức Giêsu.
Tiếc thay, dân làng Nazareth lại không quên được nghề
nghiệp của cha Ngài.
Họ nhớ rất rõ họ hàng gần xa của Ngài là mẹ và các anh
chị.
Họ có thể kể tên từng anh chị em của Ngài, vì đều là
bà con lối xóm (c. 55).
Đức Giêsu là người mà họ biết quá rõ từ thuở ấu thơ.
Làm sao con người bình thường, ít học đó lại có thể là
một vị ngôn sứ?
Làm sao từ ngôi làng Nazareth vô danh này lại xuất
hiện ngôn sứ được?
Và họ vấp ngã vì Đức Giêsu, nghĩa là họ đã không tin
vào Ngài.
Cái biết gần gũi của họ về Ngài lại trở nên thành kiến
khiến họ không thể tiến sâu hơn vào mầu nhiệm con
người Đức Giêsu.
Người đồng hương của Ngài đã không trả lời được câu
hỏi: Bởi đâu…?
Mỗi con người là một mầu nhiệm mà ta phải khám phá
mãi.
Có những mầu nhiệm lớn ẩn trong lớp áo tầm thường.
Dân làng Nazareth đã không nhận ra hồng phúc mà họ
đang hưởng.
Chúng ta cũng cần được giải thoát khỏi những cái biết
hẹp hòi,
để thấy mình hạnh phúc khi sống với người khác gần
bên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh
mong manh,
nơi một linh mục yếu
đuối,
trong một Hội thánh còn
nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê
bỏ,
để chúng con tập nhận ra
Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường
giữa lòng cuộc sống.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG NĂM
Sự Đảm Bảo Của
Thiên Chúa
Để hiểu dụ ngôn về Người
Mục Tử Tốt Lành, chúng ta cần xác tín khả năng quán thông trước mọi sự của
Thiên Chúa và giá trị vô hạn của chúng ta trước mặt Ngài: “Chúng sẽ không bao
giờ hư mất. Không ai cướp được chúng khỏi tay tôi … Không ai cướp được chúng khỏi
tay Chúa Cha” (Ga 10, 28 – 29). Lời khẳng định thật mạnh mẽ. Có thể nói, toàn bộ
tấn kịch cứu độ được phản ảnh trong những lời này.
Đức Kitô nói rõ: “Cha
tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì cao trọng hơn tất cả … Tôi và Chúa Cha là một”
(Ga 10, 29 – 30). Xuyên qua Thập Giá và Phục Sinh, mối hiệp nhất thần linh của
Chúa Cha và Chúa Con được bày tỏ trọn vẹn. Mối hiệp nhất này được diễn tả trong
công cuộc sáng tạo con người, trong sự quan phòng cứu độ của Thiên Chúa, và
trong hành động cứu chuộc của Ngài.
Trong hành động cứu
chuộc, một cách nào đó, Thiên Chúa dấn mình trọn vẹn để đảm bảo rằng những gì
mà Ngài đã tạo nên theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài sẽ không bị tước mất khỏi
Ngài. Thiên Chúa đảm bảo rằng hành động cứu độ của tình yêu vĩnh cửu ấy sẽ được
hoàn tất nơi con người.
Giáo Hội là chứng nhân
của tình yêu ấy. Giáo Hội là chứng nhân của công cuộc cứu độ con người được thực
hiện nơi Đức Kitô. Giáo Hội là chứng nhân của Mầu Nhiệm Phục Sinh – qua cuộc phục
sinh này, sứ mạng của Đấng Mục Tử Tốt Lành đã được thực hiện với tầm mức sâu xa
nhất. Trong Sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta nhận được cùng một lời chứng ấy khi
Phao-lô và Barnaba nhắc lại những lời trong Sách Ngôn Sứ Isaia: “Ta sẽ đặt
ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv
13, 47).
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 01 – 5
Thánh Giuse Thợ
Cv 6, 8-15; Ga 6,
22-29.
LỜI SUY NIỆM: “Chúng tôi phải
làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” Đức Giêsu trả lời: “Việc Thiên
Chúa muốn cho các ông làm là tin vào Đấng Người đã sai đến.”
Chúa Giêsu đang đòi hỏi
nơi mỗi người trong chúng ta phải học biết về Người và tin vào Người, mới là những
người thực hiện những việc Thiên Chúa muốn. Muốn đạt được điều này, mỗi người
chúng ta phải học biết nơi Tin Mừng: Mátthêu, Máccô, Luca, Gioan và cả Thánh
Phaolô. Với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần qua Giáo hội.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho
tất cả chúng con ham thích đọc Lời Chúa, suy niệm với ơn ban của Chúa Thánh Thần,
để chúng con biết áp dụng vào từng hoàn cảnh trong cuộc sống của chúng con, làm
cho đức tin của chúng con ngày càng được trưởng thành hơn.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 01-05: Thánh GIUSE THỢ
Thánh Giuse. Cả hai bản
của thánh Mathêu và thánh Luca, đều nói rằng: Ngài thuộc giòng họ David. Nhưng
vào thời khởi đầu công nguyên, miêu duệ cùng giòng giống vương giả này chẳng
còn danh giá và giàu có gì. Vài điều chúng ta biết được về thánh Giuse qua việc
dâng Chúa Giêsu vào đền thờ (Lc 2,24), cho biết rằng Ngài là một người nghèo
khó, không có đặc quyền nào. Gia đình Ngài vốn thuộc về Belem đất Giudêa, nhưng
đã dời về Nazareth đất Galilea nơi Ngài sinh sống bằng nghề thợ mộc (Mt 13,55).
Con người bình thường
được nhắc tới với một chút khinh thường như "bác thợ mộc" ấy lại là
gương mẫu cho mọi Kitô hữu và cách riêng cho những Kitô hữu sống nghề lao động
tay chân. Ngài thật là người công chính như một dụng cụ nhẫn nại của Thiên
Chúa, thực hiện mọi điều Chúa đòi hỏi với một đức tin không nghi nan. Ngài sốt
sắng tuân giữ luật Do thái, trung thành bảo vệ gia đình, Ngài có trách nhiệm,
chấp nhận mọi khó khăn mau mắn vâng theo lệnh truyền, vững chí dưới cơn thử
thách, luôn lặng lẽ đáng kính phục. Nhân tính hấp dẫn của Chúa Kitô với tính
cương trực, lòng can dảm và đức bác ái sâu xa, chắc chắn đã được phát triển
theo gương mẫu và sự nuôi dưỡng Người nhận được từ Thánh cả Giuse.
Dầu vậy, sự cao cả của
thánh nhân ở một mức độ sâu xa hơn từ ngữ vẫn áp dụng cho Người là "Cha
nuôi Chúa Giêsu". Từ ngữ này gợi lên một liên hệ bóng gió nào đó với Chúa
Kitô. Đúng hơn có lẽ phải nói rằng thánh Giuse là Cha của Chúa Giêsu như các
sách Tin Mừng đã là ngần ngại nói như vậy, Chúa Giêsu thực là hoa quả của cuộc
hôn nhân mà thánh Giuse giữ vai trò thiết yếu. Nếu tình phụ tử của Ngài là
trinh khiết thì không phải vì thế mà mối tình ấy thấp hèn hơn tình phụ tử về thể
xác. Liên hệ của người cha trinh khiết với Chúa Giêsu cũng tương tự như mối
liên hệ của Người Mẹ Trinh khiết đối với Người. Cả Đức Mẹ và thánh Giuse đều
góp phần hoàn hảo của mình vào mầu nhiệm nhập thể. Phần đóng góp này còn mở rộng
tới thân thể mầu nhiệm của Ngôi Lời hoá thành nhục thể là Giáo hội. Thánh Giuse
vẫn tiếp tục vai trò của mình trong việc nuôi dưỡng bảo vệ và hướng dẫn Giáo hội.
Bởi đó năm 1870, Đức
Giáo Hoàng Piô IX tuyên xưng thánh Giuse là Đấng bảo trợ của cả Hội Thánh khắp
hoàn cầu. Và đặt lễ kính vào ngày 19 tháng 3 mỗi năm.
Từ vai trò đặc biệt của
thánh Giuse đối với toàn thể Hội Thánh, thánh nhân chắc chắn cũng liên hệ đến từng
người trong thân thể mầu nhiệm này. Thánh nhân đã thi hành sứ mạng của mình
trong cuộc sống lao động như người thợ. Do đó, Ngài có một mối liên hệ đặc biệt
với lớp người đông đảo sống bằng sức lao động chân tay của mình. Năm 1955, Đức
Piô XII đã lập nên lễ thánh Giuse và đặt ngày kính nhớ vào mồng 1 tháng 5, ngày
mà nhiều nước chọn cử hành lễ lao động. Niên biểu không hoàn toàn phổ quát nên
lễ thánh Giuse Thợ cũng được để tự do.
Tuy nhiên, chính Đức
Giáo Hoàng đã nói tới ý nghĩa của lễ này : - "Chắc hẳn chúng ta phải hân
hoan vì Người thợ vô danh ở Nazareth chẳng những là hiện thân cho giá trị lao động
tay chân trước mặt Chúa và Giáo hội mà còn là vị Giám hộ mẫn tiệp của mọi người
và của các gia đình các bạn lao động nữa".
Để nói về quyền năng của
Đấng bảo trợ, Ngài tiếp : - "Không có Vị Giám hộ nào có đủ khả năng Linh
nghiệm truyền thông Phúc âm cho đời sống thợ thuyền hơn bằng thánh Giuse thợ"
Mừng lễ thánh Giuse thợ,
chúng ta hãy nhớ lời vị Cha chung, Đức Piô XII nhắn nhủ, trong bài diễn văn đọc
vào ngày lễ thánh Giuse thợ đầu tiên này : - "Nếu các con muốn được gần
Chúa Kitô, Cha nhắc nhớ các con hôm nay : Ite ad Joseph - Hãy đến với
Giuse" (St 41,55)
(daminhvn.net)
01 tháng Năm
Giuse Trong Xóm Nhỏ Ðiêu Tàn
"Giuse trong xóm nhỏ điêu tàn..."
Có lẽ không một người công giáo Việt Nam nào mà không thuộc nằm lòng bài
thánh ca trên đây của cố linh mục Ðạo Minh, dòng thánh Giuse... Tác giả đã sáng
tác ca khúc trong giai đoạn đau thương của đất nước giữa hai thập niên 40 - 50
và cũng như thánh Giuse, đã ra đi âm thầm trong một cái chết vô cùng bí ẩn sau
ngày thay đổi chế độ.
Lời ca đơn sơ xuất
phát từ cuộc sống lam lũ qua mọi thời đại của người Việt Nam. Nhưng tâm
tình đó lại càng hợp với hoàn cảnh sống của người Việt Nam hơn bao giờ
hết. Với khẩu hiệu lao động là vinh quang... dường như sau năm 1975, người Việt Nam nào
cũng đã hơn một lầm mồ hôi nhễ nhại với cây cuốc, cái cày hoặc còng lưng trên
chiếc xích lô đạp...
Trong cảnh sống đó,
có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy gần gũi với thánh Giuse, vị thánh được mệnh
danh là người công chính, nhưng đồng thời cũng là con người thinh lặng nhất
trong Phúc Âm. Có rất nhiều thứ thinh lặng. Thinh lặng của những người câm điếc,
bị trói buộc trong bất lực tự nhiên của mình. Thinh lặng trong cô đơn buồn
chán. Thinh lặng trong căm thù oán ghét. Thinh lặng trong khép kín ích kỷ. Thinh
lặng trong kiêu hãnh trước đe dọa, thử thách...
Thánh Giuse đã
thinh lặng trong tinh thần chấp nhận và chiêm niệm. Trong cuộc sống âm thầm tại
Nagiaréth, thánh Giuse đã thinh lặng để chiêm ngưỡng mầu nhiệm nhập thể kỳ diệu
trong con người của Chúa Giêsu. Cuộc đời của thánh Giuse đã bắt đầu bằng một giấc
mơ để rồi tiếp tục trong một giấc mơ triền miên. Nhưng đây không phải là một giấc
mơ của mộng ảo phù du, mà là một giấc mơ trong chiêm niệm về hiện thực...
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Trong sự thinh lặng chiêm niệm ấy, từng biến cố nhỏ của cuộc sống đã mang nặng sự hiện diện và tác động của Thiên Chúa.
Hôm nay là ngày lao động
Quốc tế. Ngày lao động Quốc tế này gợi lại cả một quá trình tranh đấu của giới
thợ thuyền của Âu Châu vào đầu thế kỷ vừa qua. Từ những bất công xã hội, cuộc đấu
tranh của giới thợ thuyền đã làm trồi dậy phẩm giá của con người và giá trị của
sự cần lao...
Ðối với người Kitô,
ngày Quốc tế lao động này gắn liền với con người của Thánh cả Giuse, quan thầy
và gương mẫu của giới cần lao. Do đó ngày hôm nay đối với chúng ta phải là một
ngày của suy tư và cầu nguyện. Suy tư về ý nghĩa và giá trị những công việc hằng
ngày của chúng ta. Cầu nguyện cho mọi người biết nhận ra sự hiện diện và tác động
và lời kêu mời của Chúa trong cuộc sống...
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét