Trang

Thứ Ba, 17 tháng 10, 2017

18-10-2017 : THỨ TƯ - TUẦN XXVIII THƯỜNG NIÊN - THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG - LỄ KÍNH

18/10/2017
Thứ Tư tuần 28 thường niên
THÁNH LUCA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG.
Lễ kính.


 Thánh Luca, “người thầy thuốc yêu quý” là bạn đồng hành của thánh Phaolô và cũng là tác giả sách Tin Mừng, trong sách này người đã trình bày lòng nhân hậu của Chúa Kitô rõ ràng hơn ai hết.
Người cũng viết sách Công vụ, tường thuật lại sự tiến triển của Hội Thánh sau ngày Hiện Xuống. Qua ngòi bút của con người thông thạo văn chương chữ nghĩa như người, Tin Mừng trở thành một bài thánh ca tạ ơn trong bầu khí vui tươi và lạc quan phấn khởi.

Bài Ðọc I: 2 Tm 4, 9-17a
"Chỉ còn một mình Luca ở với cha".
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, Ðêma đã lìa bỏ cha, bởi nó yêu chuộng sự đời này, và đã trẩy sang Thêxalônica, còn Crescens thì đi Galata, Titô đi Ðalmatia. Chỉ còn một mình Luca ở với cha. Con hãy đem Marcô đi và dẫn tới đây với con, vì anh ấy có thể giúp ích để cha chu toàn sứ vụ. Còn Tykicô, thì cha đã sai đi Êphêxô rồi. Cái áo khoác cha để quên tại nhà ông Carpô ở Troa, khi con tới, hãy mang đến cho cha, cả những cuốn sách và nhất là những mảnh da thuộc để viết.
Anh thợ đồng Alexanđrô làm cho cha phải chịu nhiều điều khốn khổ. Chúa sẽ trả báo cho nó tuỳ theo công việc nó đã làm. Cả con nữa, con cũng phải xa lánh nó, vì nó kịch liệt phản đối lời giảng dạy của chúng ta.
Lần đầu tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân Ngoại được nghe.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 144, 10-11. 12-13ab. 17-18
Ðáp: Lạy Chúa, con cái Chúa làm cho loài người nhận biết vinh quang cao cả nước Chúa (c. 12).
Xướng: 1) Lạy Chúa, mọi công việc của Chúa hãy chúc tụng Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng. - Ðáp.
2) Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng, và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Chúa là nước vĩnh cửu muôn đời, chủ quyền Chúa tồn tại qua muôn thế hệ. - Ðáp.
3) Chúa công minh trong mọi đường lối của Người, và yêu thương trong mọi kỳ công Người tác tạo. Chúa ở gần những kẻ kêu cầu Người, những kẻ kêu cầu Người với lòng thành thật. - Ðáp.

Alleluia: Ga 15, 16
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Chính Thầy đã chọn các con, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại". - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 10, 1-9
"Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.
"Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ. Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi".
Ðó là lời Chúa.


Suy niệm : Diễn Văn Truyền Giáo
Giáo Hội mời gọi chúng ta đọc và suy niệm những câu đầu tiên của chương 10 Phúc Âm theo thánh Luca. Ðây là bài diễn văn truyền giáo số 2. Bài diễn văn truyền giáo số 1 là chương 9, Phúc Âm thánh Luca. Trong bài diễn văn truyền giáo số 2, Chúa Giêsu ngỏ lời căn dặn bảy mươi hai môn đệ mà Ngài sai đi từng nhóm hai người một để làm như một cộng đoàn làm việc chung với nhau, chứ không phải một cách riêng rẽ. Con số mười hai tông đồ nhắc đến mười hai chi họ Israel; con số bảy mươi hai môn đệ nhắc đến chi tiết nơi chương 10 sách Sáng Thế: "Khi tất cả các dân nước trên mặt đất".
Như thế, chúng ta có thể nói rằng bài diễn văn truyền giáo số 2 của Chúa Giêsu trong đoạn Phúc Âm thánh Luca mà hôm nay chúng ta suy niệm là những lời căn dặn của Chúa Giêsu cho tất cả mọi thành phần Giáo Hội Dân Chúa đến từ khắp mọi nơi không phân biệt màu da, chủng tộc, tiếng nói. Tất cả mọi người đồ đệ của Chúa đều phải là những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Chúa và phải tuân giữ những gì Chúa căn dặn nơi chương 10 này.
Những lời dặn dò trên của Chúa Giêsu thật là cặn kẽ, cụ thể, với những chi tiết hết sức thực tế. Dĩ nhiên, tinh thần phải có khi thực hiện những việc làm trên là điều quan trọng hơn. Thời đại đã thay đổi, thời chúng ta đang sống khác với thời của Chúa Giêsu. Những hành động cụ thể của một thời đã thay đổi, chẳng hạn như ngày xưa đi bộ, cầm gậy thì ngày nay đã có các phương tiện giao thông liên lạc khác, nhưng tinh thần của những hành động cụ thể mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ có không bao giờ thay đổi. Trong những giây phút ngắn ngủi suy niệm này chúng ta không thê nào suy niệm tất cả mọi khía cạnh của tinh thần truyền giáo nơi môn đệ của Chúa.
Ước chi mỗi người chúng ta tìm thì giờ rảnh rỗi trong ngày, trong tuần đê trở lại suy niệm thêm về những lời căn dặn của Chúa nơi chương 10 Phúc Âm thánh Luca.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời đầu tiên Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người, các con hãy ra đi". Qua câu đầu tiên này của đoạn Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta điểm khởi đầu căn bản của mọi hoạt động truyền giáo: trước hết là nhận thức nhu cầu của anh chị em chung quanh, thứ hai là đưa nhu cầu đó vào trong lời cầu nguyện của chính mình và thứ ba là sẵn sàng để được sai và hăng say ra đi khi được trao phó cho sứ mạng. Chúng ta hãy tự vấn xem chính mình đã có những tư tưởng căn bản này chưa? Những quan tâm truyền giáo làm chứng cho Chúa có được chúng ta đưa vào trong lời cầu nguyện của chính mình chưa? Trong cuộc đối thoại giữa mình với Thiên Chúa chưa?
Lạy Chúa,
Này con đây đã sẵn sàng, Chúa muốn con làm gì xin hãy phán và con xin lắng nghe. Xin ban ơn biến đổi mỗi người chúng con trở thành những chứng nhân đích thực của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Veritas Asia



LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Lễ Thánh Lucas Thánh Sử (Ngày 18 tháng 10)
Bài đọc2 Tim 4:9-17a; Lk 10:1-9.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Trung thành viết và rao giảng Tin Mừng.

Thánh Lucas không phải là người Do-thái. Ngài được đề cập riêng khỏi những người Do-thái (Col 4:14), và kiểu mẫu viết văn chứng tỏ ngài là người Hy-lạp. Vì thế, ngài không thể nào bị đồng nhất với ngôn sứ Lucius của Acts 13:1 hay Lucius của Romans 16:21, người đồng hương của Phaolô. Epiphanius không đúng khi gọi ngài là một trong số 72 môn đệ. Ngài cũng không phải là người đồng hành với Cleopas trên hành trình Emmaus. Thánh Lucas có kiến thức nhiều về Bản Bảy Mươi (Septuagint) và truyền thống Do-thái mà ngài thu nhận được hoặc khi ngài đang là một tân tòng Do-thái hay sau khi ngài đã trở thành một Kitô hữu, qua việc giao tiếp với các tông-đồ và các môn đệ.
Ngài sinh sống tại Antioch, thủ đô của Syria. Ngài là một y sĩ, và Phaolô đã gọi ngài là “một y sĩ đáng yêu nhất” (Col 4:14). Thánh Lucas xuất hiện lần đầu tại Troas khi ngài gặp thánh Phaolô (Acts 16:8). Từ đó, ngài trở thành người bạn đồng hành cùng rao giảng Tin Mừng với Phaolô và viết Tin Mừng Thứ Ba cùng Công Vụ Tông Đồ. Ngài là bạn trung thành với Phaolô trong lần Phaolô bị giam lần cuối cùng như trình thuật hôm nay viết (2 Tim 4:7-11). Ba lần ngài được đề cập đến trong các Thư của Phaolô (Col 4:14; Phi 24; 2 Tim 4:11), ngài được kể tên cùng với Marcô. Điều này chứng minh Lucas quen thuộc với Marcô và Tin Mừng của ông. Lucas chắc cũng nhiều lần có cơ hội gặp Phêrô và giúp ông trong việc viết các Thư Phêrô bằng tiếng Hy-lạp.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chỉ còn một mình anh Lucas ở với tôi.

1.1/ Phaolô hoàn toàn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Sau khi đã làm chứng cho Đức Kitô tại Jerusalem, Ngài đã hiện ra với ông trong một thị kiến ban đêm để an ủi và cho ông biết ông sẽ làm chứng cho Ngài tại Roma nữa; đồng thời Ngài cũng cho ông biết những gian nan nguy hiểm đang chờ ông tại Roma.
Phaolô viết thư này cho môn đệ Timothy khi ông đang bị giam trong tù tại Roma, với mục đích để khích lệ tinh thần cho Timothy sẵn sàng làm chứng cho Đức Kitô. Phaolô không cho là ông xứng đáng với triều thiên dành cho người công chính bằng những công việc ông làm; nhưng Phaolô muốn nhấn mạnh đến niềm tin trung thành nơi Đức Kitô. Ngài là Thẩm Phán Chí Công, Ngài là Đấng sẽ tuyên bố Phaolô là người công chính, và sẽ trao phần thưởng là triều thiên công chính cho ông.
Đoạn văn này là bằng chứng cho những người hiểu lầm học thuyết của Phaolô khi ông nói con người được công chính nhờ đặt niềm tin nơi Đức Kitô, mà không cần phải làm gì để chứng tỏ niềm tin. Phaolô chứng minh niềm tin của ông vào Thiên Chúa bằng việc hoàn tất sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại mà Đức Kitô đã trao cho ông, và giờ đây, ông còn sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin Mừng ông rao giảng trên đất Rôma của Dân Ngoại.

1.2/ Phaolô có thể vượt qua mọi trở ngại là nhờ ông vững tin nơi Thiên Chúa: Nhìn lại cuộc đời rao giảng Tin Mừng của Phaolô, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sự kiên trì phi thường của ông, khi phải đương đầu với những đau khổ bên trong cũng như bên ngoài, như trong trình thuật hôm nay, ông viết: “Khi tôi đứng ra tự biện hộ lần thứ nhất, thì chẳng có ai bênh vực tôi. Mọi người đã bỏ mặc tôi. Xin Chúa đừng chấp họ.” Tuy phải chịu đau khổ như thế, nhưng ông đã noi gương Đức Kitô, chẳng những không trách cứ họ, mà còn cầu nguyện cho họ nữa.
Phaolô nhận ra sức mạnh để chịu đựng và sự thành công trong việc rao giảng Tin Mừng không đến từ con người yếu đuối của ông; nhưng nhờ ông đặt niềm tin trọn vẹn nơi Đức Kitô. Ông viết: “Có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. A-men.”
2/ Phúc Âm: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."
2.1/ Khác biệt về văn bản: Theo Lucas, Chúa Giêsu không chỉ chọn 12 Tông-đồ, nhưng còn nhiều môn đệ khác, để huấn luyện và sai đi rao giảng Tin Mừng. Trong Lucas, có hai lần sai đi: Lần thứ nhất, Chúa Giêsu sai 12 tông đồ (Lk 9:1-6; Mt 10:1, 7-16; Mk 6:7-13). Lần thứ hai, chỉ có trong Lucas, theo trình thuật hôm nay: “Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi mà chính Người sẽ đến.”

2.2/ Môn đệ là sứ giả mang Tin Mừng.
(1) Phải ý thức sứ vụ cuả mình: Chúa Giêsu biết những nguy hiểm người môn đệ phải đương đầu khi Ngài nói với các ông: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói.” Hai điều Ngài muốn đề phòng cho các ông:
- “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép”: Đây là những thứ ngăn cản việc rao giảng Tin Mừng. Lo lắng quá nhiều về phương diện sinh sống sẽ ngăn cản các ông dành mọi cố gắng cho việc rao giảng Tin Mừng.
- “Cũng đừng chào hỏi ai dọc đường”: Chúa Giêsu không dạy các môn đệ bất lịch sự hay sống cách biệt. Ngài chỉ muốn các môn đệ biết tính khẩn cấp của việc rao giảng Tin Mừng để các ông đừng trò chuyện vô ích dọc đường, làm mất thời gian rao giảng (cf. 2 Kgs 4:29).
(2) Chấp nhận Tin Mừng là điều kiện để có bình an: Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ: “Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: "Bình an cho nhà này!"” Điều này chứng tỏ Tin Mừng cứu độ được trao cách nhưng không cho mọi người. Theo Lucas, sự bình an này được liên kết với ơn cứu độ mà Đức Kitô mang đến cho mọi người (cf. 1:79, 2:14-29, 7:50, 8:48, 12:51, 19:38). Chấp nhận Tin Mừng là có bình an: “Nếu ở đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.” Điều Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây là sự bình an trong các môn đệ có năng lực làm cho người khác cũng cảm thấy được bình an.

2.3/ Môn đệ là sứ giả của Nước Trời.
(1) Đừng tìm kiếm những sự thế gian: Nhiều người nói “nếu không đem theo tiền bạc và bao bị thì lấy gì mà ăn.” Nói như thế là khinh thường sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài coi các môn đệ là những người làm cho Ngài, và “thợ làm đáng được trả công đời này” (1 Tim 5:18; cf. 1 Cor 9:7-14). Tuy nhiên, Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh: “người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó.” Người rao giảng không được đòi hỏi, họ phải có khả năng ăn thức ăn của địa phương dâng tặng. Họ cũng không thể sống theo luật Kosher của Do-thái nữa. Người môn đệ cũng “đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia” để tìm lợi nhuận vật chất hay chỗ ăn ở sung sướng hơn.
(2) Làm cho triều đại Thiên Chúa mau đến: Chúa Giêsu nhắc lại bổn phận chính của người môn đệ: “Hãy chữa những người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần các ông."” Triều đại của Thiên Chúa đã đến với sự xuất hiện của Đức Kitô và các môn đệ loan báo Tin Mừng này đến cho mọi người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy noi gương hai thánh Lucas và Phaolô để biết hy sinh dành trọn cuộc đời cho việc rao giảng Tin Mừng.
- Chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc rao giảng Tin Mừng vì đó là những giá trị ngược lại với những giá trị của thế gian; nhưng ai bền vững đến cùng sẽ được cứu thoát.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.

18/10/17 THỨ TƯ TUẦN 28 TN
Th. Lu-ca, tác giả sách Tin Mừng
Lc 10,1-9

SỐNG CHO CÔNG LÝ HOÀ BÌNH

“Vào bất cứ nhà nào, trước tiên hãy nói: ‘Bình an cho nhà này’… Vào bất cứ thành nào… hãy nói: ‘Nước Thiên Chúa đã đến gần các ông.’  ” (Lc 10,5.8-9)
Suy niệm: Khi sai 72 môn đệ đi rao giảng, Chúa Giê-su dặn dò các môn đệ phải nói hai điều: 1/ Trước khi rao giảng bất cứ điều gì, hãy cầu chúc bình an, lời cầu chúc đó luôn được Chúa đáp lời: nếu người nghe không sẵn sàng đón nhận thì chính người nói lại là người hưởng được sự bình an. 2/ Trong bất kỳ tình huống nào, dù được tiếp đón hay không, người môn đệ cũng phải loan báo “Nước Thiên Chúa đã đến gần” – tức là rao giảng “một trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị” (2 Pr 3,13). Thực không phải là việc dễ dàng, bởi vì trong một thế giới còn đầy dẫy bất công, người môn đệ Chúa thay vì được đón tiếp, lại trở thành nạn nhân của bạo quyền. Để đối lại, thay vì sử dụng thủ đoạn hay bạo lực, người môn đệ phải là sứ giả hoà bình, cư xử hiền lành với những lời cầu chúc bình an.
Mời Bạn: Được Chúa sai đi nghĩa là được mời gọi rao giảng cho công lý và hoà bình. Đó là một thách đố kép cho ơn gọi làm ki-tô hữu hôm nay, bởi vì một mặt phải làm chứng bằng cuộc sống cho công lý và hoà bình, một mặt phải sẵn sàng hứng chịu những khó khăn và bách hại. Nếu bạn cảm thấy mình giống như “chiên con đi vào giữa bầy sói” thì hãy nhớ rằng Chúa đã báo trước đó là thân phận tất yếu của những môn đệ Ngài. Ngay cả khi bạn không thể làm gì hay nói gì, bạn hãy còn một vũ khí vô địch, đó là lời cầu nguyện của bạn.
Chia sẻ: Quanh bạn, ai là người bị quên lãng, loại trừ? Họ cần sự chia sẻ gì?
Sống Lời Chúa: Bạn làm một việc hy sinh phục vụ, kết hợp với lời cầu nguyện cho công lý và hoà bình.
Cầu nguyện: Hát Kinh Hoà Bình.
( 5 phút Lời Chúa)

Sai th ra gt lúa (18.10.2017 – Th tư: Thánh Luca, Tác gi sách Tin Mng)
Dù không th viết được nhng câu chuyn tuyt đp như thánh Luca, v người cha nhân hu hay v hai môn đ đi Emmaus, nhưng chúng ta vn có th k câu chuyn đi mình cho người khác...


Suy nim:

“Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít.
Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (c. 2).
Trong hành trình truyền giáo cuối cùng với thánh Phaolô (Cv 20, 5),
Luca hẳn đã thấy những cánh đồng lúa chín ở mọi nơi,
đang chờ nhiều người gặt hái gấp, kẻo lúa bị hư hoại.
“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi…” (c. 3).
Dù chưa bao giờ gặp mặt Đức Giêsu,
nhưng Luca đã nghe được tiếng gọi sai đi của Ngài.
Ông đã là cộng tác viên ở bên thánh Phaolô khi người ở tù (Plm 24),
và đã một mình ở lại khi người bị giam lúc cuối đời (2 Tm 4, 11).

Là người dân ngoại được đón nhận Tin Mừng,
Luca muốn trao lại Tin Mừng đó cho những người dân ngoại khác.
Vừa có học thức và khiếu văn chương, lại vừa là y sĩ (x. Cl 4, 14),
Luca đã dùng tài năng của mình để phục vụ cho Lời Chúa (x. Lc 1, 2).
Người ta cho rằng Luca là một họa sĩ đã vẽ chân dung Đức Mẹ,
nay được tôn kính ở Đền thờ Đức Bà Cả tại Rôma.
Nhưng điều chắc chắn hơn nhiều là Luca đã vẽ chân dung Đức Giêsu,
khi thánh nhân cầm bút viết sách Tin Mừng cho dân ngoại.
Qua việc nghe lời giảng của các tông đồ, qua tìm hiểu và chiêm niệm,
Luca trở nên người hiểu rất sâu về trái tim nhân từ của Thầy Giêsu.
Không hiểu Thầy Giêsu thì không thể viết được cuốn Tin Mừng như thế.

Luca cho ta thấy một Giêsu say mê cầu nguyện,
từ khi Ngài chịu phép rửa của Gioan đến khi chịu treo trên thập tự.
Cầu nguyện là giây phút Ngài có thể nói lên tiếng Abba với Cha.
Giây phút riêng tư ấy, cả môn đệ cũng không khuấy động được.
Luca còn cho thấy một Giêsu cương quyết lên Giêrusalem, vì đó là ý Cha.
“Hôm nay, ngày mai, và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi…” (13, 33).
Ngài đi đến nơi khổ đau và cái chết đang chờ đợi (Lc 9, 51 -19, 27).

Tin Mừng của Luca tràn ngập khuôn mặt của người nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tiền bạc, nghèo phẩm giá, nghèo đời sống tâm linh.
Đức Giêsu đã chữa bệnh và trừ quỷ, chúc lành và tha thứ.
Ngài đem đến cuộc cách mạng của Thiên Chúa, cho người nghèo nên giàu,
đem tình thương tha thứ vô bờ của Thiên Chúa cho tội nhân
đem sự bình đẳng cho các phụ nữ để họ trở nên người cộng tác (8, 2-3).
Vì thế Tin Mừng của Luca cũng tràn ngập niềm vui,
từ niềm vui của Dacaria, của Gioan trong bụng mẹ, của các mục đồng,
đến niềm vui của các môn đệ sau khi Đức Giêsu thăng thiên (24, 52).

Thánh sử Luca là một người dân ngoại được ơn viết Sách Thánh.
Chúng ta cũng là dân ngoại được ơn lãnh nhận đức tin.
Dù không thể viết được những câu chuyện tuyệt đẹp như thánh Luca,
về người cha nhân hậu hay về hai môn đệ đi Emmaus,
nhưng chúng ta vẫn có thể kể câu chuyện đời mình cho người khác,
câu chuyện đầy ắp ân sủng Thiên Chúa và chan chứa niềm vui tri ân.
Cầu nguyn:

Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người,
chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,
chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
18 THÁNG MƯỜI
Mang Tin Vui Cho Người Nghèo
Thời đại của chúng ta đang đứng trước rất nhiều tình trạng đói nghèo về mặt luân lý, trong đó tự do và nhân phẩm của con người bị đe dọa nghiêm trọng. Khốn nạn cùng cực nhất là tình trạng của những người sống mà không hiểu biết được ý nghĩa của cuộc sống. Lương tâm con người trở nên bị sai lệch hay hoàn toàn hư hỏng, đó là một dạng nghèo. Bao gia đình phân rã hay đổ vỡ, đó cũng là một dạng nghèo. Chung qui, tất cả đều là cái nghèo của tội lỗi.
Trong một thế giới bị xâu xé bởi quá nhiều hình thức nghèo như thế, Giáo Hội phải cố gắng “mang tin vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Và Giáo hội đã làm điều đó bằng cách thể hiện những nỗ lực như của Mẹ Têrêsa Calcutta và những nỗ lực tương tự của nhiều người khác. Tình yêu của họ đối với Chúa Kitô và công việc phục vụ của họ đối với những con người nghèo khổ nhất đang bộc lộ sâu sắc ý nghĩa ngôn sứ và sứ mạng loan báo Tin Mừng của toàn Giáo Hội.
Những chứng tá hy sinh chất chứa bản chất tình yêu Kitô giáo ấy quả là một nguồn khích lệ lớn lao. Đối với từng người và đối với toàn Giáo Hội, những chứng tá ấy là “một niềm khích lệ trong Chúa Kitô”â, “một sự an ủi trong lòng mến”, và “một sự thông dự trong Thánh Thần”. (Pl 2,1)
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 18-10
Thánh Luca, Tác giả Sách Tin Mừng;
2Tm 4,10-17b; Lc 10,1-9

LỜI SUY NIỆM: “Sau đó, Chúa chỉ định bảy mươi hai người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các thành, các nơi chính Ngươi sẽ đến” (Lc 10,1)

Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một phương pháp khi đi công tác tông đồ, “cứ hai người một”. Khi chúng ta cứ hai người một đi chung với nhau, sẽ có sự bổ túc cho nhau khi cần thiết, dễ đồng tâm nhất nhất trí trong một vấn đề. Có như vậy công tác tông đồ của chúng ta mới đem lại kết quả tốt đẹp cho Giáo Hội.

Mạnh Phương

Gương Thánh Nhân

Ngày 18-10
Thánh LUCA THÁNH SỬ (Thế kỷ I)

Thánh Luca, tác giả Phúc âm thứ ba và sách Công vụ sứ đồ, là người đóng góp đơn độc và rông rãi nhất cho Tân ước. Như các tác phẩm cho thấy, Ngài là một trong những Kitô hữu có học nhất thời Giáo hội ly khai. Dầu vậy, Ngài rất mực khiêm tốn và ẩn mình đi đến nỗi dù một chút gì chúng ta biết về Ngài cũng phải đọc trong những dòng chữ của Ngài bằng kính phóng đại. Chúng ta chú mục vào những chỗ "nhóm chúng tôi" thay vì "họ", nghĩa là Ngài nhận sự có mặt của mình trong khung cảnh chuyển nó vào những dẫn chứng rời rạc trong thánh Phaolô, tìm những khuôn mặt xem ra rõ rệt nhất, phân tích việc chọn lựa và xử dụng từ ngữ của Ngài. Dần dần hình ảnh của thánh Luca nổi lên:
Ngài tự bẩm sinh là người Hylạp, chứ không phải Do thái, nhưng theo ngôn ngữ và văn minh xem ra Ngài đã không sinh ra tại những thành phố Hy lạp lớn miền cận đông. Một tác giả thứ hai nói Ngài sinh ra tại Antiôkia, Syria và khi những biến cố xảy ra dường như Ngài đang sống ở đó trong thập niên bốn mươi của thế kỷ đầu và đã là một trong những lương dân trở lai đầu tiên.
Theo nghề nghiệp, Ngài là y sĩ và rất có thể đã theo học đại học tại Tarse. Bởi đó có thể Ngài đã có vài tiếp xúc trước với thánh Phaolô khoảng năm 49 hay 50, Ngài đã liên kết với thánh Phaolô trong sứ vụ qua Tiểu Á tới Au Châu. Dầu vậy khi tới Philipphê, thánh Luca đã dừng lại đó, không phải là giám mục của Giáo hội tân lập vì dường như thánh nhân đã không hề lãnh nhận chức thánh, nhưng đúng hơn ta có thể gọi là "thủ lãnh giáo dân". Hơn nữa, Ngài dường như dấn thân vào thành phần sử gia, một vai trò mà sự giáo dục và cố gắng rất phù hợp với Ngài. Sự quan sát kỹ lưỡng và diễn tả chính xác là những từ ngữ của các trường thuốc Hy lạp và các văn phẩm của thánh Luca chứng tỏ để Ngài đã biết áp dụng chúng vào lãnh vực lịch sử.
Dầu vậy, vào khoảng năm 57, thánh Phaolô đã từ Corintô trở lại qua Macedonia trên đường đi Giêrusalem, để thu thập các đại diện từ nhiều Giáo hội khác nhau và thánh Luca đã nhập bọn, từ đó trở đi Ngài đã không hề rời xa thầy mình. Ngài đã chứng kiến việc người Do thái tìm cách hại Phaolô và việc người Roma giải cứu thánh nhân. Khi Phaolô đáp tàu đi Roma sau hai năm bị tù ở Cêsarêa, thánh Luca ở với Ngài. Họ bị đắm tàu ở Malta và cùng tới Rôma. Nhưng ở Roma. Thánh Luca đã thấy một trách vụ khác đang chờ đón Ngài. Roma là con mắt của Phêrô và người phát ngôn của thánh Phêrô là Marcô đã xuất bản Phúc âm viết tay của Ngài.
Nhưng còn những ký ức khác đã được viết ra hay truyền tụng rời rạc hoặc toàn bộ về cuộc đời của Chúa chúng ta trên trần gian. Thánh Luca đã quyết định rằng: sứ vụ cho lương dân cần một Phúc âm mới, được viết ra bằng Hy ngữ văn chương hơn là Phúc âm của Marcô cho hợp với lương dân có học và không dành riêng cho người Do thái như là Phúc âm của thánh Mathêo: việc trước tác sách này là phần tiếp theo sách Công vụ sứ đồ xem như hoàn thành tại Roma giữa năm 61 tới 70, nhưng thánh Luca đã trốn cuộc bách hại của Nêrô và đã trải qua quãng đời còn lại tại Hy Lạp.
Tài liệu thế kỷ thứ hai viết: - "Trung thành phục vụ Chúa, không lập gia đình và không có con; Ngài được qua đời hưởng thọ 84 tuổi ở Boctica, đầy tràn Thánh Thần".
Thánh Luca là một vị thánh luôn luôn bình dân. Một phần có lẽ vì chúng ta hiểu rõ Ngài là một giáo dân, thừa hưởng văn hóa Hy lạp cổ. Hơn nữa, Ngài bình dân vì đặc tính lương dân và dấn thân của mình. Tất cả văn phẩm của Ngài đầy quan tâm đến con người, thương cảm con người, liên hệ tới người nghèo, hào hiệp với phụ nữ. Ngài cũng rất hấp dẫn bởi đã thu thập và kể lại vô số những công cuộc đầy nhân hậu của Chúa Kitô.
Thật ra người ta sẽ lầm lẫn khi dìm mất tính chất và giáo huấn nghiêm khắc của Chúa. Nhưng các y sĩ có thể hãnh diện về Ngài vì chắc hắn không có y sĩ nào sẽ qua mặt được Ngài về "tình yêu dành cho nhân loại". Và những người còn lại trong chúng ta có thể biết ơn Ngài vì nhờ Ngài chúng ta có được dụ ngôn cây vả khô chồi (13,60, đứa con hoang đàng (15,11) và người Samaria nhân hậu (10,300. Chúng ta cũng biết ơn Ngài vì câu chuyện người kẻ trộm thống hối và cả năm mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui.
Nhưng trên tất cả, chúng ta mắc ơn Ngài Kinh Ave "Ngợi khen" (Magnificat), chúc tụng (Benedictus), Phó dâng (Nuncdimittis) với quá phân nửa câu truyện ngày lễ Giáng sinh. Rồi đây là chỗ mà sự khiêm tốn ẩn mình của thánh nhân xa rời chúng ta.
Thánh Luca đã nghe truyện từ miệng Chúa không ? Thánh nhân không nói điều này cho chúng ta nhưng rất có thể lắm. Chúng ta biết sau cuộc đóng đinh, mẹ đã được thánh Gioan săn sóc và chắc chắn đã có sự giao tiếp giữa hai thánh sử này. Nhưng trùng hợp của hai Phúc âm (như về việc biến hình) hay những trùng hợp về ngôn ngữ trong phần đầu sách Công vụ mạnh mẽ minh chứng điều này,
Hơn nữa, nếu thánh Luca được rửa tội ở Antiôkia khoảng năm 40 thì tự nhiên là có thể tìm gặp được thánh Gioan ở Giêrusalem... Lúc ấy Đức Mẹ trên dưới 70 tuổi. Như vậy không có lý gì thánh Luca lại không thể nghe chính môi miệng mẹ kể chuyện. Mà dầu chuyện nầy có đến với Ngài cách gián tiếp đi nữa, chúng ta vẫn biết ơn Ngài đã lưu lại cho chúng ta những giai thoại đặc biệt ấy.

(daminhvn.net)


18 Tháng Mười
Lòng Ðầy Miệng Mới Nói Ra

Người ta thường bảo: "Lòng đầy miệng mới nói ra" hay "Văn tức là người". Hai câu nói này có thể áp dụng rất đúng vào vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay: thánh Luca, thánh sử.
Chúng ta không có được những sử liệu để biết về cuộc đời của thánh Luca ngoài danh hiệu thánh Phaolô nói về ngài: "Luca, vị y sĩ rất thân mến của chúng tôi...". Vì thế, chúng ta phải tìm hiểu về con người của thánh Luca qua hai tác phẩm ngài biên soạn, nhất là qua sách Phúc Âm, thường được trao tặng những biệt hiệu sau đây:
1. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của Lòng Thương Xót: Thánh Luca đặc biệt nêu bật lòng ưu ái và sự kiên nhẫn của Chúa Giêsu đối với những tội nhân và những kẻ đau khổ. Ngài luôn mở rộng đôi tay để đón nhận họ: những người xứ Samaria, những kẻ bị bệnh phong hủi, những người thu thuế, những kẻ phạm tội công khai, những người nghèo cũng như các mục đồng thất học.
Ngụ ngôn về người phụ nữ ngoại tình, về một con chiên lạc, một đồng tiền bị đánh mất, về đứa con hoang đàng và người trộm lành chỉ được ngòi bút của thánh Luca ghi lại rất linh động và xúc tích.
2. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của Ơn Cứu Rỗi phổ quát và đại đồng: Chúa Giêsu dang rộng đôi cánh tay, chết treo trên thập giá là cho tất cả mọi người. Trong luồng tư tưởng này, thánh Luca ghi lại gia phả của Chúa Giêsu ngược lại đến nguyên tổ Ađam chứ không phải chỉ ghi lại Chúa Giêsu là con vua Ðavit, con ông Abraham như thánh sử Matthêu. Và trong lúc Chúa Giêsu hoạt động rao giảng Tin Mừng, nhiều người dân không phải là Do Thái cũng được Ngài ân cần tiếp đón và thi ân.
3.Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của những người nghèo, trong đó những người đơn sơ, nhỏ bé, đóng một vai trò quan trọng, như: ông Giacaria và bà Ysave, Ðức Maria và thánh Giuse, những người mục đồng, ông Simêon và bà góa Anna.
4. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của sự cầu nguyện và của Chúa Thánh Thần: Luca thường mở đầu đoạn Phúc Âm với lời ghi nhận: "Chúa Giêsu đang cầu nguyện" và Thánh Thần mang Giáo Hội đến chỗ hoàn hảo cuối cùng.
5. Phúc Âm thánh Luca là Phúc Âm của niềm vui: thánh Luca thành công trong việc phác họa hình ảnh Giáo Hội sơ khai tràn đầy niềm hân hoan vì cảm nghiệm được mầu nhiệm Phục Sinh, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần và Ơn Cứu Rỗi.
Mừng lễ kính thánh Luca, chúng ta hãy cùng nhau đọc đoạn cuối của Phúc Âm, gồm những dòng có thể so sánh như chiếc gạch nối liên kết sách Phúc Âm với sách Tông Ðồ Công Vụ để diễn tả một sinh hoạt rất quan trọng của Giáo Hội và của mọi tín hữu Kitô: "Ðoạn Chúa dẫn các môn đệ đi về phía làng Bêtania. Chúa giơ tay chúc phúc cho họ. Ðang khi Chúa phán, Chúa rời khỏi họ mà lên trời. Các môn đệ thờ lạy Chúa rồi trở về Giêrusalem, lòng đầy hân hoan. Họ có mặt luôn luôn trong đền thờ để ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa".
Dõi theo gương của các môn đệ tiên khởi của Chúa Giêsu, chúng ta hãy luôn dâng lời ca tụng và cảm tạ Thiên Chúa.
Lẽ Sống


Lectio Divina: Thánh Luca, Phúc Âm Thánh Sử – Lc 10:1-9
Thứ Tư, 18 Tháng 10, 2017
Thánh Luca, Phúc Âm Thánh Sử
Mùa Thường Niên                                              


1.  Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa,
Chúa là Đấng phò trợ và hướng dẫn chúng con,
Xin hãy làm cho tình yêu của Chúa là nền tảng của đời sống chúng con.
Nguyện xin cho tình yêu của chúng con đối với Chúa được thể hiện
qua việc chúng con sẵn lòng làm điều tốt lành cho tha nhân.
Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa, đến muôn thuở muôn đời.  Amen.

2.  Bài Đọc Tin Mừng – Luca 10:1-9 

Khi ấy, Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới.  Người bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi.  Này Ta sai các con như con chiên ở giữa sói rừng.  Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.
"Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: 'Bình an cho nhà này'.  Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy.  Bằng không, sự bình an lại trở về với các con.  Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công.  Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.  
Khi vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho.  Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng:  Nước Thiên Chúa đã đến gần các ngươi".

3.  Suy Niệm
-  Hôm nay, lễ kính Phúc Âm Thánh Sử Luca, bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta việc sai đi của Nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ, những người đi loan báo Tin Mừng của Chúa trong các làng mạc và phố thị của miền Galilêa. Chúng ta là Nhóm Bảy Mươi Hai môn đệ, những người đến sau Nhóm Mười Hai.  Thông qua sứ vụ của các môn đệ, Chúa Giêsu tìm cách khôi phục lại các giá trị cộng đoàn về truyền thống của những người cảm thấy bị nghiển nát dưới ách nô lệ gấp đôi bởi đế quốc La-Mã và bởi các giới chức Tôn Giáo.  Chúa Giêsu cố gắng đổi mới và tổ chức lại các cộng đoàn theo cách mà các cộng đoàn phải là sự biểu thị của Giao Ước, một ví dụ về Vương Quốc Nước Trời.  Đây là lý do mà Chúa nhấn mạnh đến lòng hiếu khách, sự chia sẻ, hiệp thông, đón nhận những kẻ bị gạt ra ngoài.  Điều nhấn mạnh này của Chúa Giêsu được tìm thấy trong lời khuyên bảo mà Chúa đã ban cho các môn đệ khi Người sai các ông ra đi làm sứ vụ.  Vào thời Chúa Giêsu, đã có những những phong trào khác, giống như Chúa Giêsu, đang tìm kiếm một phương cách mới để sống và sống chung với nhau, ví dụ ông Gioan Tẩy Giả, người Biệt Phái và những người khác.  Họ cũng đã thành lập các cộng đoàn môn đệ (Ga 1:35; Lc 11:1; Cv 19:3) và họ đã có các sứ vụ của mình (Mt 23:15).  Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy rằng có sự khác biệt rất lớn.   
-  Lc 10:1-3:  Sứ vụ.  Chúa Giêsu sai các môn đệ đến những nơi mà Người sẽ tới.  Người môn đệ là phát ngôn nhân của Chúa Giêsu.  Ông ta không phải là sở hữu chủ của Tin Mừng.  Chúa sai các ông đi từng hai người một.  Điều đó giúp cho sự hỗ trợ lẫn nhau, bởi vì sứ vụ không phải là cho cá nhân, mà đúng hơn đó là một sứ vụ cho cộng đoàn.
-  Lc 10:2-3:  Đồng chịu trách nhiệm.  Nhiệm vụ đầu tiên là cầu nguyện để Thiên Chúa sai thợ đi.  Tất cả các môn đệ phải cảm thấy rằng họ có trách nhiệm với sứ vụ.  Đây là lý do mà tôi nên cầu nguyện cùng với Chúa Cha cho sự liên tục của sứ vụ.  Chúa Giêsu sai các môn đệ của Người ra đi như chiên con ở giữa bầy sói rừng.  Sứ vụ là một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm; bởi vì xã hội mà trong đó các môn đệ đã sống và chúng ta đang sống đã và đang tiếp tục đối nghịch với việc tái tổ chức các cộng đoàn sống động.
-  Lc 10:4-6:  Lòng hiếu khách.  Trái với các nhà truyền giáo khác, môn đệ của Chúa Giêsu không được mang theo bên mình bất cứ thứ gì, không bao bị, không giày dép; mà họ chỉ nên mang theo sự bình an.  Điều này có nghĩa là các ông phải tin vào lòng hiếu khách của người ta; vì người môn đệ là kẻ ra đi không mang theo bất cứ vật gì, chỉ mang theo sự bình an, cho thấy rằng người đó tin tưởng vào dân chúng.  Người môn đệ nghĩ rằng mình sẽ được chào đón, và người dân thì sẽ cảm thấy được tôn trọng và được thừa nhận.  Bằng cách thực hành này, người môn đệ chỉ trích luật loại trừ và phục hồi các giá trị cổ xưa của cuộc sống trong một cộng đoàn.  Đừng chào hỏi ai dọc đường có nghĩa là không nên lãng phí thì giờ cho những việc không thuộc về sứ vụ.
-  Lc 10:7:  Chia sẻ.  Các môn đệ không nên đi từ nhà này sang nhà khác, mà họ nên ở lại một nơi.  Có nghĩa là họ phải sống chung với những người khác một cách ổn định, tham gia vào cuộc sống và công việc của người dân, sống và ăn những thứ họ nhận được, bởi vì thợ thì đáng được trả công.  Điều này có nghĩa là họ nên tin vào sự chia sẻ.  Như vậy, bằng cách thực hành mới này, họ khôi phục lại truyền thống cổ xưa của dân gian, chỉ trích nền văn hóa vơ vét được đặc trưng cho hệ thống chính trị của Đế chế La Mã và họ đã công bố một mẫu mực mới cho việc sống chung.
-  Lc 10:8:  Sự chia sẻ bên bàn ăn.  Khi người Biệt Phái đi rao giảng, họ chuẩn bị sẵn sàng.  Họ cho rằng không thể tin vào thức ăn người ta dọn cho họ vì những thức ấy không phải lúc nào cũng được “tinh khiết”.  Vì điều này, họ mang theo bên mình một bao bị và túi tiền để có thể mua thức ăn riêng cho bản thân.  Như vậy, thay vì giúp để vượt qua những chia rẽ, việc tuân giữ Lề Luật thanh sạch đã làm suy yếu thêm những giá trị của đời sống cộng đoàn.  Các môn đệ của Chúa Giêsu nên ăn bất cứ thức gì người ta dọn cho họ.  Các ông không được sống tách biệt, ăn thức ăn riêng của mình.  Điều này có nghĩa là các ông phải chấp nhận việc chia sẻ bên bàn ăn.  Trong việc tiếp xúc với dân chúng, các ông không nên sợ sẽ không giữ được luật tinh khiết.  Hành động theo cách đó, các ông bình phẩm luật lệ hiện hành, và các ông loan báo một lối vào mới cho sự tinh khiết, đó là sống thân mật với Thiên Chúa.
-  Lc 10:9a:  Đón nhận kẻ bị hắt hủi.  Các môn đệ phải chăm sóc các người bệnh, chữa sạch người phong cùi và khử trừ ma quỷ (Mt 10:8).  Điều đó có nghĩa là các ông phải chấp nhận những kẻ bị loại trừ vào trong cộng đoàn.  Điều thực hành việc đoàn kết này đã chỉ trích xã hội sống loại trừ và chỉ ra phương cách cụ thể cho việc này.  Đây cũng là công việc mục vụ dành cho những người bị hắt hủi, khách ngoại kiều và những kẻ bị thiệt thòi ngày nay.
-  Lc 10:9b:  Nước Trời sắp đến.  Nếu những đòi hỏi này được tôn trọng, thì các môn đệ có thể và nên hét to lên cho tất cả mọi nơi trên thế giới biết:  Vương Quốc Thiên Chúa đã đến!  Để loan báo về Nước Trời thì việc đầu tiên không phải là dạy về chân lý và học thuyết, mà là hướng dẫn đến một phương cách sống mới và sống với nhau như anh chị em bắt đầu từ Tin Mừng mà Chúa Giêsu đã loan báo cho chúng ta:  Thiên Chúa là Cha và Mẹ của tất cả chúng ta.         

4.  Một vài câu hỏi gợi ý cho việc suy gẫm cá nhân
-  Lòng hiếu khách, chia sẻ, hiệp thông, đón chào và chấp nhận những người bị loại trừ:  là những trụ cột hỗ trợ cho đời sống cộng đoàn.  Làm thế nào để thực hiện điều này trong cộng đoàn của tôi?
 Là Kitô hữu có ý nghĩa gì đối với tôi?  Trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình, một người đã trả lời nhà báo như sau:  “Tôi là một Kitô hữu, tôi cố gắng sống theo Tin Mừng, nhưng tôi không tham gia trong cộng đoàn của Giáo Hội”.  Và nhà báo đã nhận xét rằng:  “Thế thì, ông/bà có nghĩ mình là một cầu thủ bóng đá mà không có đội bóng chăng!”  Đây có phải là trường hợp của tôi không?

5.  Lời nguyện kết
Lạy CHÚA, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ,
kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài,
nói lên rằng:  triều đại Ngài vinh hiển,
xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng.
(Tv 145:10-11) 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét