Trang

Thứ Bảy, 21 tháng 10, 2017

22-10-2017 : (phần II) CHÚA NHẬT XXIX THƯỜNG NIÊN năm A - KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

22/10/2017
Chúa Nhật 29 thường niên năm A.
Khánh Nhật Truyền Giáo.
CẦU CHO VIỆC RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO CÁC DÂN TỘC
(phần II)


HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN A - CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO

Xh 22,20-26; 1 Tx 1,5c-10; Mt 28,16-20

ĐỂ CHU TOÀN SỨ VỤ RA ĐI THÂU NẠP MÔN ĐỆ CHO CHÚA

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20

(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. c 18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

2. Ý CHÍNH: LỆNH CUỐI CÙNG CỦA CHÚA PHỤC SINH:

Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra lần cuối cùng với các môn đệ trên một ngọn núi tại Ga-li-lê. Trước khi lên trời, Người đã trao cho các ông sứ mệnh đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người, làm phép rửa tội cho những ai có đức tin nhân Danh Thiên Chúa Ba Ngôi. Người cũng truyền cho các ông sứ mệnh dạy các tín hữu phải giữ mọi huấn lệnh của Người và còn hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

3. CHÚ THÍCH:

- C 16-17: + Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai đã bị mất Giu-đa phản bội nên chỉ còn mười một ông (x. Mt 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Theo lời nhắn của hai thiên thần qua hai phụ nữ và lời của Chúa Phục Sinh nhắc lại vào buổi sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10), các môn đệ đã quay trở lại miền Ga-li-lê nhưng thiếu mất Giu-đa. Ga-li-lê là địa điểm truyền giáo chủ yếu của Đức Giê-su trong thời gian rao giảng Tin mừng. Qua việc ra lệnh cho các môn đệ trở về Ga-li-lê, Tin mừng Mát-thêu muốn nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Đức Giê-su lịch sử, tức là khi Người còn sống và rao giảng Tin Mừng, với Chúa Ki-tô của niềm tin, tức là sau khi Người đã từ cõi chết sống lại. + Đến ngọn núi: Tin mừng Mát-thêu không xác định là quả núi nào. Sách Công Vụ nói đó là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng cho nơi Thiên Chúa mặc khải cho các ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 1V 19,8-14). Trong Tin mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giê-su cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin mừng phổ quát cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). + Khi thấy Người, các ông bái lạy: Ở đây các môn đệ đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh qua thái độ bái lạy Người, giống như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11), người phong cùi bái lạy xin Đức Giê-su chữa lành (x. Mt 14,33), người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy để xin Đức Giê-su chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa Giê-su xem ra khó hiểu. Thực ra, đến lúc này mọi môn đệ đều đã tin Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết và không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng trước đó, sự nghi ngờ đã xuất hiện nhiều lần trong các trình thuật hiện ra khác, và mỗi lần sự hoài nghi đều được đánh tan bằng một cách thức khác nhau. Chẳng hạn: Chúa Phục Sinh đã ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41); Người thỏa mãn đòi hỏi được mắt thấy tay sờ của Tô-ma và trách ông cứng lòng tin (x. Ga 20,24). Ở đây, Chúa Giê-su đánh tan sự hoài nghi của một vài môn đệ bằng lời khằng định: Người đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Do đó, sự hòai nghi trong câu này ám chỉ sự hoài nghi của cộng đoàn Hội thánh nói chung. Từ nay các tín hữu không được đòi “Thấy rồi mới tin” như Tô-ma, nhưng phải dựa vào Lời Chúa và quyền năng của Người để củng cố đức tin như Lời Chúa phán: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20,29).

- C 18-19: + Đức Giê-su đến gần: Đến gần là một hành động tỏ ra sự ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa Thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giê-su Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Khởi đầu rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã từ chối nhận quyền Sa-tan hứa ban mọi nước thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây Người đã được Thiên Chúa ban cho tất cả. Thế là ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giê-su đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội thánh phải nhân Danh Chúa Giê-su mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ngòai việc rao giảng Tin Mừng để người ta tin theo, các môn đệ còn ban phép rửa nhân Danh Chúa Ba Ngôi để tái sinh họ làm con Thiên Chúa Ba Ngôi. + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Công việc đào tạo người ta nên môn đệ còn phải được tiếp tục sau phép rửa, bằng lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện trong Hội Thánh để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho đến đến khi Người lại đến vào ngày tận thế. Câu này cho thấy Đức Giê-su chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Is 7,14; Mt 1,23).

4. HỎI ĐÁP:

- HỎI 1: Mười một môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su truyền đến Ga-li-lê (x. Mt 28,10). Khi gặp Người, các ông đều bái lạy, nhưng có mấy ông vẫn còn hoài nghi (17). Phải chăng thái độ của các ông đã tỏ ra mâu thuẫn khi vừa bái lạy, lại vừa hoài nghi ?

ĐÁP:

Có hai ý kiến giải thích về sự hoài nghi của một số môn đệ lúc đó như sau:

1. Ý kiến thứ nhất: Ở đây các ông không hoài nghi việc Chúa đã sống lại, nhưng hoài nghi không biết người đang tiến lại gần kia có phải là Chúa Giê-su hay không. Giống như trường hợp Ma-ri-a Mác-đa-la lầm tưởng Người là ông làm vườn (x. Ga 20,15), hoặc như hai môn đệ làng Em-mau tưởng Người là một lữ khách cùng đi trên đường với mình (x. Lc 24,15-16). Tuy nhiên lời giải thích này vẫn khó hiểu. Vì các ông đã bái lạy tức là đã nhận ra Chúa Phục sinh rồi, thì tại sao lại còn hoài nghi không biết có phải là Thầy hay không?

2. Ý kiến thứ hai: Mát-thêu cần phải nói đến sự hoài nghi trước khi các ông đạt được lòng tin đầy đủ. Vì không tường thuật các cuộc hiện ra khác, nên không có cơ hội đề cập đến sự hoài nghi của các môn đệ trước khi các ông hoàn toàn tin Thầy sống lại, như các Tin Mừng khác đều có nói đến. Vì thế Mát-thêu đã phải đặt sự hoài nghi vào lúc này, không phải đúng như thái độ của các ông khi ấy, nhưng là của các ông trong một lúc nào đó trước khi các ông đạt tới đức tin trọn vẹn. Như vậy, chúng ta có thể coi đây là như một sự trục trặc về cách hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng.

- HỎI 2: So sánh lệnh truyền của Mát-thêu với lệnh truyền của Chúa Giê-su trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 1,8), có sự khác biệt về tính phổ quát của công cuộc truyền giáo và công thức rửa tội: Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Phải chăng lời Đức Giê-su ra lệnh cho các môn đệ trong Tin Mừng Mát-thêu đã được Hội Thánh sau này thêm vào để chứng minh cho giáo lý về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?

ĐÁP:

Thực ra theo Lu-ca, tác giả sách Công Vụ TĐ thì Hội Thánh sơ khai đã phải trải qua nhiều kinh nghiệm mới nhận thức hết ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát là đến với muôn dân. Rồi trong Công Vụ TĐ chúng ta chỉ thấy nói tới việc rửa tội “Nhân danh Đức Giê-su” (x. Cv 2,38; 10,48). Từ những nhận định trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: mệnh lệnh phổ quát đã được Đức Giê-su ban bố, nhưng lệnh đó chỉ được sáng tỏ dần dần do ơn soi dẫn của Thánh Thần (x. Ga 16,12-13). Nhờ trải qua kinh nghiệm sống, Hội Thánh đã dần nhận ra ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát đó. Đến khi Tin Mừng được soạn thảo, thánh Má-thêu đã dùng công thức rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà Hội thánh được“Thần khí Sự Thật” dạy dỗ, đã đưa vào trong công thức phụng vụ phép rửa, thay cho công thức rửa tội “nhân danh” Chúa Giê-su” như sách Công Vụ thuật lại.

- HỎI 3: Sau khi truyền cho các môn đệ “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, Đức Giê-su đòi các ông: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (19-20). Phải chăng Chúa muốn các ông hãy rửa tội cho người ta trước rồi mới dạy dỗ sau ?

ĐÁP:

- Công việc cứu thế của Đức Giê-su được Tin Mừng Mát-thêu mô tả gồm có bốn việc mà Người trao cho Hội Thánh thực hiện như sau:

Một là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (x. Mt 4,23; 7,28-29).

Hai là chữa lành các bệnh tật. Chẳng hạn: bệnh phong (x. Mt 8,3), tê liệt (x. Mt 8,6.13), cảm sốt (x. Mt 8,15), băng huyết (x. Mt 9,20-22), phục sinh bé gái (x. Mt 9,25), chữa bệnh mù lòa (x. Mt 9,29), và nhiều bệnh khác (x. Mt 15,30-31)...

Ba là trừ quỷ. Chẳng hạn: xua đuổi ma quỷ khỏi người bị nó ám (x. Mt 8,16), trừ quỷ câm (x. Mt 9,32-33), bắt quỷ kinh phong phải xuất ra (x Mt 17,15-18)…
Bốn là dạy dỗ. Hãy dạy tân tòng tuân giữ mọi huấn lệnh của Chúa truyền (x. Mt 28,20).

- Lời Chúa dạy nói trên chỉ muốn diễn giải sứ mệnh “đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân” gồm hai việc phải làm là rửa tội và giảng dạy, chứ không buộc phải theo thứ tự trước sau giữa việc rửa tội và việc giảng dạy. Theo truyền thống từ thời sơ khai, Hội Thánh đã luôn giảng dạy trước để chuẩn bị tâm hồn dự tòng rồi khi họ hiểu biết và tuyên xưng đức tin mới ban phép rửa tội dìm mình trong nước cho họ như Phi-líp-phê đã làm cho viên thái giám được thuật lại trong sách Công vụ tông đồ (x. Cv 8,26-40). Sách Đi-đa-kê đã chỉ dẫn việc cử hành phụng vụ phép rửa tội như sau : “Sau khi đã nói tất cả những điều đó, hãy rửa tội…” (Didaché 7,1).

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).

2. CÂU CHUYỆN:

1) TRUYỀN GIÁO LÀ THẮP SÁNG NGỌN LỬA TIN YÊU TRONG LÒNG MỌI NGƯỜI:

Mẹ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA là một nữ tu người An-ba-ni, được nhà dòng sai đến phục vụ người nghèo tại nước Ấn Độ. Khi tận mắt chứng kiến rất nhiều người quá nghèo khổ, trải qua giờ phút hấp hối trên lề đường, sau khi chết bị thiêu hủy như một con vật; bao gia đình phải sống trong các túp lều ổ chuột... Mẹ đã chọn con đường tu hành bằng việc thực thi tình thương cụ thể là tìm kiếm chăm sóc những người cô đơn nghèo khổ, bệnh tật và bị bỏ rơi.
Một hôm, khi đi thăm một ông lão sống cô đơn trong căn lều tồi tàn bẩn thỉu mà toàn bộ đồ đạc trong nhà là một mớ hỗn độn. Ông ta lại có lối sống khép kín, không muốn trả lời những lời hỏi thăm. Mẹ xin phép ông dọn dẹp căn lều cho sạch sẽ mà ông cũng làm thinh. Trong lúc dọn dẹp, Mẹ thấy một cây đèn dầu bụi bám đen xì nằm ở góc nhà. Sau khi được lau chùi, Mẹ liền kêu lên: “Ồ, cây đèn đẹp quá !”. Ông già nói: Đó là cây đèn tôi đã tặng vợ tôi sau ngày cưới. Từ khi bà ấy qua đời, tôi cũng không bao giờ đốt đèn lên nữa. Thấy ông đã bắt đầu cởi mở, Mẹ Tê-rê-sa liền đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị em nữ tu mỗi ngày đều đến thăm và đốt đèn cho ông không? Và ông đã đồng ý. Từ ngày đó, vào mỗi buổi chiều, các chị em nữ tu đều thay nhau tới thăm, giúp ông dọn dẹp nhà cửa và nói chuyện với ông. Ngọn đèn bắt đầu cháy sáng trong căn lều sạch sẽ ấm áp. Ông lão cũng trở nên vui vẻ hơn. Ông bắt đầu đi ra ngoài nhà thăm hỏi hàng xóm, và nhiều người cũng đến viếng thăm, khiến con tim của ông lão đã vui trở lại.

Mẹ Tê-rê-sa cứ miệt mài phục vụ người nghèo: Mẹ lập ra những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn sóc giúp họ chết an lành và được chôn cất như một con người. Mẹ lập những trại cô nhi nuôi trẻ mồ côi, xây những bệnh viện và trường học miễn phí. Số người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ đã lập ra dòng Nữ Tử Thừa Sai Bác Ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện nay dòng này  đã có mặt trong 132 quốc gia và Mẹ đã được cả thế giới biết đến. Mẹ được trao nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, Mẹ qua đời, đã có 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có cả phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, tuyệt đại đa số dân theo Ấn giáo, vốn không ưa gì đạo Công giáo, đã cho chôn cất Mẹ theo nghi thức quốc tang với hai mươi mốt phát súng đại bác để tiễn đưa linh hồn Mẹ Tê-rê-sa về trời.

Mẹ Tê-rê-sa đã định nghĩa thế nào là một nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu Ki-tô say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ Tê-rê-sa không những làm cho người ta nhận biết và yêu mến Chúa Giê-su bằng việc nói về Chúa Giêsu, diễn tả khuôn mặt của Chúa Giê-su bằng cuộc sống yêu thương phục vụ của mình. Như vậy, Mẹ Têrêxa chính là một nhà truyền giáo vĩ đại trong thế kỷ 20, vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn cháy sáng tin yêu giữa bóng đêm hưởng thụ lạc thú bất chính và thù hận chém giết nhau, Mẹ đã thắp lên ngọn đèn giúp mọi người nhìn nhau là anh em, là con cùng một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa.

2) MỘT BÀI GIẢNG BIẾT ĐI

EN-BỚT SUÝT-DƠ (Enbert Schweitser) vừa là một bác sĩ lừng danh lại vừa là một vị thừa sai truyền giáo. Ông đã tình nguyện sang tận Phi Châu để truyền giáo. Tại đây, ông đã dùng tài sản để xây dựng các bệnh viện miễn phí cho người nghèo, rồi giới thiệu Thiên Chúa là tình thương cho bệnh nhân cùng các thân nhân của họ qua việc tận tình chữa bệnh. Công việc bác ái của ông đã được nhiều người biết đến và hết lời ca ngợi. Ông đã được giải No-bel hòa bình vì đã có công đem lại hạnh phúc cho người nghèo tại Phi Châu. Câu chuyện sau đây cho thấy tinh thần bác ái của ông có một sức mạnh lớn lao, giống như một BÀI GIẢNG BIẾT ĐI như sau:

Vào một buổi chiều nọ, người ta thấy một đám người rất đông tụ tập nơi nhà ga xe lửa của thành phổ Chi-kê-gô (Chicago) Hoa kỳ, để đón chào một nhân vật nổi tiếng, mới được nhận giải Nô-ben hòa bình năm 1952. Người vừa bước xuống khỏi toa xe lửa là một người đàn ông cao lớn tóc húi cua, trên khuôn mặt phúc hậu của ông có một chòm râu được cắt tỉa cẩn thận. Bấy giờ các phóng viên mà một số nhân vật cao cấp của thành phố đang đứng chờ ở gần cửa toa xe hạng nhất. Khi vị thượng khách xuất hiện, các phóng viên liền bấm máy chụp liên hồi, đang khi đám đông vỗ tay reo hò. Ông khách quý đã cười thật tươi và cúi đầu đáp lễ mọi người. Còn các vị lãnh đạo thành phố thì dang rộng đôi tay để chào đón người mới đươc giải thưởng Nô-ben hòa bình. Nhưng bỗng nhiên, vị khách kia quay mặt nhìn về phía cuối sân ga và vội vã vượt qua đám đông đứng vây quanh, tiến đến gần một người đàn bà lớn tuổi. Bà này hai tay đang xách hai chiếc va-li khá nặng. Khi đến nơi, vị khách quý mỉm cười với bà và đưa tay ra đỡ cho bà ta một chiếc va-li, rồi hai người đi đến một chiếc xe buýt đậu gần đó. Sau khi người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Khi quay trở lại đám đông đang đợi mình, ông nhỏ nhẹ nói: “Xin lỗi quí vị. Tôi rất tiếc đã để quý vị phải chờ đợi”. Người đàn ông với cử chỉ đẹp đó không ai khác hơn là bác sĩ EN-BỚT SUÝT-DƠ (Anbert Schweitser), một nhà truyền giáo nổi tiếng, đã cống hiến cả cuộc đời phục vụ những người nghèo khổ tại Phi Châu. Một thành viên trong ban tổ chức cuộc tiếp đón chứng kiến hành động của Suýt-dơ ở sân ga hôm đó, đã phát biểu cảm tưởng với các phóng viên rằng: “Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đã được chứng kiến một bài giảng biết đi”.

3) GƯƠNG NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO CỦA MỘT VIÊN GIÁM ĐỐC HÀN QUỐC:

Có một người Hàn quốc đã sang Việt Nam mở một doanh nghiệp làm ăn kinh tế tai thủ đô Hà nội. Doanh nghiệp của ông có 50 công nhân, trong đó cũng có mấy người Công giáo. Một hôm viên giám đốc hỏi mấy người công nhân Công giáo : Các anh là đạo gốc, thế các anh đã truyền giáo được cho người nào chưa ?” Họ trả lời rằng: “Chúng cháu giữ đạo còn chưa xong, làm sao dám nghĩ đến việc truyền giáo cho ai khác được”. Bấy giờ ông chủ Hàn quốc liền nói: “Thế là các cậu đã thua tôi rồi. Tôi chỉ là người tân tòng theo đạo từ khi lập gia đình, và mới sang Việt Nam được 3 năm nay. Thế mà tôi đã mời gọi được hai người Việt Nam học giáo lý để được gia nhập vào đạo công giáo rồi đó”.

3. SUY NIỆM: ĐẾN VỚI MUÔN DÂN

1) LỆNH TRUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU:

Hôm ấy, mười một môn đệ Đức Giê-su đã trở về Ga-li-lê như Chúa Phục Sinh đã hẹn qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x.Mt 28,10). Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ ba điều  như sau:

- Một là: Người đã được trao “Toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18): Điều này nhắc chúng ta nhớ lại khi Đức Giê-su bị cám dỗ, tên cám dỗ đã nói với người rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Nhưng Người đã không theo lời xúi giục của nó. Bây giờ, Chúa Cha đã ban cho Người chẳng những các nước thế gian, mà còn có “toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18).

- Hai là: Người ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19): Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su dạy các ông chỉ đi loan báo Tin Mừng cho dân Ít-ra-en, vì đây là dân Chúa chọn có quyền ưu tiên (x. Mt 10,5-7). Nhưng bên cạnh đó, Người cũng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại và làm phép lạ cứu giúp những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. Chẳng hạn: Viên đại đội trưởng ngoại giáo có đức tin mạnh đã được Người chữa cho đầy tớ của ông khỏi bệnh tê liệt (x. Mt 8,5-13); Người đàn bà Ca-na-an có đức tin mạnh đã được Đức Giê-su trục xuất quỷ ra khỏi đứa con gái của bà (x. Mt 15,28).

- Ba là: Người hứa “sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20): Ngày xưa Đức Chúa đã hứa ở với Mô-sê khi sai ông đi cứu dân Ít-ra-en khỏi tay Pha-ra-ô của Ai-Cập như sau: “Ta sẽ ở với người” (Xh 3,12). Ngày nay, Đức Giê-su cũng hứa ở cùng các môn đệ để giúp các ông chu toàn nhiệm vụ được Người trao phó. Cũng như Mô-sê xưa nhờ được Đức Chúa hiện diện phù giúp đã đưa được dân Ít-ra-en thoát cảnh nô lệ cho dân Ai-Cập về tới Hứa Địa, thì nay với sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, các môn đệ cũng sẽ thành công trong sứ mệnh “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người”.


2) TRUYỀN GIÁO LÀ RA ĐI, LẮNG NGHE , VÀ CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ:

Nhân ngày Chúa Nhật Truyền Giáo, Đức Phan-xi-cô đã dựa theo sách Công Vụ Tông Đồ dạy về tiến trình ba bước loan báo Tin Mừng nhờ ơn Thánh Thần, qua câu chuyện tông đồ Phi-líp-phê thực hiện với viên thái giám người xứ Ê-thi-ô-pi như sau:

-Bước một: “Hãy đứng lên và ra đi”:

Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-lip-phê: “Hãy đứng lên và ra đi” (x. Cv 8,26) . Ngày nay, để trung thành với huấn lệnh của Chúa, Hội Thánh cũng phải lắng nghe huấn lệnh của Chúa Giê-su với ơn Thánh Thần thôi thúc, để ra đi loan báo Tin Mừng. Một Hội Thánh không “đứng lên và ra đi” là một Hội Thánh đang suy yếu bệnh tật.

- Bước hai: “Hãy lắng nghe sự thao thức của tha nhân” và chia sẻ niềm vui của Tin Mừng:

Thần Khí ra lệnh cho ông Phi-líp-phê chạy theo xe ngựa của quan thái giám người Ê-thi-ô-pi. Ông quan này đã đi hành hương Giê-ru-sa-lem và đang trên đường về quê nhà. Ông đang đọc đoạn sách ngôn sứ I-sai-a. Khi thấy Phi-líp-phê chạy theo xe mình, viên thái giám liền dừng xe mời ông lên xe với mình. Trong câu chuyện, theo yêu cầu của viên thái giám, Phi-líp-phê đã trình bày về Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai cho ông. Nhờ được Thần Khí tác động, viên thái giám đã tin vào lời Phi-lip-phê giảng và khi xe ngang qua chỗ có nước, ông đã yêu cầu được nhập đạo. Ông tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su Ki-tô là Con Thiên Chúa, và được Phi-lip-phê làm phép rửa dìm mình trong nước. Sau đó, Thần Khí đã đưa Phi-líp-phê rời đi nơi khác, còn viên thái giám lại tiếp tục cuộc hành trình về quê nhà trong niềm hân hoan (x. Cv 8,27-40).

Ngày nay Hội Thánh cũng cần phải lắng nghe sự thao thức của con người thời đại để biết họ nghĩ gì muốn gì, rồi tìm cách đáp ứng bằng cách chia sẻ niềm vui ơn cứu độ của Chúa cho họ.

Tóm lại Đức Phan-xi-cô đã khuyên các tín hữu hãy truyền giáo bằng ba việc: “Hãy đứng lên và ra đi; Hãy lắng nghe thao thức của tha nhân; Hãy chia sẻ niềm vui Tin Mừng của Chúa cho họ”.

3) TRUYỀN GIÁO CHÍNH LÀ TRUYỀN NGỌN LỬA YÊU THƯƠNG

- Trong đêm Vọng Phục Sinh, lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự đều được thắp lên.

- Loan Tin Mừng cũng là thắp lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa Giê-su thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin, lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần được tiếp nối không ngừng.

- Thánh Tê-rê-sa Can-quýt-ta cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng không chủ trương yêu thương chung chung, nhưng là yêu thương từng người cụ thể ngay ở bên mình.

Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là người duy nhất trên thế gian mà ta cần yêu thương trọn vẹn trong giây phút đó.”
Với tâm tình nầy, Mẹ Tê-rê-sa đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo Hội Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mười năm!

Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.

Mỗi gia đình công giáo nên kết thân với một gia đình lương dân, coi họ như người thân quyến của mình để sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi; Khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ cùng đến hiệp thông. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và nhờ đó, Tin Mừng của Chúa Ki-tô sẽ chiếu sáng như ánh nến trong đêm Vọng Phục Sinh.

4) CỤ THỂ CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ? :

- Đừng “đứng nhìn lên trời”: Hãy xuống núi để chu toàn sứ mệnh loan báo Tin Mừng bằng việc ăn ở công minh chính trực, chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhất là bằng thái độ biết nghĩ tới người khác và đáp ứng nhu cầu của họ, khiêm nhường phục vụ những người đau khổ bất hạnh. Ngoài ra còn phải dấn thân đến với những anh em chưa biết Chúa, để hợp tác cải thiện xã hội và sãn sàng chia sẻ “Chúa là Tình Yêu” cho tha nhân.

- Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ : Ngày nay, khi lãnh nhận phép rửa tội và thêm sức, chúng ta cũng đón nhận ánh sáng Tin Mừng và có sứ mệnh chiếu ánh sáng đức tin trong môi trường sống là khu xóm, trường học, chợ búa, cơ quan xí nghiệp, và hết mọi nơi. Chu toàn sứ mệnh sống chứng nhân, chia sẻ niềm tin về Chúa Giê-su đã chết và sống lại.

- Hãy lãnh nhận Thánh Thần (x. Ga 20,21-22): Sứ mệnh truyền giáo thật là khó khăn như kinh nghiệm của Hội Thánh suốt hơn hai mươi thế kỷ qua đã chứng minh. Để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh truyền giáo, Đức Giê-su đã hứa ban Thánh Thần để giúp Hội Thánh hiểu biết sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,7.13). Vào buổi chiều ngày phục sinh, Đức Giê-su đã hiện đến với các môn đệ và sai các ông giống như Chúa Cha đã sai Người. Người thổi hơi ban Thần Khí cho các ông và phán : “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Người hiện ra nhiều lần để củng cố đức tin cho các ông. Rồi vào lễ Ngũ Tuần, Thánh Thần đã tác động như cơn gió bão ùa vào nhà tiệc ly và đổ ơn Thánh Thần trên đầu mỗi vị (x. Cv 2,1-4). Nhờ ơn Thánh Thần soi dẫn phù trợ mà chỉ sau một bài giảng của Tông đồ Phê-rô, đã có tới ba ngàn người tại Giê-ru-sa-lem xin nhập đạo (x. Cv 2,41).

- Hãy kết nghĩa với lương dân:

Năm 1983, khi thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đi thăm Giáo Hội Hàn quốc và tấn phong 103 thánh tử đạo người nước này, thì Giáo Hội Hàn quốc mới chỉ có 3 triệu rưỡi tín hữu. Khi ấy Đức Hồng Y Stephano Kim đã hứa với Đức Thánh Cha sẽ đẩy mạnh công việc truyền giáo bằng hoạt động cụ thể như sau: mỗi gia đình Công giáo Hàn quốc cần kết nghĩa với một gia đình lương, và mỗi tín hữu Hàn quốc cần có ý hướng truyền giáo cho một anh chị em ngoài Công giáo.

Sự kết nghĩa thiêng liêng thể hiện bằng việc âm thầm cầu nguyện cho anh em lương dân, năng đến thăm giúp đỡ để gây thiện cảm với họ và tìm dịp thuận tiện giới thiệu Chúa cho họ. Chính công việc này đã mang lại kết quả tốt đẹp: Chỉ sau 10 năm, số tín hữu công giáo Hàn quốc đã tăng lên gấp đôi !

Ngày nay, nếu chúng ta quyết tâm chu toàn sứ mệnh truyền giáo và áp dụng các phương thế của các môn đệ thời Hội Thánh Sơ Khai là: cộng tác với ơn Thánh Thần, hăng hái ra đi loan báo Tin Mừng bằng lời nói và bằng lối sống yêu thương cụ thể… thì chắc chắn chúng ta sẽ chu toàn được sứ mệnh truyền giáo như sau : “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19); “Hãy nên chứng nhân của Thầy… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

4. THẢO LUẬN:

1) Đối với những “Ki-tô hữu vô danh” là những người đã có đức tin và muốn theo đạo, nhưng vì hoàn cảnh như là con trai trưởng phải lo cúng giỗ cha mẹ, nên chưa thể gia nhập đạo ngay, chúng ta nên làm gì để giúp họ sống đức tin vào Chúa ?

2) Nếu họ chết khi chưa chịu phép rửa tội, thì họ có được ơn cứu độ không ? (x. Lc 23,40-43).

5. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...

Lạy Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh, con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con được thực hiện. (Theo thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
www.tgpsaigon.net

SCĐ CHÚA NHỰT XXIX THƯỜNG NIÊN  A
CHỦ ĐỀ :
BỔN PHẬN ĐỐI VỚI
THẾ QUYỀN VÀ THẦN QUYỀN

"Của Xêda trả về Xêda. Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa" (Mt 22,21)
Sợi chỉ đỏ : Tín hữu có hai bổn phận, một đối với thế quyền và một đối với Thiên Chúa. Thiếu sót một trong hai cũng đều là có lỗi.
- Bài đọc I : Vua Cyrô là người được Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài.
- Đáp ca : Thiên Chúa mới là Vua thật trên các bậc vua chúa trần gian.
- Tin Mừng : Trả lời cho những người tìm cách bắt bẻ Ngài về việc nộp thuế cho vua Xêda, Đức Giêsu nhắc họ hãy lo chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa nữa : "Của Xêda hãy trả cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa".
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
"Sống Phúc âm giữa lòng dân tộc", đó là phương châm mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đề ra cho mỗi người giáo dân Việt Nam.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta cầu xin Chúa giúp chúng ta chu toàn hai bổn phận đối với Chúa và đới với tổ quốc.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Vì ích kỷ, chúng ta không góp phần xây dựng xã hội và đất nước.
- Vì mải mê lo việc thế gian, chúng ta sao lãng bổn phận đối với Chúa.
- Lẽ ra vì có ánh sáng Tin Mừng hướng dẫn, chúng ta phải là một công dân gương mẫu, nhưng chúng ta chưa được như thế.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 45,1.4-6)
Bối cảnh lịch sử : Năm 587, đế quốc Babylon xâm chiếm Giêrusalem, bắt dân do thái đi đày. Gần 50 năm sau, đế quốc Babylon sụp đổ và đế quốc Ba Tư dành ngôi bá chủ. Vua của Ba Tư lúc đó là Cyrô. Vừa mới chiến thắng Babylon xong, năm 538, Cyrô ra sắc chỉ cho dân do thái được hồi hương.
Mặc dù Cyrô là một người ngoại không hề thờ kính Thiên Chúa, nhưng ngôn sứ Isaia lại coi ông là người được Thiên Chúa dùng : chính Thiên Chúa trao quyền cho ông, Thiên Chúa cho ông thống trị các dân, và Thiên Chúa xui lòng ông cho dân Chúa được hồi hương. Tóm lại, Cyrô là dụng cụ Chúa dùng để thực hiện chương trình của Ngài. Vì thế, cuối đoạn trích này, Isaia nhấn mạnh : "Ta là Chúa và chẳng có chúa nào khác".
2. Đáp ca (Tv 95)
Tv này ca tụng Thiên Chúa với tư cách là Vua và Chúa tể duy nhất đích thực của muôn dân. So với Ngài, các vua chúa trần gian đều là hư ảo.
3. Tin Mừng (Mt 22,15-21)
Bình thường, phái Pharisêu và nhóm Hêrôđê không thuận nhau, bởi một bên (nhóm Hêrôđê) thì chạy theo chính quyền Rôma đang đô hộ xứ Palestine, còn bên kia (phái Pharisêu) thì chống lại quân đô hộ. Nhưng hôm nay hai nhóm này liên minh nhau để chất vấn Đức Giêsu nhằm tìm được cơ hội làm hại Ngài.
Vấn đề họ đem ra chất vấn Đức Giêsu là "Có được phép nộp thuế cho Xêda không ?" Đây là một cái bẫy thâm độc, vì nếu Đức Giêsu trả lời "Có" thì nhóm Pharisêu sẽ kết án Ngài là phản quốc ; còn nếu Ngài nói "không" thì nhóm Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài là phản động.
Với câu trả lời "Của Xêda trả cho Xêda, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa", Đức Giêsu chẳng những không mắc bẫy họ, mà còn dạy lại họ một bài học : đừng chỉ mải mê lo chuyện chính trị, mà hãy lo chu toàn một bổn phận khác còn quan trọng hơn nhiều, đó là bổn phận đối với Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Tx 1,1-5b) (Chủ đề phụ)
* Từ Chúa nhựt này, bài đọc II được trích từ thư thứ nhất Thánh Phaolô gửi tín hữu Thêxalônikê. (Xin xem bài giới thiệu tổng quát về thư 1 Thêxalônikê, ngay sau bài này)
Thêxalônikê là một giáo đoàn non trẻ mà Phaolô rất lo lắng cho :
- Non trẻ : Phaolô thành lập giáo đoàn này vào năm 50 trong chuyến truyền giáo thứ hai. Nhiều người đã đón nhận Tin Mừng và lập thành một cộng đoàn sống động với đức tin cậy mến sốt sắng.
- Lo lắng : Nhưng Phaolô chỉ được ở với họ trong một thời gian ngắn (Cv 17,2 nói Phaolô ở với họ "3 ngày". Có lẽ "3 ngày" này không theo nghĩa đen, chỉ có ý muốn nói là trong một thời gian rất ngắn). Sau đó do những người do thái mưu hại, Phaolô phải trốn khỏi đó. Tuy Phaolô đã đi xa, nhưng rất lo lắng cho giáo đoàn non trẻ này trước những đòn tấn công của kẻ thù. Vì thế Phaolô gửi thư về khuyến khích họ.
Phần đầu của lá thư này là những lời chào hỏi và khuyến khích. Đặc biệt Phaolô khen ngợi đức tin, cậy và mến của họ : "Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi".
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Bổn phận công dân
"Có được phép nộp thuế cho Xêda không ?" Có nhiều từ trong câu hỏi này cần được giải thích thêm cho rõ :
- Thuế : không phải chỉ có ý nói tới việc đóng thuế, mà còn bao gồm tất cả những gì thuộc bổn phận công dân như : yêu nước, góp phần xây dựng đất nước, tuân thủ luật pháp, tùng phục chính quyền…
- Xêda : đối với hoàn cảnh lịch sử riêng thời Đức Giêsu thì Xêda chỉ chính quyền đang đô hộ đất nước do thái. Còn đối với hoàn cảnh chung của mọi thời thì chữ Xêda này nên được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ chinh quyền cách chung.
- Có được phép không : Động từ "được phép" ở thể thụ động, gián tiếp muốn hỏi Thiên Chúa có cho phép không.
Như thế ý nghĩa của câu hỏi này là : Theo ý Thiên Chúa thì người tín hữu có bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền không ?
Câu trả lời của Đức Giêsu "Của Xêda hãy trả cho Xêda" là nền tảng giáo lý về bổn phận công dân : người tín hữu của Chúa cũng là công dân của một đất nước, cho nên phải chu toàn mọi bổn phận công dân một cách đầy đủ và gương mẫu.
Không phải vì là thần dân của Vua Giêsu và là công dân của Nước Trời mà người tín hữu không còn bổn phận gì đối với đất nước và chính quyền trần gian, bởi vì Nước Trời mà Vua Giêsu thành lập "không thuộc thế gian này" cho nên cũng không chống lại nước và chính quyền trần gian.
Chính Đức Giêsu đã làm gương chu toàn bổn phận công dân : cha mẹ Ngài đã vâng lệnh hoàng đế để về quê quán khai tên (Lc 2,3-5) ; Đức Giêsu bảo Phêrô đóng thuế cho ông và cho Ngài (Mt 17,24-27).
2. Lợi riêng và ích chung
Người Việt nam nói chung và người tín hữu Việt nam nói riêng có một thiếu sót rất lớn, đó là không tích cực đóng góp cho lợi ích chung.
Những thể hiện : trốn thuế, gian lận để giảm thuế, ăn cắp của chung, không quan tâm giữ gìn tài sản chung của xã hội, ngại đóng góp để bảo trì hoặc tu sửa nhà thờ, không nhiệt tình góp "tiền rỗ" trong các thánh lễ…
Thiếu sót ấy có lẽ phát xuất từ một cách suy nghĩ rằng mình không có bổn phận gì đối với việc chung và ích chung. Từ suy nghĩ ấy, mỗi lần bỏ ra chút ít gì cho ích chung thì cho rằng đó là một việc thi ơn, một việc từ thiện.
Suy nghĩ ấy hoàn toàn sai. Góp phần cho ích chung không phải là việc tuỳ ý mà là bổn phận, không phải là bố thí mà là công bằng, bởi vì mình được thụ hưởng ích chung cho nên theo công bằng mình phải đóng góp vào đó.
Những công dân và tín hữu có trình độ suy nghĩ trưởng thành ở một số nước khác đều rất ý thức bổn phận này : đối với đất nước, họ quan tâm đóng thuế đầy đủ ; đối với Giáo Hội, mỗi lần dự lễ họ đều góp "tiền rỗ", thậm chí có người ít đi lễ mà cũng gởi tiền góp vào quỹ xứ đạo…
3. "Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa"
Vế thứ hai trong câu Đức Giêsu trả lời là một lời nhắc nhở cho những kẻ muốn gài bẫy Ngài. Họ đều là tín đồ do thái giáo nhưng họ mải mê lo chuyện chính trị, kẻ thì phò theo chính quyền Rôma, người thì chống lại. Họ lại còn muốn lôi Đức Giêsu vào vòng tranh chấp chính trị của họ nữa. Đang khi đó thì họ rất thờ ơ với bổn phận đới với Thiên Chúa. Bởi thế Đức Giêsu nhắc : việc chính trị thì cứ lo, nhưng đừng quên bổn phận đối với Thiên Chúa.
Ta thường nghe nói "tốt đời đẹp đạo". Xét cho cùng, một người tín hữu có "đẹp đạo" trước thì mới dễ "tốt đời" sau, bởi vì chính "đạo" vừa dạy vừa giúp ta cách sống tốt ở "đời".
4. Chuyện minh họa
a/ Ngày nay, hai chữ "chính trị" thường được hiểu theo nghĩa xấu, "làm chính trị" bị coi là một việc nguy hiểm, như những chuyện sau đây :
- Hai vợ chồng nhà kia sinh được cậu quí tử. Ngày cậu thôi nôi, một người bạn góp ý thử xem tương lai cậu ra sao. Họ đặt trên bàn một cây vàng, một cuốn Thánh Kinh. một chai rượu và xem cậu chọn cái gì. Nếu cậu chọn vàng thì tương lai sẽ là thương gia. Nếu chọn Thánh Kinh thì là linh mục. Nếu chọn chai rượu thì cuối cùng chỉ là anh chàng bét nhè.
  Rồi họ đưa cậu vào. Cậu lấy cây vàng đút túi, kẹp cuốn sách vào nách và ôm chai rượu bước ra. Thấy thế, người chồng bảo vợ : "Tốt lắm ! Nhất định sau này nó sẽ là một nhà chính trị !"
- Ba người chết và về trời cùng ngày. Người thứ nhất là giáo hoàng, người thứ hai là linh mục và người thứ ba là một chính trị gia.
  Thánh Phêrô dẫn họ vào thiên đàng : giáo hoàng và linh mục ở trong hai túp lều nhỏ, còn nhà chính trị gia vào tòa nhà lớn.
  Cả linh mục và giáo hoàng cung kính hỏi xem tại sao hai tôi tớ trung thành như họ được hưởng cuộc sống hạnh phúc ở nơi không hấp dẫn, trong khi nhà chính trị được sống trong tòa nhà vĩ đại.
  Thánh Phêrô trả lời : "Này các con, ở đây đã có nhiều linh mục và giáo hoàng. Nhưng đây là nhà chính trị đầu tiên của chúng ta".
b/ Nhưng tham gia chính trị và làm chính trị cũng là bổn phận công dân của người tín hữu. Sau đây là những tấm gương của một số tín hữu làm chính trị để phục vụ cho quyền lợi đồng bào và nhân loại :
- Dag Hammarskjold, Tổng thư ký Liên hợp quốc, chết trong một tai nạn máy bay năm 1961 đang lúc ông đi thăm vùng Trung Phi. Ông không nghĩ việc ông làm chính trị là phương tiện thăng tiến xã hội, mà là thi hành ơn gọi làm tín hữu của ông. Ông nói : "Thờ ơ trước sự ác còn tệ hơn chính sự ác nữa ; trong một xã hội tự do, kẻ phạm tội chỉ là một số ít, nhưng tất cả mọi người đều phải chịu trách nhiệm về tội phạm của họ" ; "Không một lối sống nào thỏa mãn hơn sống mà phục vụ vô vị lợi cho đất nước và nhân loại".
- Gandhi nói : "Tôi làm chính trị vì tôi không thể tách rời cuộc sống với niềm tin của tôi. Vì tôi tin Thượng Đế nên tôi bước vào chính trị. Làm chính trị là cách tôi phụng sự Thượng Đế".
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Thiên Chúa là Cha nhân từ. Người dựng nên trời đất muôn vật, và lúc nào cũng : quan tâm chăm sóc hết thảy mọi loài. Chúng ta cùng cảm tạ Chúa và dâng lời cầu xin.
1- Hội Thánh luôn nhắc nhở các kitô hữu phải sống gương mẫu / tuân thủ luật pháp / mến yêu tổ quốc / sống hòa hợp với hết thảy mọi người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết luôn yêu mến tổ quốc của mình / và gương mẫu trong việc tuân giữ luật pháp.
2- Người kitô hữu có thể khác nhau về quốc gia / chủng tộc / ngôn ngữ / nhưng luôn hiệp nhất trong cùng một đức tin / đức cậy và đức mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho các tín hữu luôn biết sống đoàn kết / thương yêu và nâng đỡ nhau / trong mọi tình huống của cuộc sống thường ngày.
3- Người kitô hữu có hai bổn phận quan trọng / bổn phận đối với Chúa và đối với tổ quốc / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chu toàn mọi trách nhiệm đối với Chúa / và làm tròn nghĩa vụ của một người công dân tốt / là mến yêu tổ quốc / và hiệp sức cùng đồng bào xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn.
4- Ngoài người mẹ ruột của mình / người kitô hữu có hai người mẹ thiêng liêng khác / đó là Hội Thánh và Đất nước / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn làm tròn chữ hiếu với các bà mẹ này.
CT : Lạy Chúa, Chúa đã thương ban cho chúng con một dày non sông gấm vóc, một tổ quốc hào hùng, một dân tộc quật cường, một đất nước nhiều tiềm năng về mọi mặt. Xin cho chúng con biết hết lòng yêu mến và bảo vệ tổ quốc chúng con. Chúng con cầu xin…
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha : Qua lời nguyện "Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời", chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta chu toàn những bổn phận cả đối với cả trần thế lẫn đối với Chúa.
- Sau kinh Lạy Cha : "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con khôn ngoan biết trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và trả cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. GIẢI TÁN
Anh chị em đã nghe giáo huấn của Chúa về hai bổn phận. Anh chị em hãy ra về và sống "đẹp đạo tốt đời".



Bài đọc thêm 4
THƯ I THÊXALÔNIKÊ
A. GIÁO ĐOÀN THÊXALÔNICA
1. Thêxalônica là thủ phủ của tỉnh Makêđoan của đế quốc Rôma, được thành lập từ thế kỷ IV trước công nguyên. Là một thành phố cảng, là cửa ngõ vào vùng đồng bằng và các vùng phụ cận, Thêxalônica là một trung tâm thương mại phồn thịnh và đông dân cư trong đó có nhiều ngoại kiều và 1 số người do thái.
2. Phaolô đến Thêxalônica lần đầu tiên vào năm 50 trong chuyến du hành truyền giáo thứ hai cùng với một bạn đồng hành là Sila (đọc Cv 17,1-10). Hai nhà truyền giáo khởi sự rao giảng cho những người do thái tại hội đường của họ "trong 3 ngày hưu lễ" (Cv 17,2). Chi tiết này khiến có người cho rằng họ chỉ lưu lại đó có 3 tuần lễ. Thực ra có lẽ Phaolô lưu lại đó lâu hơn nên mới có giờ hành nghề dệt lều (1Tx 2,9), nhận tiếp tế từ giáo đoàn Philíp gởi tới (Ph 4,16), làm cho nhiều người do thái và lương dân tin theo Tin Mừng (1 Tx 1,9). Vậy Cv nói "trong 3 ngày hưu lễ" là nói đến 3 lần chính thức Phaolô tiếp xúc với những người do thái tại hội đường.
3. Kết quả của cuộc truyền giáo là hai ông đã đem về cho Đức Kitô nhiều "người kính sợ Chúa" và một số bà có địa vị cao trong xã hội. Nhưng nhiều người do thái khác đã chống lại hai ông. Họ gây ra một cuộc náo loạn rồi đổ tội cho Phaolô là dấy loạn chống triều đình (đọc Cv 17,5-14). Vì thế đang đêm các tín hữu đã giúp hai ông trốn sang vùng Bêrê cách đó vài cây số về phía Tây. Bọn do thái lại đuổi theo. Phaolô lại phải trốn sang Côrintô, nghĩa là phải từ giã một giáo đoàn non nớt vừa mới thành lập.
4. Rời khỏi Thêxalônica mà lòng Phaolô đầy lo lắng, nên khi đến Côrintô, ông phái Timôtêô trở lại Thêxalônica nghe ngóng tình hình (Đọc 1 Tx 3,1-2). Sau đó Timôtêô trở về mang theo nhiều tin phấn khởi. Trong tâm trạng đó Phaolô viết thư này cho giáo đoàn Thêxalônica để bày tỏ tâm tình của mình, khen ngợi họ đã sống tốt dù gặp hoàn cảnh khó khăn, và khuyến khích họ cứ kiên trì sống tốt như thế.
B. BỐ CỤC
  - Lời chào                                 1,01-02
  - Lời tạ ơn Chúa                        1,03-10
  - Bày tỏ tâm tình :                              ch 2-3
  - Phần giáo huấn :
   . Về đức khiết tịnh và bác ái              4,01-12
   . Về ngày Chúa tái lâm                      4,13-18
   . Kêu gọi tỉnh thức chờ ngày của Chúa        5,01-11
   . Vài lời khuyên khác                         5,12-22
  - Lời nguyện cuối cùng
  - Kết                                         5,25-28
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI

Lectio Divina: Chúa Nhật XXIX Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 22 Tháng 10, 2017
Việc nộp thuế cho Cêsarê
Khi kẻ giả hình gài bẫy người ngay thẳng
Mt 22:15-21


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ban Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.  Trong ánh sáng của Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của mình.  Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin Chúa hãy tạo trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ.  Nguyện xin cho Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình.  Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến với chúng con.  Amen.

 2.  Bài Đọc 
a)  Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc: 
Mt 22:15-17:  Câu hỏi của các người Biệt Phái và Hêrôđê
Mt 22:18-21:  Câu trả lời của Chúa Giêsu
b)  Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Chúa Giêsu đi từ xứ Galilê đến thành Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua hằng năm.  Khi tiến vào thành thánh, Người được dân chúng chào đón hoan hô (Mt 21:1-11).  Chúa lập tức đi đến đền thờ nơi đó Người đuổi các kẻ buôn bán trong đền thờ (Mt 21:12-16).  Dù rằng Chúa ở lại Giêrusalem, nhưng Người nghỉ qua đêm ở bên ngoài thành và trở lại thành vào buổi sáng (Mt 22:17).  Tình hình trở nên rất căng thẳng.  Trong các cuộc tranh luận với các nhà đương cuộc, các thượng tế, kỳ lão và các người Biệt Phái tại Giêrusalem, Chúa Giêsu nói ra ý nghĩ của mình trong các dụ ngôn (Mt 21:23a – 22:14).  Họ rất muốn bắt giữ Người, nhưng họ lại sợ (Mt 21:45-46).  Bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần này nói về việc nộp thuế cho Cêsarê (Mt 22:15-21) được lồng trong tình trạng xung đột giữa Chúa Giêsu và các kẻ cầm quyền. 

c)  Phúc Âm:  
15 Khi ấy, các người Biệt Phái họp nhau lại bàn mưu để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói.  16 Các ông sai môn đồ của các ông đi với những người thuộc phái Hêrôđê đến nói với Người rằng:  “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay thẳng, căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa, Thầy chẳng cần để ý đến ai, vì Thầy không tây vị người nào.  17 Vậy xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào.  Có được phép nộp thuế cho Cêsarê hay không?  18 Chúa Giêsu thừa hiểu ác ý của họ, nên nói:  “Bọn người giả hình, các ngươi gài bẫy Ta làm gì?  19 Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế.”  Họ đưa cho Người một đồng bạc.  20 Và Chúa Giêsu hỏi họ:  “Hình tượng và danh hiệu này là của ai?”  21 Họ thưa rằng:  “Của Cêsarê.”  Bấy giờ Người bảo họ rằng:  “Vậy cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa.”
   
3.  Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.

4.  Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a)  Phần nào của bài dụ ngôn động chạm đến bạn nhất?  Tại sao?
b)  Nhóm người cầm quyền nào đang sẵn sàng để gài bẫy Chúa Giêsu?  Bẫy ấy là gì?
c)  Chúa Giêsu đã làm gì để tránh khỏi bị sập bẫy gài bởi bọn người có quyền thế?
d)  Ngày nay, câu nói “Cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa” có ý nghĩa gì?


5.  Dành cho những ai muốn đào sâu hơn vào trong chủ đề
a)  Bối cảnh đoạn Phúc Âm của chúng ta trong Tin Mừng Mátthêu:
Như chúng ta đã nói, bối cảnh của Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai mươi chín là cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và những kẻ có thẩm quyền.  Nó bắt đầu với cuộc thảo luận với các thượng tế và kỳ lão về quyền bính của Đức Giêsu (Mt 21:23-27).  Sau đó là dụ ngôn về hai người con trai trong đó Chúa Giêsu lên án việc đạo đức giả của một vài nhóm người (Mt 21:28-32).  Tiếp theo là hai dụ ngôn, một về những tá điền sát nhân (Mt 21:33-46) và dụ ngôn kia nói về những khách được mời đã từ chối đi dự tiệc cưới (Mt 22:1-14).  Tại thời điểm này trong đoạn Tin Mừng của chúng ta (Mt 22:15-22), những người Biệt Phái và những người thuộc phái Hêrôđê xuất hiện và giăng một cái bẫy.  Họ hỏi Chúa về việc đóng thuế cho người La-mã.  Đó là một câu hỏi phiền hà đã gây chia rẽ trong dân chúng.  Bằng mọi giá, họ muốn cáo buộc Chúa Giêsu và để làm giảm bớt ảnh hưởng của Người trên dân chúng.  Lập tức sau đó, các người phái Sađốc bắt đầu hỏi Người về sự sống lại của kẻ chết, đó là một câu hỏi gây tranh cãi khác và tạo ra sự bất đồng giữa những người Sađốc và Biệt Phái (Mt 22:23-33).  Tất cả đều kết thúc với một cuộc thảo luận về điều răn cao trọng nhất (Mt 22:34-40) và Đấng Mêssia là con của vua Đavít (Mt 22:41-45).
Giống như Chúa Giêsu, Kitô hữu của các giáo đoàn ở Syria và Palestine, những người mà Mátthêu đang viết Tin Mừng cho họ, đã bị cáo buộc và thẩm vấn bởi các kẻ cầm quyền, bởi các nhóm người khác và bởi những người hàng xóm của họ là những kẻ đã cảm thấy áy náy bởi sự làm chứng của các môn đệ.  Khi đọc những đoạn này về cuộc xung đột với những kẻ có quyền thế, họ đã cảm thấy được an ủi và khích lệ để tiếp tục cuộc hành trình của họ.
b)  Lời bình giải về đoạn Tin Mừng:
Mt 22:15-17:  Câu hỏi của những người Biệt Phái và những người thuộc phái Hêrôđê.
Những người Biệt Phái và những người thuộc phái Hêrôđê là các người có thẩm quyền tại địa phương đã không vui khi thấy Đức Giêsu được sự mến mộ tại xứ Galilê.  Họ quyết định đã đến lúc phải trừ khử Chúa Giêsu (Mt 12:14; Mc 3:6).  Bấy giờ, tuân theo lệnh của các thượng tế và kỳ lão, họ muốn biết Chúa Giêsu thiên về phe ủng hộ hay phe chống đối lại việc nộp thuế cho người La Mã.  Một câu hỏi có chủ tâm, đầy ác ý!  Dưới chiêu bài của lòng trung thành với lề luật Thiên Chúa, họ tìm kiếm lý do để cáo buộc Người.  Nếu Chúa Giêsu trả lời là: “Các ông phải nộp thuế!” thì họ sẽ buộc tội Người, cùng với dân chúng, là Người đi theo những kẻ xâm lược La Mã.  Nếu Chúa trả lời là:  “Các ông đừng nên nộp thuế!” thì họ sẽ buộc tội Người, cùng với chính quyền La Mã, là Người có âm mưu tạo phản.  Một tiến thoái lưỡng nan!
Mt 22:18-21a:  Câu trả lời của Chúa Giêsu:  Hãy đưa Ta xem đồng tiền nộp thuế.
Chúa Giêsu nhìn thấy được sự đạo đức giả của họ.  Trong câu trả lời của Người, Chúa đã không phí thì giờ trong cuộc tranh luận vô bổ và đi thẳng vào trọng tâm của câu hỏi:  “Hình tượng này và danh hiệu này là của ai?”  Họ thưa rằng:  “Của Cêsarê!”    
Mt 22:21b:  Lời kết luận của Chúa Giêsu
Bấy giờ Chúa Giêsu mới đưa là lời kết luận:  “Vậy cái gì của Cêsarê thì hãy trả cho Cêsarê, và cái gì của Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa!”  Thực ra, họ đã thừa nhận thẩm quyền của Cêsarê.  Họ đã trả cho Cêsarê những gì thuộc về Cêsarê kể từ khi họ xử dụng tiền ấy để mua bán đổi chác và thậm chí còn trả tiền cống nạp cho Đền Thờ!  Vì thế, câu hỏi thật là vô dụng.  Tại sao lại đặt vấn đề về điều mà câu trả lời đã quá rõ ràng hiển nhiên như thế?  Họ, những người mà dựa vào câu hỏi, giả vờ là những tôi tớ của Thiên Chúa, mà thực ra quên bẵng đi điều quan trọng nhất:  họ đã quên trao cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa!  Điều quan trọng đối với Chúa Giêsu là “họ phải trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”, đó là, họ lừa dối mọi người vì họ đã đưa người ta xa lìa Thiên Chúa qua chính tội lỗi của họ, bởi vì qua các giáo lý của họ, họ đã ngăn cản, không cho thiên hạ vào Nước Trời (Mt 23:13).  Những người khác nói:  “Hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa”, có nghĩa là, thực hiện nền công lý và sự trung thực theo sự đòi hỏi của lề luật Thiên Chúa, bởi vì qua sự đạo đức giả của bạn, bạn đang chối từ Thiên Chúa những gì thuộc về Người.  Các môn đệ phải nhận biết điều này!  Bởi vì chính sự giả hình của những người Biệt Phái và Hêrôđê đã làm mắt của họ không trông thấy (Mc 8:15).
c)  Đào sâu hơn:  Tiền thuế, tiền cống nạp, tiền xâu và tiền dâng cúng:
Vào thời của Chúa Giêsu, người dân Palestine đã trả rất nhiều tiền thuế, xâu, cống nạp, tiền phạt, tiền đóng góp, tiền tặng dữ và dâng cúng.  Một số học giả thẩm định rằng phân nửa lợi tức của một gia đình phải dùng để trả thuế.  Sau đây là danh sách để cho thấy tất cả những gì dân chúng đã trả dưới hình thức thuế má:
*  Thuế trực thu trên tài sản và thuế thân:
Thuế tài sản (tributum soli).  Các nhân viên thuế của chính phủ kiểm kê các tài sản, sản lượng, số lượng người nô lệ và sau đó thì chỉ định số tiền phải nộp.  Định kỳ, các khoản thuế mới được thiết lập dựa theo cuộc kiểm tra dân số.
Thuế thân (tributum capitis).  Dành cho người nghèo không có đất đai.  Khoản này bao gồm cả phụ nữ và nam giới trong lứa tuổi từ 12 đến 65.  Thuế dựa trên lực lượng lao động là 20% lợi tức của từng cá nhân.
*  Thuế gián thu trên các dịch vụ trao đổi khác nhau:
Vương miện vàng:  Khởi đầu đây là một món quà cống tặng cho hoàng đế, nhưng sau đó đã trở thành một món thuế bắt buộc.  Nó được trả vào những dịp đặc biệt như vào các ngày lễ hội hay các chuyến ngự lãm của hoàng đế.
Thuế muối:  Muối là đặc quyền của hoàng đế. Tiền nạp cống phải được trả cho số muối được xử dụng trong thương mại.  Ví dụ, muối được dùng bởi các ngư phủ để muối cá.  Đó là nguồn gốc của chữ “lương bổng”.
Thuế chuyển nhượng:  Đối với mỗi một cuộc giao dịch thương mại, tiền thuế là 1%.  Chính các nhân viên thuế vụ sẽ thu góp tiền thuế này.  Ví dụ, mua một người nô lệ, họ đòi 2% thuế.
Thuế hành nghề:  Làm bất cứ một nghề nào, người ta cần phải có giấy phép.  Ví dụ, một người thợ đóng giầy ở Palmira phải trả một đồng tiền thuế mỗi tháng.  Một đồng tiền tương đương với một ngày lương.  Ngay cả các cô gái mãi dâm cũng phải đóng thuế.
Thuế xử dụng các tiện ích công cộng:  Hoàng đế Vespasian đã đưa ra một loại thuế dựa trên việc xử dụng các phòng tắm công cộng ở Rôma.  Ông ta đã thường nói:  “Tiền không có mùi!”        
*  Các loại thuế và nghĩa vụ khác:     
Thuế đi đường: Đây là một loại thuế trên sự chuyển động của hàng hóa, được thu góp bởi những người thu thuế.  Thuế đi đường phải được trả cho đường xá.  Tại một số địa điểm cố định có các binh sĩ cưỡng bách những kẻ đã miễn cưỡng trả thuế.
Cưỡng bách lao động:  Mọi người đều có thể bị buộc phải làm một số dịch vụ cho nhà nước trong năm năm, không có thù lao.  Đây là lý do tại sao ông Simon bị buộc phải vác thập giá cho Chúa Giêsu.
Trợ cấp đặc biệt cho quân đội:  Dân chúng có nhiệm vụ phải cung cấp nơi ăn chốn ở cho binh lính.  Mọi người cũng buộc phải trả một khoản tiền nhất định để nuôi dưỡng và hỗ trợ quân đội.
*  Thuế cho Đền Thờ và cho việc Phụng Thờ:
Shekhalim:  Đây là thuế để bảo trì Đền Thờ.
Tithe:  Đây là thuế để nuôi dưỡng các thày cả.  “Tithe” có nghĩa là thập phân!
Hoa quả đầu mùa:  Đây là loại thuế cho việc phụng thờ.  Đó là, hoa trái đầu tiên của tất cả các nông sản.

6.  Thánh Vịnh 12
Chống lại miệng lưỡi dối gian
Xin cứu nguy, lạy CHÚA, vì chẳng còn thấy ai đạo hạnh,
giữa loài người, không một kẻ tín trung.
Người với người chỉ nói lời gian dối,
môi phỉnh phờ, lòng một dạ hai.
Ước gì CHÚA xẻo môi phỉnh phờ, và cắt lưỡi ba hoa!
Bọn chúng nói: "Sức mạnh ta là ba tấc lưỡi,
với môi mép này, ai làm chủ được ta? "
CHÚA phán rằng: "Trước cảnh người nghèo bị áp bức,
kẻ khốn cùng rên siết thở than,
giờ đây Ta đứng dậy,
ban ơn giải thoát cho kẻ mong chờ."
Lời CHÚA phán là lời chân thật,
như bạc nấu trong lò, đã bảy lần tinh luyện.
Vâng lạy CHÚA, Ngài bảo vệ chúng con,
giữ cho khỏi bọn này mãi mãi.
Phường gian ác nhởn nhơ khắp chốn,
chuyện đê hèn đầy dẫy nhân gian.

7.  Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa Cha.  Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa đã mặc khải cho chúng con.  Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.  Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.  Amen.

www.dongcatminh.org


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét