21/10/2017
Thứ Bảy tuần 28 thường niên
Bài Ðọc I: (Năm I) Rm
4, 13. 16-18
"Mặc dầu tuyệt
vọng, ông vẫn tin".
Trích thư Thánh Phaolô
Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, không
phải nhờ lề luật mới có lời hứa ban cho Abraham hay dòng dõi của ông trở nên kẻ
thừa kế thế gian, nhưng là nhờ sự công chính của đức tin. Vì thế, do đức tin,
được coi như là theo ân sủng, lời hứa cho mọi dòng dõi được vững bền, không phải
chỉ cho kẻ sinh bởi lề luật, mà còn cho kẻ sinh bởi đức tin của Abraham, tổ phụ
của mọi người chúng ta, như có lời chép rằng: "Ta đã đặt ngươi làm cha nhiều
dân tộc". (Ông là cha chúng ta) trước mặt Thiên Chúa, Ðấng ông đã tin, Ðấng
cho kẻ chết sống lại, và kêu gọi cái không có như có. Mặc dầu tuyệt vọng, ông vẫn
tin rằng mình sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, như có lời đã phán với ông rằng:
"Dòng dõi ngươi sẽ như thế".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 6-7.
8-9. 42-43
Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).
Xướng: 1) Hỡi miêu duệ
Abraham là tôi tớ của Ngài, hỡi con cháu Giacóp, những người được Ngài kén chọn,
chính Chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Ngài bao trùm khắp cả địa
cầu. - Ðáp.
2) Tới muôn đời Ngài vẫn
nhớ lời minh ước, lời hứa mà Ngài đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Ngài
đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Ngài đã thề với Isaac. - Ðáp.
3) Vì Ngài đã nhớ lời
thánh thiện của Ngài, lời Ngài đã ban bố cùng Abraham là tôi tớ Ngài. Ngài đã
đưa dân tộc Ngài ra đi trong niềm vui vẻ, đưa những kẻ Ngài kén chọn ra đi
trong tiếng hân hoan. - Ðáp.
Alleluia: Gc 1, 18
Alleluia, alleluia! -
Do ý định của Thiên Chúa, Người đã sinh chúng ta bằng lời sự thật, để chúng ta
nên như của đầu mùa các tạo vật. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 8-12
"Trong giờ ấy,
Thánh Thần sẽ dạy các con phải nói thế nào".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu
phán cùng các môn đệ rằng: "Hễ ai xưng nhận Thầy trước mặt người đời, thì
Con Người cũng sẽ xưng nhận nó trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa; nhưng
ai chối bỏ Thầy trước mặt người đời, thì sẽ bị chối bỏ trước mặt thiên thần của
Thiên Chúa. Và hễ kẻ nào nói phạm đến Con Người, thì nó sẽ được tha. Nhưng kẻ
nào nói phạm thượng đến Thánh Thần, thì sẽ không được tha.
"Khi người ta điệu
các con vào các hội đường, đến trước mặt vua quan và chính quyền, các con chớ
lo lắng phải thưa làm sao, hay phải nói thế nào, vì trong giờ ấy, Thánh Thần sẽ
dạy các con phải nói thế nào".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tội Phạm Ðến
Chúa Thánh Thần
Ông Charles Darwin, khi về già đã tâm sự: lúc còn trẻ, ông cũng rất yêu
thích thi ca và âm nhạc, thế nhưng, công việc nghiên cứu đã chiếm hết thời giờ
của ông. Dành trọn cuộc đời cho sinh vật học, cho nên ông đã mất dần khả năng
thưởng thức thi ca và âm nhạc, đến nỗi về sau, thi ca đối với ông chỉ còn là những
lời vô bổ và âm nhạc chỉ là những tiếng động ồn ào mà thôi. Cuộc đời ông đã thiếu
hẳn vẻ tươi mát và trẻ trung. Thế nên, nếu được sống lại tuổi trẻ lần nữa, ông
sẽ dành thời giờ tìm đến thi ca và âm nhạc, để khỏi mất đi khả năng thưởng thức
chúng, một khả năng giúp cho cuộc đời thêm hương vị.
Lời tâm sự của Charles Darwin giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về tội phạm
đến Chúa Thánh Thần được Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
Chúa Thánh Thần là Thần Chân Lý. Một trong những công việc của Ngài là mạc
khải về chân lý, giúp con người hiểu biết chân lý mà hướng lòng họ đi tìm sự thật.
Bởi thế, sau khi Chúa Giêsu về trời, thì Thánh Thần đến trên các Tông đồ để dạy
dỗ và hướng dẫn các ông. Nhờ Thánh Thần, các ông đã hiểu rõ những lời nói và việc
làm của Chúa Giêsu; và cũng nhờ Thánh Thần, các ông đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng
như lời căn dặn của Chúa Giêsu trước khi Ngài về trời.
Công cuộc rao giảng Tin Mừng không phải luôn luôn dễ dàng và gặt hái
thành công, như lần 3,000 người trở lại liền sau bài giảng của thánh Phêrô vào
dịp lễ Ngũ Tuần; nhưng các ông đã gặp biết bao chống đối và bách hại. Dù gặp
gian nan thử thách như thế, các ông vẫn hiên ngang rao giảng, vì đó là lời mời
gọi của Chúa Giêsu, và hơn nữa, một điều kiện: "Ai tuyên xưng Thầy trước mặt
thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt các thiên thần của
Thiên Chúa". Vả lại, các ông không phải đơn độc trong gian nan, thử thách,
vì có Thánh Thần luôn hiện diện với các ông. Thánh Thần sẽ dạy cho các ông phải
nói gì khi bị điệu đến trước nhà cầm quyền, vì Danh Chúa Giêsu. Một sự hiện diện
gần gũi và cần thiết như vậy của Thánh Thần, khiến cho tội phạm đến Thánh Thần
trở thành tội không được tha. Không được tha, không phải vì Thánh Thần là một
Thiên Chúa nghiêm khắc trừng phạt; Chúa Thánh Thần vẫn mãi mãi là một Thiên
Chúa khoan dung, từ bi, nhân hậu, là Ðấng Bầu Chữa, an ủi, vỗ về các tâm hồn.
Không được tha không phải vì Chúa Thánh Thần không muốn tha, nhưng là vì thái độ
của con người.
Nếu trong con người của Darwin có những sở thích về thi ca, âm nhạc,
nhưng vì không chịu tiếp xúc với các môn ấy khiến ông mất dần khả năng thưởng
thức thi ca, âm nhạc, để rồi chúng trở thành vô bổ đối với ông. Cũng thế, trong
mỗi người chúng ta đều có những khát vọng về chân lý, nhưng chính thái độ bịt
tai nhắm mắt trước sự thật đã khiến con người mất dần khả năng cảm nhận sự thật
để rồi đối với họ sự thật chẳng còn giá trị gì. Chúa Thánh Thần là Chân Lý,
nhưng nếu đứng trước Ngài, con người vẫn giữ thái độ cố chấp, thì dù Ngài là Ðấng
giúp con người hiểu biết và đi tìm chân lý, Ngài cũng đành bó tay. Không tìm đến
với nguồn chân lý, làm sao con người có thể nhận được ơn tha thứ?
Xin Chúa cho chúng ta có một tâm hồn yêu mến và nhạy cảm trước sự thật.
Xin cho chúng ta biết can đảm vượt qua những trói buộc của đam mê, ích kỷ, tội
lỗi, để tìm đến với sự thật, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Bảy Tuần 28 TN1
Bài đọc: Rom
4:13, 16-18; Lk 12:8-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin vào những gì Thiên Chúa hứa
và làm chứng cho Ngài.
Nhiều người thường áp
dụng cách thức con người cho Thiên Chúa; chẳng hạn, chỉ yêu những gì tốt lành.
Họ nghĩ Thiên Chúa yêu con người vì những việc tốt lành con người làm cho Thiên
Chúa, như giữ luật, đi nhà thờ, giảng đạo, sống tốt lành... Sự thật là Thiên
Chúa yêu thương con người khi họ vẫn còn là tội nhân, yếu đuối, và đầy những
khuyết điểm. Con người không có công trạng gì để xứng đáng được Thiên Chúa yêu
thương; chỉ có một điều con người có thể làm là nếu tin vào tình thương và uy
quyền của Thiên Chúa, họ sẽ được trở nên công chính và hưởng mọi ơn thánh Ngài
hứa ban.
Các Bài Đọc hôm nay muốn
làm sang tỏ chân lý này. Trong Bài Đọc I, Phaolô tranh luận với người Do-thái
và nêu rõ lý do tổ Abraham được thừa hưởng lời hứa "là cha nhiều dân tộc:"
không phải vì việc giữ Luật; nhưng vì niềm tin tưởng tuyệt đối nơi uy quyền và
tình thương của Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu muốn các môn đệ tuyệt đối
tin tưởng nơi Ngài và nơi Thánh Thần của Ngài, nhất là trong những lúc phải
đương đầu với sự sai trá và làm chứng cho sự thật.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Vì tin mà Abraham được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa.
1.1/ Lề Luật không có sức
mạnh làm con người nên công chính.
(1) Không phải vì Lề
Luật mà Abraham được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa: Lề Luật mà Thiên Chúa ban
qua Moses xảy ra 430 năm sau thời của Abraham; do đó, một người không thể nói,
nhờ việc giữ Lề Luật, Abraham được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa; mà là do bởi
niềm tin của ông vào Thiên Chúa. Thánh Phaolô tuyên bố: ''Thật vậy, không phải
chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Abraham và dòng dõi ông được
thế gian làm gia nghiệp; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ
lòng tin.''
Nếu đã đúng cho
Abraham, cũng đúng cho tất cả chúng ta: ''Bởi vậy, vì tin mà người ta được thừa
hưởng lời Thiên Chúa hứa; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có
giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Abraham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai
giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết
thảy.''
(2) Thiên Chúa đổi tên
cho Abraham: Khi còn ở bên xứ Urs, tên của ông là Abram, có nghĩa "người
cha được tôn vinh." Thiên Chúa đổi tên của ông thành Abraham, có nghĩa
"người cha của nhiều dân tộc" (Gen 17:5). Thánh Phaolô lập lại sự kiện
này như sau: ''như có lời chép: Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông
là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết
được sống và khiến những gì không có hoá có.''
1.2/ Tin tưởng lời Chúa hứa
trong mọi hoàn cảnh: Thiên Chúa hứa cho
Abraham một giòng dõi đông như sao trên trời và cát ngoài bãi biển; nhưng thực
tế trong cuộc đời của ông chỉ có Isaac và Ismael. Làm sao Abraham trở thành cha
nhiều dân tộc trong khi chỉ có hai người con? Dưới mắt nhân loại, đây là điều
không thể; nhưng dưới mắt đức tin của Abraham, ông tin Thiên Chúa có quyền năng
làm được những gì Thiên Chúa hứa: ''Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn
trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời
Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế.''
Các nhà chú giải Kinh
Thánh nghĩ Thiên Chúa đã cho ông thấy trước ngày sinh của Đức Kitô trong giòng
dõi của ông; vì nhờ Đức Kitô mà ông trở thành tổ phụ của nhiều dân tộc, vì họ
tin vào Ngài: "Ông Abraham là cha các ông đã hớn hở vui mừng vì hy vọng được
thấy ngày của tôi. Ông đã thấy và đã mừng rỡ" (Jn 8:56).
2/ Phúc Âm: Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ
tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa.
2.1/ Cuộc sống chứng nhân
cần thiết để khơi dậy niềm tin nơi người khác:
Hai điều giúp con người tin vào Đức Kitô là Tin Mừng và đời sống chứng nhân của
người rao giảng; điều thứ hai nhiều khi còn quan trọng hơn cả điều thứ nhất, vì
"lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn." Chính Gandhi đã từng nói:
"Nếu mọi tín hữu sống những gì Đức Kitô dạy, thế giới chắc đã tin tưởng
nơi Ngài hết." Để có thể sống những gì Đức Kitô dạy, người tín hữu phải học
hỏi Phúc Âm, nơi các thánh-sử ghi chép lại tất cả những gì Đức Kitô muốn lưu lại
cho hậu thế; nếu không chịu học hỏi để biết, làm sao biết cách thực hành!
Cuộc sống của con người
trên đời này là để làm chứng nhân cho Thiên Chúa. Mục đích sự hiện hữu của Hội
Thánh và của mỗi tín hữu là làm chứng nhân cho Thiên Chúa bằng lời rao giảng và
các việc làm. Nếu không chu toàn bổn phận này, làm sao các tín hữu có thể đạt
được phần thưởng mà Đức Kitô đã sắm sẵn cho họ. Trong trình thuật hôm nay, Chúa
Giêsu tuyên bố hậu quả của những người chu toàn hay không chu toàn sứ vụ làm chứng
nhân: “Thầy nói cho anh em biết: phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ,
thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên
Chúa. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên
thần của Thiên Chúa.”
2.2/ Tội phạm đến Thánh
Thần là tội nào? Một cách tổng quát là tội
không tin vào Đức Kitô và những gì Ngài dạy dỗ. Đối với người Do-Thái và ngay cả
đối với chúng ta, sứ vụ của Chúa Thánh Thần là làm cho con người nhận thức được
Sự Thật. Tội phạm đến Chúa Thánh Thần là tội từ chối không nghe và theo sự hướng
dẫn của Ngài. Trong Tin Mừng của Matthêu và Marcô, cả hai Thánh Ký đều đề cập đến
tội phạm đến Chúa Thánh Thần khi người Do-Thái bảo Chúa Giêsu: “Ông ấy nhờ quyền
lực của tướng quỉ mà trừ quỉ” (Mt 12:31-32, Mk 3:28-29).
Tại sao không được
tha? Khi con người đã mất sự nhạy cảm về sự thật đến nỗi cho điều thật là sai
và cho điều sai là điều thật, hay như một số người Do-Thái, cho Chúa Giêsu là
ma quỉ, làm sao họ có thể tin vào Đức Kitô để được hưởng ơn Cứu Độ. Tương tự, một
khi con người đã mất hết ý thức về tội lỗi: chẳng còn cho cái gì là tội nữa,
thì họ đâu cần để được tha thứ! Vì thế, khi con người từ chối không nghe sự hướng
dẫn của Thánh Thần để nhận ra sự thật, con người sẽ không còn hy vọng để lãnh
nhận ơn Cứu Độ.
2.3/ Vai trò của Chúa
Thánh Thần trong đời sống chứng nhân: Chúa
Giêsu nói rõ cho các môn đệ về vai trò của Chúa Thánh Thần: "Khi người ta
đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm
quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, hoặc phải nói gì, vì ngay
trong giờ đó, Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói."
Thánh Thần được gọi là Trạng Sư trong Tin Mừng Gioan; và nhiệm vụ của Trạng Sư
là nói thay cho người bị cáo. Chính sự khôn ngoan và sức mạnh của Thánh Thần đã
làm cho những con người yếu đuối và chất phác trở nên những vị tử đạo anh hùng,
và lưu truyền cho hậu thế những lời khôn ngoan, bất khuất, và kiên cường.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Tin vào những gì
Thiên Chúa hứa là điều kiện để được nên công chính và hưởng những hồng ân của
Ngài; và ngược lại.
- Sứ vụ quan trọng của
Chúa Thánh Thần trong Kế Họach Cứu Độ là làm cho con người thấu hiểu những lời
giảng dạy và mặc khải của Đức Kitô. Vì thế, chúng ta cần cầu xin với Ngài mỗi
khi nghe Lời Chúa để Ngài soi lòng mở trí cho chúng ta.
- Chúng ta cần lắng
nghe sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để luôn biết tìm hiểu và nhạy cảm với sự
thật. Một khi đã khinh thường và mất đi nhạy cảm với sự thật, con người không
còn hy vọng được cứu rỗi.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
21/10/17 THỨ BẢY TUẦN 28 TN
Lc 12,8-12
Lc 12,8-12
LÀM CHỨNG CHO TIN MỪNG
“Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì
Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt các thiên thần của Thiên
Chúa.” (Lc 12,8)
Suy niệm: Rao giảng Tin Mừng luôn tiềm ẩn những nguy cơ cho người
rao giảng, vì Tin Mừng đụng chạm tới những vấn đề tế nhị trong cuộc sống. Do hiểu
lầm hoặc do lợi ích mang tính trần thế, người ta sẵn sàng loại bỏ, tiêu diệt,
xóa sổ những kẻ loan báo Tin Mừng bình an và hy vọng. Số phận bi hùng ấy của
người môn đệ đã được Chúa Giê-su báo trước: “môn
đệ không hơn Thầy,” được chung số phận với Thầy là vinh dự rồi. Bù lại,
Chúa Giê-su hứa cho các môn đệ phần thưởng xứng đáng là cuối cùng, họ sẽ được
thấy Chúa tỏ tường, được Ngài công nhận trước mặt Cha Ngài, được đồng bàn với
Ngài trong Nước Trời vinh hiển. Lời Chúa phán là chứng từ bảo đảm cho tương lai
của môn đệ.
Mời Bạn: Lơ
là với việc loan báo Tin Mừng có thể phát xuất từ chỗ bạn chưa xác tín được bản
chất của người môn đệ Chúa Ki-tô. Môn đệ Chúa Ki-tô là người bước theo Ngài, học
với Ngài, làm theo lời Ngài dạy, nhất là mệnh lệnh “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19). Một khi đã xác tín,
bạn có đủ can đảm chấp nhận hay không?
Sống Lời Chúa: Ta cảm phục các môn đệ đang bôn ba khắp thế giới, chấp
nhận thử thách để hiện diện nơi vùng sâu, vùng ngoại vi xa xôi. Ước gì thao thức
của ta sẽ biến thành hành động thực tế trong việc loan báo Tin Mừng.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin biến chúng con thành những nhân chứng của
Tin mừng, vì hạnh phúc của bản thân và của anh chị em đồng loại. Đó cũng là
khát vọng Chúa đặt nơi mỗi Ki-tô hữu chúng con hôm nay. Amen.
( 5 phút Lời Chúa)
Đừng lo (21.10.2017 – Thứ bảy Tuần 28 Thường niên)
Một người dứt khoát từ chối Thánh Thần là từ chối chính Thiên Chúa. Người ấy không có sự mở ra sẵn sàng để đón nhận.
Suy niệm:
Người ta thường nói giữ
đạo tại tâm.
Đức Giêsu hôm nay đòi ta
phải tuyên xưng Ngài trước mặt người đời,
nghĩa là tuyên xưng một
cách công khai, không giấu diếm.
Các thánh tử đạo Việt Nam
ngày xưa đã có kinh nghiệm đó.
Chỉ cần bước qua thập giá
là coi như chối bỏ niềm tin vào Đức Giêsu.
Không bước qua thập giá
là cử chỉ tuyên xưng đức tin rõ ràng nhất.
Một đoàn người đông đúc
đã sẵn lòng chịu muôn vàn khổ hình,
nhưng quyết không bước
qua thập giá.
Phêrô đã có kinh nghiệm
về sự công khai chối bỏ Thầy (Lc 22, 57).
Ông bảo mình không biết
Thầy, không phải là người đã ở với Thầy,
đã theo Thầy như một môn
đệ và như một người bạn.
Đơn giản là ông sợ bị
liên lụy, sợ chịu chung số phận của Thầy.
Xưa nay chẳng ai tuyên
xưng Đức Giêsu mà không phải trả giá.
Tuyên xưng bằng cách
không bước qua thập giá như hồi xưa,
hay tuyên xưng bằng cách
bước qua những mời mọc thời nay,
Coi nhẹ những gì thế gian
mê đắm và ưa chuộng,
Như khoái lạc, địa vị,
quyền lực, giàu sang.
Phêrô đã bất ngờ và dễ
dàng sa ngã.
Nhưng Đức Giêsu đã cầu
xin để ông được đứng lên (Lc 22, 32).
Sau này, Phêrô sẽ có kinh
nghiệm khác về việc công khai tuyên xưng.
Đó là lúc ông và Gioan bị
đem ra trước Hội Đồng Do Thái (Cv 4, 8)
Sau khi đã chữa một người
bất toại ở cửa Đền thờ.
Phêrô được đầy tràn Thánh
Thần, đã mạnh dạn làm chứng về Đức Kitô.
Hội Đồng kinh ngạc trước
sự bạo dạn của ông,
vì biết ông là người ít
học, quê mùa (Cv 4, 13).
Bạo dạn là nét của cộng
đoàn sơ khai, khi đứng trước đe dọa (Cv 4, 29).
“Chớ lo lắng phải biện hộ
làm sao hay phải nói gì,
vì Thánh Thần sẽ dạy các
ông ngay giờ đó về điều phải nói” (cc. 11-12).
Không sợ và không lo,
đó là thái độ của người
Kitô hữu trưởng thành trước nghịch cảnh.
Đừng phạm thượng đến
Thánh Thần, vì sẽ không được tha (c. 10).
Xúc phạm đến Thánh Thần
là cứ ngoan cố,
khăng khăng chống lại tác
động của Ngài trong đời ta.
Những mời gọi của Thánh
Thần bị bóp chết ngay từ đầu.
Một người dứt khoát từ
chối Thánh Thần là từ chối chính Thiên Chúa.
Người ấy không có sự mở
ra sẵn sàng để đón nhận.
Người ấy không được tha
thứ, đơn giản vì không muốn nhận ơn ấy.
Xin cho chúng ta nhận
được sự nâng đỡ của Thánh Thần
để làm chứng cho Giêsu
giữa lòng thế giới.
Và xin cho ta chấp nhận
cái giá phải trả cho một tình yêu tín trung.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa đưa chúng con vào thế giằng co liên tục.
Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế gian,
lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế gian này vàng thau
lẫn lộn.
Có khi vàng chỉ là lớp mạ
bên ngoài.
Xin cho chúng con giữ
được bản lãnh của mình,
giữ được vị mặn của muối,
và sức tác động của men,
để đem đến cho thế gian
một linh hồn, một sức
sống.
Chúng con chẳng sợ mình
bỏ đạo,
chỉ sợ mình bỏ sống đạo
vì bị quyến rũ bởi bao
thú vui trần thế.
Xin cho chúng con đừng
bao giờ quên rằng
chúng con mang dòng máu
của các vị tử đạo,
những người đã đặt Chúa
lên trên mạng sống.
Lạy Chúa Giêsu, nếu thế
gian ghét chúng con,
thì xin cho chúng con cảm
thấy niềm vui
của người được diễm phúc
nên giống Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
21 THÁNG MƯỜI
Nhu Cầu Tiếp Nhận
Nguời Tị Nạn
Các quốc gia trên thế
giới cần phải hợp tác với nhau để đáp ứng nguyện vọng về chỗ định cư cho những
người muốn tìm đất sống mới. Chỉ có sự hợp tác trên qui mô lớn giữa các chính
phủ mới có thể có được giải pháp thỏa đáng cho vấn đề vốn dai dẳng và nghiêm trọng
này. Trong Thông Điệp Pacem in terris, Đức Gioan XXIII đã đề cập đến tình trạng
của những người bị trục xuất khỏi quê hương mình vì những lý do chính trị (PT
103–108). Ngài nhấn mạnh: “Những người tị nạn ấy là những nhân vị, và tất cả những
quyền lợi của họ trong tư cách là những nhân vị cần phải được tôn trọng. Người
tị nạn không thể mất các quyền căn bản của mình, cho dù họ bị tước đoạt quyền
công dân tại xứ sở của họ”. (PT 105)
Với những lời khẳng
quyết mạnh mẽ này, Đức Gioan XXIII đã đưa ra những lý do căn bản tại sao chúng
ta – những Kitôhữu – phải quan tâm đến các anh chị em tị nạn. Họ đến với chúng
ta từ những hoàn cảnh đau khổ và bị ngược đãi. Bổn phận của chúng ta là phải bảo
vệ những quyền lợi cốt thiết của họ, những quyền căn bản của mọi con người, những
quyền không thể bị chế định bởi các yếu tố của tự nhiên hay bởi những hoàn cảnh
chính trị xã hội.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
21 Tháng Mười
Hai Cha Con Và Con Lừa
Một trong những câu
chuyện ngụ ngôn mà người Mỹ thường kể cho con cái nghe nhất đó là câu chuyện:
"Hai cha con và con lừa". Có hai cha con dắt con lừa ra chợ bán. Cha
ngồi trên lưng lừa, con đi bộ theo sau. Người đi đường thấy thế bèn nói:
"Cha gì mà không biết thương con! Ngồi trễm trệ trên lưng lừa, trong khi
con phải đi bộ!". Nghe vậy, người cha bèn nhảy xuống khỏi lưng lừa và nhường
cho con cưỡi lừa. Ði được một chốc, hai cha con lại nghe người hai bên đường chỉ
trích: "Ðồ con bất hiếu, ngồi ung dung trên lưng lừa, trong khi cha lại đi
cuốc bộ". Nghe như vậy, hai cha con mới bảo nhau: "Chỉ còn một cách để
cho thiên hạ khỏi nói là hai ta cùng cưỡi lừa".
Thế là hai cha con
cùng leo lên lưng lừa. Nhưng đi được một quãng, họ lại bắt đầu nghe một lời phê
bình khác: "Thật là đồ vô nhân đạo! Làm sao con lừa chịu đựng cả một sức nặng
như thế".
Nghe thế, hai cha
con lại vội nhảy xuống khỏi lưng lừa. Lần này thì cũng có người phê bình:
"Ðồ dại dột, có lừa mà không dám cưỡi lại phải đi bộ". Hai cha con
không biết nghĩ sao, đành phải nai lưng khiêng con lừa đến chợ.
Ðôi khi chúng ta cũng
bị ảnh hưởng rất nhiều vì những lời khen chê của thiên hạ. Dĩ nhiên chúng ta cần
phải biết lắng nghe những ý kiến xây dựng của những người có thiện chí muốn
giúp đỡ chúng ta. Tuy nhiên chúng ta không nên để mình bị "rung động"
bởi những lời dèm pha thiếu nền tảng của người khác.
Trong Giáo Hội cũng có
những người mắc phải chứng bệnh thích chỉ trích phê bình người khác. Họ quên rằng
mình cũng chỉ là những con người đầy khiếm khuyết. Họ là những gai nhọn hoặc dấm
chua trong Giáo Hội. Sự hiện diện của họ thường gây sứt mẻ hơn là góp phần xây
dựng Giáo Hội trong tình yêu thương và hiệp nhất.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét