08/07/2018
Chúa Nhật tuần 14 Thường Niên năm B
(phần I)
Bài Ðọc I: Ed 2, 2-5
"Ðây là nhà phản
loạn, và họ sẽ biết rằng giữa họ vẫn có một tiên tri".
Trích sách Tiên tri
Êdêkiel.
Trong những ngày ấy,
sau khi nói với tôi, Thần Linh nhập vào tôi, và đỡ tôi đứng dậy. Tôi nghe Người
nói với tôi rằng: "Hỡi con người, Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến
với dân nổi loạn phản nghịch Ta, chúng và cha ông chúng vi phạm giao ước của Ta
cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến để nói với những con cái dầy mặt cứng lòng rằng:
'Chúa là Thiên Chúa phán như vậy'. Hoặc chúng nghe, hoặc chúng không nghe, vì
đây là bọn phản loạn, và chúng sẽ biết rằng giữa chúng có một tiên tri".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 122, 1-2a.
2bcd. 3-4
Ðáp: Mắt chúng con nhìn vào Chúa, cho tới khi Người
thương xót chúng con (c. 2cd).
Xướng: 1) Con ngước mắt
nhìn lên Chúa, Ngài ngự trị ở cõi cao xanh. Kìa, như mắt những người nam tôi tớ,
nhìn vào tay các vị chủ ông. - Ðáp.
2) Như mắt của những
người tỳ nữ, nhìn vào tay các vị chủ bà, mắt chúng tôi cũng nhìn vào Chúa, là
Thiên Chúa của chúng tôi như thế, cho tới khi Người thương xót chúng tôi. -
Ðáp.
3) Nguyện xót thương,
lạy Chúa, nguyện xót thương, vì chúng con đã bị khinh dể ê chề quá đỗi! Linh hồn
chúng con thật là no ngấy lời chê cười của tụi giàu sang, nỗi miệt thị của lũ
kiêu căng. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Cr 12,
7-10
"Tôi rất vui
sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong
tôi".
Trích thư thứ hai của
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, để những
mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt
tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế đã ba lần tôi van nài Chúa, để nó
rời khỏi tôi. Nhưng Người phán với tôi rằng: "Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh
của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối". Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về
những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi
vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ và khốn
khó vì Ðức Kitô: vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia! -
Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6, 1-6
"Không một
tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở
về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Ðến ngày Sabbat, Người vào giảng
trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng:
"Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu
tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc con bà
Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với
chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ:
"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng
mình". Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh
nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung
quanh mà giảng dạy.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Kinh Nghiệm Của
Tiên Tri
Chúa nhật trước các
bài Kinh Thánh đã nói với chúng ta về đức tin. Hôm nay Lời Chúa nhắc lại những
kinh nghiệm trong cuộc đời của dân Israel, của Ðức Yêsu và của thánh Phaolô để
khuyến khích đức tin của chúng ta trong những hoàn cảnh đặc biệt. Ước gì chúng
ta hiểu những lời Kinh Thánh vừa nghe đọc. Và cho được như vậy chúng ta cần tìm
hiểu thêm.
1. Kinh Nghiệm Của
Israel
Bài sách Ezekiel đưa
chúng ta trở về đợt lưu đày đầu tiên của dân Israel, vào khoảng năm 597 trước Ðức
Yêsu ra đời. Nhà tiên tri ở trong đám dân khổ sở đó. Bị đày xa quê hương và đền
thờ ông cũng như mọi người tưởng rằng như vậy là hết rồi. Giao ước giữa Chúa và
dân không còn nữa. Họ đã bất tín đến nỗi Người phải trừng trị. Hoàn cảnh lưu
đày này làm chứng Người đã bỏ dân.
Ðang khi họ suy nghĩ
như vậy thì này đột nhiên Ezekiel được một thị kiến ngay nơi đất khách. Sự kiện
làm ông bàng hoàng tự nghĩ: làm sao Thiên Chúa có thể hiện ra với ông nơi dân
ngoại? Yavê có quyền cả ở địa phương này sao? Và hơn nữa Người chưa hoàn toàn bỏ
dân ư?
Rồi không những có thị
kiến, mà còn có tiếng nói. Lời Chúa nói với Ezekiel và sai ông đi đến với dân
phản loạn. Rõ ràng Thiên Chúa không bỏ kẻ có tội. Người ta bất tín, nhưng Người
vẫn tín thành.
Người sai Ezekiel đến
với họ như đã sai Môsê đến với Pharaon: vì Israel lúc này cũng lòng chai đá, mặt
trơ tráo như vua Aicập ngày trước (Xh 7,13). Và như vậy, đoạn Kinh Thánh hôm
nay ám chỉ Chúa đã bắt đầu nghĩ đến truyện cứu dân lưu đày. Và cuộc giải cứu
này một cách nào đó sẽ lập lại cuộc giải phóng khỏi Aicập mà Israel vẫn nhớ lại
với lòng khâm phục cảm mến.
Do đó Ezekiel cũng phần
nào đó giống như Môsê. Ông được đặt làm tiên tri đến với dân nhân danh Chúa.
Ông sẽ nói với những người đang làm tôi mọi dân ngoại rằng: đừng quên Chúa: Người
phán như thế này; Người sẽ ra tay uy hùng cứu kẻ tin vào Người.
Dĩ nhiên bắt đầu người
ta sẽ không tin lời cứu độ đâu, cũng như xưa Pharaô từ chối lời của Môsê. Nhưng
Chúa sẽ ở với Ezekiel như đã ở với Môsê. Ezekiel sẽ là khí cụ để Chúa biểu
dương quyền lực của Người trước mặt dân ngoại. Ông sẽ không làm những việc lạ kỳ
như Môsê ở trước nhan Pharaô, vì đối với dân ngoại cần có những dấu hiệu đó để
họ nhận biết quyền năng của Chúa. Nhưng còn đối với Israel, dân đã từng thấy những
việc kỳ diệu, không cần phép lạ nữa và những phép lạ này cũng không đủ nữa. Ðối
với những kẻ đã "thấy", bây giờ phải làm cho họ "biết" và
"hiểu". Và vì thế Ezekiel phải mạnh về "Lời", về mạc khải,
nói với lòng dân thay vì với mắt họ trước đây, để Israel sẽ thay lòng đổi dạ hầu
có một trái tim thịt máu thay vì trái tim chai đá hiện nay.
Do đó Chúa không đặt
Ezekiel làm người lãnh đạo dân như Môsê, nhưng làm tiên tri. Và như vậy không
phải chính trị sẽ hướng dẫn, nhưng là Lời Chúa sẽ đưa dân đến giải thoát cứu độ.
Dân sẽ không thấy có thẩm phán, vua quan hay lãnh tụ ở với mình thay quyền Chúa
như trước nữa, nhưng sẽ có tiên tri của Người ở giữa dân và giúp dân đi theo đường
lối của Chúa. Sự hiện diện của nhà tiên tri nói lên sự hiện diện của Chúa thay
thế cho sự hiện diện của Người nơi đất Thánh và chốn đền thờ, thay thế cho sự
có mặt của hoàng đế và tư tế, từng lãnh đạo dân trong nhiều thế kỷ trước đây.
Bài sách Ezekiel, vì
thế, mở ra trước mắt dân lưu đày một viễn tượng hoàn toàn mới mẻ. Họ có thể thấy
Chúa chưa bỏ họ trong cảnh lầm than. Người đang đi trước họ, giới thiệu con đường
cứu độ mới. Từ nay Người sẽ dùng tiên tri và dùng Lời của Người để dạy dỗ và hướng
dẫn dân, để ai tin thì sẽ được cứu độ.
Chúng ta không được an
ủi sau khi hiểu bài sách Ezekiel như thế. Ðền thờ và hàng tư tế vẫn quý và cần
thiết cho đời sống đạo. Nhưng có những lúc Chúa muốn hướng dẫn chúng ta nguyên
bằng Lời của Người, tức là bằng sách thánh, và bằng những tiên tri biết đem lời
của Chúa trình bày cho anh em. Chúng luôn muốn kêu gọi những tiên tri như vậy.
Ai đáp lời không những sẽ như Ezekiel mà còn giống như Ðức Yêsu nữa, vì chính
Người mới là vị tiên tri tuyệt diệu của Thiên Chúa mà Ezekiel và mọi tiên tri
khác chỉ như bóng sánh với hình. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta cơ hội chiêm
ngưỡng vị tiên tri tuyệt diệu ấy.
2. Kinh Nghiệm Của Ðức
Yêsu
Cho đến nay người ta vẫn
không ngớt thắc mắc về đoạn sách Marcô này. Nó đâu có làm vẻ vang gì cho Ðức
Yêsu mà tác giả sách thánh đã viết ra? Và như vậy có lợi gì đâu mà phụng vụ
ngày nay còn đem nó ra đọc trong thánh lễ? Nó cho chúng ta thấy một Ðức Yêsu bị
thất bại và bất lực ngay nơi các người đồng hương bà con của Người. Nó liệt Người
vào thân phận của mọi tiên tri chẳng bao giờ được quý trọng nơi quê quán, nếu
không muốn nói rằng Người còn thua kém họ nữa, vì chắc chắn đã có nhiều vị tiên
tri tuy không được kính trọng nhưng cũng không đến nỗi bị chống đối, phủ nhận
nơi bà con của mình.
Marcô hôm nay cho
chúng ta thấy vị tiên tri thành Nadarét bất lực quá: chẳng làm được phép lạ nào
trước sự cứng lòng tin của họ hàng thân thuộc. Người còn là vị tiên tri không tự
chủ ngay nơi bản thân Người nữa. Vì khi thì như Người thừa hiểu hoàn cảnh; lúc
lại như thể Người ngạc nhiên về thái độ của người ta. Hay là Marcô đã dùng những
từ ngữ không chỉnh và mâu thuẫn? Trong một câu ông khẳng định cả việc Ðức Yêsu
không làm được phép lạ nào, cả việc Người chữa lành một số ít người đau ốm. Những
việc chữa lành này không phải là phép lạ sao?
Nhận thấy những lời
văn khó hiểu, và nhất là thấy ý tưởng chung bất lợi cho Ðức Yêsu quá, nhiều người
thắc mắc không hiểu tạo sao có đoạn văn này trong sách Marcô. Và người ta đưa
ra không biết bao nhiêu lý lẽ và giả thiết. Nhưng mọi cố gắng làm suy yếu đoạn
văn này đều vấp phải một sự hiển nhiên: đoạn văn nằm đó trong sách của Marcô với
những lời lẽ mà chẳng ai có thể tẩy xóa hay sửa chữa được nữa. Và bổn phận của
chúng ta bây giờ là phải chấp nhận và tìm hiểu nó.
Nhìn vào vị trí của đoạn
văn trong sách của Marcô, chúng ta thấy đã đến lúc Ðức Kitô sắp bỏ Galilêa để
xuống thi hành sứ vụ ở Yuđêa. Và như vậy cũng là lúc để có một cái nhìn tổng
quát về sứ vụ ở Galilêa, nếu không muốn nói rằng tác giả Marcô đã muốn lợi dụng
lúc này để cho chúng ta một cái nhìn chung về những năm giảng đạo của Ðức Kitô.
Có thể Marcô cũng muốn tựa vào kinh nghiệm của vị tiên tri thành Nadarét để nói
về thân phận của Hội Thánh nói chung và của từng tông đồ nói riêng. Dù sao, đây
cũng là một cái nhìn tổng quát về đời hoạt động của một tiên tri.
Thế nên tác giả Marcô
có thể lấy lại một cái nhìn cổ điển của Cựu Ước: mọi tiên tri trong các thời đại
trước đều đã không được số phận may mắn. Ezekiel chẳng hạn. Hôm nay sách thánh
viết rõ ông đã được sai đến với dân phản loạn mặt trơ tráo và lòng chai đá.
Nhưng người ta vẫn phải biết ông là tiên tri. Ðức Yêsu cũng là tiên tri và hơn
mọi tiên tri nữa. Ở nơi Người các nét tả chính yếu về bậc tiên tri phải nổi
hơn, nổi nhất. Người phải đối diện với một dân lòng chai dạ đá. Hơn nữa, họ phải
phản đối kình địch với Người hơn mọi tiên tri khác. Sự cay đắng chua xót của Người
phải nhiều hơn. Người gặp thấy nó ngay trong hàng bà con thân thích để Yoan có
thể viết rằng: Người đã đến nhà của Người, nhưng gia nhân Người đã không chấp
nhận Người. Ðó là điều Cựu Ước thường viết về Yavê Thiên Chúa: Người ra tay làm
bao việc lạ cho dân mà dân vẫn tỏ lòng chai đá bội bạc.
Nhưng nơi nhà tiên tri
không phải chỉ có thất bại. Ðúng hơn nữa, sự chống đối ông gặp phải nói lên tội
lỗi của người ta chứ không tố cáo sự bất lực của ông. Nơi ông vẫn có "dấu
tay uy quyền của Chúa". Chính vì vậy mà Ðức Yêsu vẫn chữa lành được cho một
số ít bệnh nhân khi họ có điều kiện mà đa số không có. Họ có lòng tin đang khi
những người khác cứng lòng tin. Nói theo loài người, Ðức Kitô có thể ngạc nhiên
về thái độ của đa số: thấy giáo lý khác thường và các phép lạ Người làm mà họ
không mềm lòng ra. Nhưng với cái nhìn của Thiên Chúa hay của đức tin, thì điều
này cũng không lạ, bởi vì cả lịch sử thánh cho thấy loài người luôn luôn cưỡng
lại tình thương của Thiên Chúa. Trừ một số ít. Số ít này là những kẻ được cứu vớt.
Họ sẽ làm thành đàn chiên nhỏ. Họ sẽ thừa tự Nước Trời vì họ tin rằng: có nhà
tiên tri của Chúa ở giữa họ, mặc dù bề ngoài có nhiều điều cản trở niềm tin
này.
Do đó bài Tin Mừng hôm
nay là cả một bài học quý giá cho chúng ta. Không nên căn cứ vào câu "chẳng
tiên tri nào được kính trọng tại quê nhà" để bao biện cho các khuyết điểm
và thất bại trong đời sống tông đồ. Tin Mừng của Chúa không bao giờ muốn an ủi
kiểu như vậy. Luôn luôn nó muốn chất vấn lương tâm người ta thường có thái độ
nào đối với một Ðấng Thiên Chúa và một Ðức Kitô Người sai đến như vậy? Người ta
có sẵn sàng tin sứ điệp tình yêu và cứu độ mà Thiên Chúa gửi đến nơi Lời Kinh
Thánh, nơi vị tiên tri, nơi Hội Thánh của Người không? Hay người ta luôn luôn
là những người Dothái ở thời Ezekiel và ở thời Ðức Kitô, chỉ muốn tin vào sứ điệp
và sứ giả nào hứa hẹn những lợi ích trước mắt? Thiết tưởng bài thư Phaolô cũng
phải được hiểu theo chiều hướng này.
3. Kinh Nghiệm Của
Phaolô
Người đang nói với
giáo dân Côrintô yêu quý của người. Họ đã được nhiều tông đồ có óc Dothái đến
viếng thăm. Những người này gièm pha Phaolô đủ điều, cốt để người Côrintô đừng
tin vào giáo lý cứu độ của Phaolô nữa. Nhưng nếu bỏ niềm tin này, thì làm sao
được cứu độ? Phaolô phải can thiệp ngay. Người gửi thư không phải để chữa mình
hay để lấy lại uy tín. Người quá tâm lý để biết rằng làm như vậy sẽ chỉ thêm thất
bại. Nhất là lòng đạo đức và tinh thần tông đồ đã giết chết khuynh hướng tự tôn
ở nơi người từ lâu rồi. Người viết thư hôm nay là để thi hành sứ vụ tiên tri,
rao giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Người không khoe
khoang, mặc dù người có rất nhiều điều hay để nói về mình. Không những gia thế,
học lực và những nét Dothái cao quý ở nơi người; mà cả những thành quả, lao
công trong cuộc đời tông đồ; thậm chí những thị kiến và mạc khải cao siêu nữa...
Tất cả đều không được người để ý và gán cho một chút vinh quang nào. Ngược lại,
người nhấn mạnh đến một cái "dằm" ở trong thân xác người. Nó làm đau,
làm nhục người triền miên. Nó là cái gì người không xác định; nên ai có ý tưởng
nào cũng chỉ là suy đoán. Ðiều quan trọng mà Người muốn nói là cái dằm trong
xác thịt ấy luôn luôn tố cáo sự yếu đuối của người ở trước mặt Chúa để người ý
thức không phải mình sống nhưng là Ðức Kitô sống trong mình, không phải mình mạnh
nhưng là quyền năng của Ðức Kitô đậu lại ở nơi mình. Và như thế người sẽ như Ðức
Kitô, như Ezekiel, như mọi tiên tri.
Cuộc đời của những vị
này luôn mang hình thức yếu đuối, bất lực, thất bại trước mắt thế gian, nhưng
dưới cái nhìn của đức tin lại là nơi quyền năng cứu độ của Thiên Chúa đang hoạt
động.
Như vậy chúng ta có phải
bắt chước các ngài không, tức là tạo ra trong đời sống của mình một hình dạng yếu
đuối nào đó? Không cần như vậy. Ðiều cần trước hết là chúng ta phát triển niềm
tin vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, cho dù có bao nét bề ngoài của kế hoạch
đó dường như muốn làm chúng ta nản lòng. Chúa đã đòi dân Dothái thời Ezekiel phải
tin vào Lời Người và vào vị tiên tri khi họ không còn quê hương, đền thờ. Người
đã đòi bà con thân thuộc của Ðức Yêsu lướt thắng những cản trở bên ngoài thuộc
gia thế và địa vị xã hội của nhà tiên tri thành Nadarét để đón nhận ơn cứu độ.
Hằng ngày Chúa vẫn đòi chúng ta phải có niềm tin như vậy qua mọi thử thách trần
gian. Hơn nữa Chúa lại muốn chúng ta trở nên các tiên tri của Người để giúp anh
em đồng bào nhận ra Tin Mừng cứu độ. Chúng ta có sẵn sàng đi vào đường lối của
Ezekie, của Phaolô và của Ðức Kitô không?
Tất cả những điều này
sẽ diễn ra trong thánh lễ. Ở đây niềm tin đòi mọi người phải lướt thắng nhiều
nét bên ngoài để đạt tới các mầu nhiệm thâm sâu. Ở đây chúng ta phải đón nhận một
Ðức Yêsu Kitô tử nạn và phục sinh. Và chính Người lại là Ðấng Cứu thế... Người
kêu gọi chúng ta tin vào đường lối của Người, trở thành tông đồ của Người, sống
như Người để làm lan rộng ơn cứu độ. Chúng ta có nhiệt tình đáp lại chờ mong của
Người không, để Lời Chúa và Mình Thánh Chúa hôm nay đem lại hiệu quả thật sự
trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Trích dẫn từ tập
sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục
Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 14 Thường Niên, Năm B
Bài đọc: Eze
2:2-5; II Cor 12:7-10; Mk 6:1-6.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Những điều ngăn cản con người không nhìn ra sự thật.
Trong hành trình đi tìm sự thật, con người cần phải học biết Thiên Chúa, biết tha
nhân, và biết chính mình. Nếu chỉ ngông cuồng biết mình thôi, con người dễ phản
loạn chống lại Thiên Chúa và tha nhân. Hơn nữa, khi con người chỉ biết mình,
con người sẽ dễ kiêu hãnh và khinh thường Thiên Chúa và tha nhân.
Các Bài Đọc hôm nay đưa ra một số lý do tại sao con người không tin Thiên Chúa.
Trong Bài Đọc I: Vì tính ngông cuồng và phản loạn, dân tộc Israel đã lạc xa đường
lối Thiên Chúa. Tiên tri Ezekiel được Thiên Chúa sai tới để chinh phục họ về
cho Ngài. Trong Bài Đọc II: Để ngăn ngừa tính kiêu hãnh của Phaolô, Thiên Chúa
đã bắt ông chịu đau khổ để ông nhận ra một điều quan trọng: sức mạnh ông có được
đến từ Thiên Chúa. Ngài hoạt động trong những yếu đuối của Phaolô. Trong Phúc
Âm: Được chứng kiến những lời khôn ngoan từ miệng Chúa và chứng kiến những phép
lạ Ngài làm, thay vì những người đồng hương Nazareth đánh giá Chúa trên những
giá trị này để tin vào Chúa; họ lại đánh giá gia đình, tài sản, địa vị, và các
môn đệ, những điều không phải là Chúa, để rồi khinh thường và không tin vào
Chúa.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Giống nòi phản loạn không chịu tin vào Thiên Chúa.
1.1/ Những đứa con mặt
dày mày dạn, lòng chai dạ đá: Dân tộc Israel
bị Thiên Chúa mắng là giòng giống phản loạn. Thiên Chúa phán với Tiên-tri
Ezekiel: “Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân
phản nghịch đang nổi loạn chống lại Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống
lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá,
chính Ta sai ngươi đến với chúng.”
Đặc
tính của người phản loạn:
+ Họ không muốn nghe lời của bất cứ ai: Họ lấy mình làm tiêu chuẩn để phán xét
mọi người. Họ không muốn nghe lời Thiên Chúa hay những gì Ngài nói qua các ngôn
sứ.
+ Họ khó chịu khi thấy ai làm gì không giống họ: Họ không muốn tin Thiên Chúa;
đã vậy, họ còn ngăn cản những ai tin vào Thiên Chúa. Lý do: những tín hữu khuấy
động lương tâm của họ. Người Do-thái bắt bớ và truy tố các ngôn sứ, vì các ngôn
sứ không chịu phản loạn như họ.
+ Họ muốn làm gì thì làm: Giống như con ngựa bất kham, không muốn đeo bất cứ điều
gì trên người để tự do bay nhảy tung tăng khắp chốn; nhưng người chủ phải chế
ngự nó bằng giây cương hàm thiết, nó mới chịu ngoan ngoãn thi hành lệnh của chủ.
Giống người phản lọan cũng thế, họ không muốn giữ bất cứ luật lệ nào của Thiên
Chúa cũng như của loài người. Nhưng loại người như thế sẽ không tồn tại lâu
dài, vì luật pháp sẽ không dung thứ họ. Cho dù họ có thể qua mặt loài người, họ
sẽ không qua khỏi cơn thịnh nộ của Thiên
Chúa.
1.2/ Các ngôn sứ là khí cụ
Thiên Chúa dùng để vạch ra lầm lỗi của họ: Chúa
muốn Tiên-tri Ezekiel phải can đảm nói những gì Chúa muốn nói: “Còn chúng, vốn
là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng
có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.”
Thái độ của ngôn sứ: Không được sợ hãi loại người phản loạn này, nhưng phải can
đảm vạch ra lầm lỗi của chúng: “Phần ngươi, hỡi con người, đừng sợ chúng, cũng
đừng sợ những lời chúng nói, dù ngươi có bị chống đối, có gặp chông gai tư bề,
hay ngồi trên bò cạp. Những lời chúng nói, ngươi đừng sợ; có phải giáp mặt
chúng, cũng đừng khiếp, vì chúng là nòi phản loạn. Ngươi cứ nói với chúng những
lời của Ta, dù chúng nghe hay không, vì chúng là quân phản loạn” (Eze 2:6-7).
2/ Bài đọc II: Sức mạnh của Thiên Chúa được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu
đuối.
2.1/ Đau khổ giúp con người
khỏi tự cao tự đại: Phaolô, trước khi trở
thành môn đệ của Đức Kitô, là người nhiệt thành và kiêu hãnh. Ông hãnh diện với
truyền thống của cha ông, và nhiệt thành truy tố những tín hữu của Đức Kitô,
Người mà ông cho là xúi giục dân chúng chống lại Lề Luật của cha ông. Để dạy
Phaolô một bài học, Chúa để ông té ngựa và bị mù; đồng thời Ngài cũng mặc khải
cho ông biết nguy hiểm của những ai mù quáng giơ chân đạp mũi nhọn. Kể từ đó
Phaolô suy nghĩ về thái độ quá khích của mình, và khiêm nhường để Đức Kitô hướng
dẫn cuộc đời của ông.
Trình thuật hôm nay kể: “Và để tôi khỏi tự cao tự đại vì những mặc khải phi thường
tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một cái dằm đâm vào, một thủ hạ của
Satan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự cao tự đại.” Qua các Thư Phaolô,
chúng ta biết ông đã được Đức Kitô thân hành hiện ra dạy dỗ và cho hiểu biết
nhiều mầu nhiệm. Chính vì được thấu hiểu các mầu nhiệm mà Satan ganh tị với
ông. Không lạ gì khi Satan đến vả mặt ông vì chúng không muốn ai thấu hiểu những
mầu nhiệm này. Hơn nữa, biết những điều phi thường dễ đưa con người đến chỗ tự
mãn, tự kiêu. Chúng ta không biết rõ “cái dằm đâm vào thân xác Phaolô” là cái
gì: có người cho là cám dỗ thân xác, có người cho là các bệnh tật mà ông phải
chịu; nhưng điều quan trọng ông đã nói ra là “cái dằm” ngăn ngừa ông để khỏi tự
cao, tự đại.
2.2/ Phaolô nhận ra sức mạnh
đến từ Thiên Chúa: Qua kinh nghiệm của biến
cố trở lại và của “cái dằm đâm vào thân xác,” Phaolô hiểu rõ con người kiêu
hãnh và yếu đuối của mình. Ông biết nếu không có sức mạnh của Thiên Chúa chữa
lành và ở với ông, ông sẽ mù lòa suốt đời về cả thể lý và tâm linh; nhưng vì
tình yêu Thiên Chúa dành cho ông, Ngài cho ông lại được nhìn thấy ánh sáng và
thấu hiểu sự quan trọng của Đức Kitô trong Kế Hoạch Cứu Độ.
Trong trình thuật hôm nay, vì nhiệt thành rao giảng đức tin, Phaolô đã ba lần
xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ của “cái dằm;” nhưng Đức Kitô quả quyết với
ông: “Ơn của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn
trong sự yếu đuối.” Chúng ta ít nhiều cũng có những kinh nghiệm như Phaolô, khi
đang hăng hái nhiệt thành rao giảng hay làm việc tông đồ, mà chúng ta bị những
ngăn trở như bệnh tật, bắt bớ, hiểu lầm; chúng ta muốn Chúa lấy đi những trở ngại
này với ý hướng tốt lành, để chúng ta mạnh khỏe và có cơ hội tiếp tục phục vụ
Chúa. Thiên Chúa có kế hoạch khác: nhiều khi Ngài muốn chúng ta chậm lại để có
thời giờ suy nghĩ chín chắn hơn, hay muốn chúng ta nghỉ ngơi để chuẩn bị cho sứ
vụ sắp tới cam go hơn.
Thái độ chúng ta cần có là học nơi Phaolô: “Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào
vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy,
tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt
nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.”
3/ Phúc Âm: Tại sao con người từ chối không tin vào Chúa Giêsu?
3.1/ Đức Kitô chuẩn bị
cho người đồng hương để họ tin vào Ngài: Để
một người có thể tin vào Đức Kitô, họ cần nhiều yếu tố quan trọng. Ngài chuẩn bị
cho họ những điều cần thiết này:
(1) Ngài cho họ có cơ hội gặp gỡ Ngài: Họ không đi tìm Chúa, nhưng Đức Giêsu trở
về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. Đến ngày Sabbath, Người bắt đầu
giảng dạy trong hội đường.
(2) Ngài cho họ nhận ra sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi Ngài: Khi Ngài giảng dạy
trong hội đường, nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Chính họ đã phải thốt
lên: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm
sao?”
(3) Ngài cho họ nhận ra Ngài có uy quyền của Thiên Chúa: Khi chứng kiến các
phép lạ Chúa Giêsu đã làm, họ đã phải ngạc nhiên thốt lên: “Ông ta làm được những
phép lạ như thế, nghĩa là gì?”
3.2/ Người đồng hương
không nhận ra Đức Kitô: Lý do chính khiến
người đồng hương không nhận ra Đức Kitô là thay vì họ phải phán xét chính Đức
Kitô và các việc Ngài làm, họ lại quay qua phán xét gia đình của Chúa. Họ nói:
“Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria, và anh em của các ông Giacôbê,
Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với
chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người.
Một ví dụ người Việt-nam chúng ta có kinh nghiệm là biến cố thi cử sau 1975, mà
chúng ta thường nói khôi hài: “học tài thi lý lịch.” Thay vì chấm điểm thí
sinh, giám khảo quay sang xét lý lịch gia đình. Nếu thí sinh là con của ngụy
quân ngụy quyền, hay thuộc các gia đình “tư sản mại bản;” họ sẽ bị đánh rớt trước
khi giám khảo có cơ hội xem bài thi của họ.
3.3/ Bụt nhà không
thiêng: Đức Giêsu bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê
hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.”
Đây là một thực tế đau lòng, mà người Mỹ có câu “Familiarity breeds contempt.”
Tục ngữ Việt-nam cũng có câu tương tự: “Quen chó, chó liếm mặt.”
(1) Nơi quê hương: Nhiều người chúng ta có thói quen thổi phồng người ngoại quốc.
Cái gì của Mỹ cũng hay, cũng tốt, cũng đẹp; cái gì của Việt-nam cũng dở cũng xấu.
Họ có biết đâu họ đang bị thành kiến chi phối, vì dân tộc nào cũng có cái hay
cái dở; và không phải người Mỹ nào cũng tốt hay người Việt-nam nào cũng xấu.
(2) Giữa họ hàng: Nhiều người thường đánh giá người đồng hương trên bằng cấp, địa
vị, hay tài sản. Trình thuật hôm nay cho biết lý do họ khinh thường Chúa Giêsu
là vì họ biết gia đình của Ngài. “Con bác xã chùa phải quét lá đa;” con bác thợ
mộc, làm sao có cơ hội để quán thông Lề Luật? Qui tụ một đám môn đệ thất học
như thế, thầy cũng chẳng hơn trò!
(3) Trong gia đình: Nhiều người trong chúng ta đã từng có kinh ngiệm này. Chúng
ta không thể hiểu lý do tại sao khi chúng ta làm cho người ngoài gia đình chỉ một
việc rất nhỏ bé như chỉ bài, cho một ly nước, giới thiệu một việc làm, họ đã biết
ơn hết sức và trả ơn bội hậu cho chúng ta. Trong khi ở nhà, chúng ta hy sinh tất
cả mọi sự cho gia đình đến chỗ chỉ còn chấp nhận cái chết; nhưng người trong
nhà vẫn vô ơn, bạc nghĩa, đến chỗ một lời cám ơn cũng không được lãnh nhận. Có lẽ
vì người trong gia đình giả sử chúng ta phải làm những việc đó!
Trình thuật Marcô kết luận: “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó;
Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ
không tin.”
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Chúng ta phải dẹp bỏ tính ngông cuồng và phản loạn, vì chúng gây thiệt hại
cho chúng ta. Trái lại, chúng ta phải biết vâng lời Thiên Chúa và giữ các huấn
lệnh của Ngài.
– Chúng ta phải dẹp bỏ tính kiêu hãnh vì nó đánh lừa chúng ta. Ngược lại, chúng
ta hãy luyện tập cho biết khiêm nhường để nhìn nhận những yếu kém và giới hạn của
mình.
– Khi phải phán xét, hãy phán xét biến cố xảy ra hay người làm biến cố đó; đừng
phán xét biến cố không liên quan đến sự việc hay những người không liên quan gì
đến biến cố đó.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
08/07/2018 – CHÚA NHẬT TUẦN 14 TN – B
Mc 6,1-6
CHÚA CŨNG… BÓ TAY
Ngài đã không thể làm được phép lạ nào tại đó… vì họ không
tin. (Mc 6,5-6)
Suy niệm: Dân Việt Nam ta có lệ người đi xa làm ăn thành công, học hành đỗ đạt,
trở về quê vinh quy bái tổ, thường tổ chức khao vọng trong sự tôn vinh trọng vọng
của bà con làng xóm. Các tân chức linh mục, giám mục về dâng lễ tạ ơn tại quê
nhà cũng không ra ngoài bối cảnh đó. Chúa Giê-su bước vào sứ vụ công khai đã sớm
nổi tiếng với lời giảng dạy khôn ngoan và những phép lạ thần kỳ. Danh tiếng
Ngài đồn xa, khắp miền Giu-đê-a vượt qua sông Gio-đan tới tận miền Thập Tỉnh,
ai cũng hay cũng biết. Một lần Ngài ghé về quê nhà và Ngài “khao” họ bằng một
bài giảng trong hội đường trong ngày Sa-bát. Thế nhưng, thất bại! Một đàng, người
ta rất đỗi ngạc nhiên vì sự nổi tiếng của người đồng hương, đàng khác họ lại vấp
phải định kiến về “lý lịch” của Chúa Giêsu khiến họ không thể nhận ra và tin được
nguồn gốc thần linh và thân cách Đấng Cứu Thế của Ngài. Thế mới hay một khi
lòng người đã đóng chặt vì những định kiến, thì Thiên Chúa cũng… chào thua.
Mời Bạn: Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Thiên Chúa coi con người như “đối tác”
trong chính công trình cứu chuộc con người. Chúa có thể làm được tất cả mọi
chuyện, nhưng tại sao Ngài vẫn muốn lệ thuộc vào sự đón tiếp và mở lòng của con
người?
Chia sẻ: Bạn suy nghĩ gì về vai trò của con người trong việc Chúa
cứu chuộc chính con người?
Sống Lời Chúa: Quan tâm khích lệ một người thường bị lãng quên trong cộng
đoàn.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin
cho con luôn mở lòng trước ơn Chúa để con biết nhận ra Chúa hiện diện nơi người
anh em nhỏ bé nhất trong cộng đoàn.
(5 Phút Lời Chúa)
Không làm được phép lạ (8.7.2018 – Chúa nhật 14 Thường niên, Năm B)
Suy Niệm
Ðức Giêsu giảng dạy ở hội đường tại quê nhà.
Phản ứng của dân làng là hết sức ngạc nhiên
trước sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng.
Nếu họ chân thành tìm kiếm
họ có thể nhận ra khuôn mặt thật của người họ quá quen.
Phản ứng của dân làng là hết sức ngạc nhiên
trước sự khôn ngoan trong lời Ngài giảng.
Nếu họ chân thành tìm kiếm
họ có thể nhận ra khuôn mặt thật của người họ quá quen.
Tiếc thay người làng Nazareth đã không đủ vô tư.
Họ bị ám ảnh bởi quá khứ của Ngài,
và họ không sao ra khỏi những định kiến sẵn có.
“Ông ta không phải là bác thợ sao?”
Một bác thợ sống bằng đôi tay như bao người.
Một bác thợ trong làng, âm thầm và khiêm tốn,
sống bao năm ở đây không một chút hào quang.
Họ cũng bị ám ảnh bởi cái hiện tại trước mắt:
Bà Maria và các anh em, chị em của ông,
tất cả vẫn đang sống rất đỗi bình thường,
như những người láng giềng gần gũi.
Một quá khứ và hiện tại như thế
đã khiến họ vấp phạm.
Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ,
lại càng không thể tin Ngài là Mêsia,
và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng
mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Họ bị ám ảnh bởi quá khứ của Ngài,
và họ không sao ra khỏi những định kiến sẵn có.
“Ông ta không phải là bác thợ sao?”
Một bác thợ sống bằng đôi tay như bao người.
Một bác thợ trong làng, âm thầm và khiêm tốn,
sống bao năm ở đây không một chút hào quang.
Họ cũng bị ám ảnh bởi cái hiện tại trước mắt:
Bà Maria và các anh em, chị em của ông,
tất cả vẫn đang sống rất đỗi bình thường,
như những người láng giềng gần gũi.
Một quá khứ và hiện tại như thế
đã khiến họ vấp phạm.
Họ không tin Ngài là một Ngôn Sứ,
lại càng không thể tin Ngài là Mêsia,
và chắc chắn họ chẳng bao giờ dám nghĩ rằng
mình là người đồng hương với Ngôi Hai Con Thiên Chúa.
Không chắc chúng ta đã khá hơn người làng Nazareth.
Hôm nay chúng ta vẫn có thể bị đóng khung
trong một cái nhìn nào đó về Ðức Kitô,
khiến chúng ta chỉ thấy một phần khuôn mặt của Ngài.
Có những người chúng ta rất quen, sống sát bên ta,
nhưng chúng ta chẳng hiểu mấy về họ.
Những gì tôi biết về họ là đúng,
nhưng không đủ.
Mỗi người là một mầu nhiệm cần khám phá suốt đời.
Cần phải ra khỏi mình, ra khỏi cái nhìn khô cứng
để gặp được mầu nhiệm tha nhân,
để thấy người khác bằng cái nhìn luôn luôn mới.
Hôm nay chúng ta vẫn có thể bị đóng khung
trong một cái nhìn nào đó về Ðức Kitô,
khiến chúng ta chỉ thấy một phần khuôn mặt của Ngài.
Có những người chúng ta rất quen, sống sát bên ta,
nhưng chúng ta chẳng hiểu mấy về họ.
Những gì tôi biết về họ là đúng,
nhưng không đủ.
Mỗi người là một mầu nhiệm cần khám phá suốt đời.
Cần phải ra khỏi mình, ra khỏi cái nhìn khô cứng
để gặp được mầu nhiệm tha nhân,
để thấy người khác bằng cái nhìn luôn luôn mới.
Chúng ta thường nói đến một Thiên Chúa toàn năng,
nghĩa là Ðấng làm được mọi sự.
Nhưng Ðức Giêsu tại Nazareth lại cho ta thấy
hình ảnh một Thiên Chúa yếu đuối và bất lực.
Ngài bó tay trước sự cứng lòng của con người.
Ðức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.
Thế mới hay con người có khả năng cản trở Thiên Chúa,
có thể dùng chính tự do Ngài ban để khước từ Ngài.
Phép lạ là quà tặng cần được đón nhận với lòng tin.
Phép lạ không phải là phù phép áp đặt trên người nhận.
nghĩa là Ðấng làm được mọi sự.
Nhưng Ðức Giêsu tại Nazareth lại cho ta thấy
hình ảnh một Thiên Chúa yếu đuối và bất lực.
Ngài bó tay trước sự cứng lòng của con người.
Ðức Giêsu đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.
Thế mới hay con người có khả năng cản trở Thiên Chúa,
có thể dùng chính tự do Ngài ban để khước từ Ngài.
Phép lạ là quà tặng cần được đón nhận với lòng tin.
Phép lạ không phải là phù phép áp đặt trên người nhận.
Có bao điều lạ lùng Thiên Chúa định làm cho đời ta,
mà Ngài không làm được, vì không được làm.
Nên thánh là để cho Ngài yêu thương ta,
để cho Ngài tự do hoạt động trong đời ta.
Lúc đó đời ta sẽ trở nên một kỳ công của Thiên Chúa,
và nhờ Ngài, ta có thể làm được những kỳ công.
mà Ngài không làm được, vì không được làm.
Nên thánh là để cho Ngài yêu thương ta,
để cho Ngài tự do hoạt động trong đời ta.
Lúc đó đời ta sẽ trở nên một kỳ công của Thiên Chúa,
và nhờ Ngài, ta có thể làm được những kỳ công.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
dân làng Nazareth đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người,
Cũng có lúc chúng con không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối
trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
hiện diện dưới hình bánh mong manh,
nơi một linh mục yếu đuối
trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn mình
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
nơi những gì thế gian chê bỏ,
để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
8 THÁNG BẢY
Dưới Bóng Đấng Toàn
Năng
Không ai có thể phủ nhận
vẻ hùng tráng của những vần thơ trong Thánh Vịnh tán dương Thiên Chúa như là
nơi trú ẩn, như là sự bảo vệ và là đồn lũy cho con người. Chẳng hạn, chúng ta đọc
thấy trong Thánh Vịnh 91:
“Hỡi ai nương tựa Đấng
Tối Cao
và núp bóng Đấng quyền
năng tuyệt đối,
hãy thưa với Chúa rằng:
‘Lạy Thiên Chúa,
Ngài là nơi con trú ẩn,
là đồn lũy chở che,
con tin tưởng vào
Ngài’…
Vì bạn có Chúa làm nơi
trú ẩn,
có Đấng Tối Cao làm chỗ
nương thân…
Chúa phán: ‘Kẻ gắn bó
cùng Ta sẽ được ơn giải thoát,
người nhận biết Danh
Ta sẽ được sức phù trì.
Khi kêu đến Ta, Ta liền
đáp lại;
lúc ngặt nghèo, có Ta ở
kề bên” (Tv 91,1-2.9.14-15).
Những diễn tả ấy thật
rất đẹp và rất đánh động. Nhưng những lời của Đức Kitô còn có ý nghĩa nhiều hơn
thế nữa. Thật vậy, đó là những lời được nói lên bởi chính Chúa Con, Đấng thấu
suốt mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Lời Đức Kitô mang lời chứng hoàn hảo
về mầu nhiệm Chúa Cha: mầu nhiệm quan phòng và mối quan tâm từ phụ đối với mọi
tạo vật, ngay cả đối với cỏ dại ngoài đồng và con chim sẻ bé nhỏ. Sự quan phòng
ấy càng đặc biệt hơn biết mấy đối với con người chúng ta! Và đây chính là điều
mà Đức Kitô nhấn mạnh trước hết.
– suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 08/7
Chúa Nhật XIV Thường
Niên
Ed 2, 2-5; 2Cr 12,
7-10; Mc 6, 1-6.
LỜI SUY NIỆM: “Đến ngày
Sabát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đổi ngạc
nhiên. Họ nói: ‘Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy,
nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì?”
Trong câu chuyện Chúa Giêsu trở lại quê nhà, và Người giảng dạy trong hội đường,
đã gây sự ngạc nhiên cho dân làng Nadarét. Những điều đã làm cho họ ngạc nhiên,
thay vì họ cần tìm trong Thánh Kinh, Thánh Truyền để nhận ra Người là ai, Họ lại
chỉ nhìn đến những khía cạnh tầm thường ngang tầm với họ, nên họ đã đánh giá
sai về Người, làm cho họ mất đi những ân huệ mà Người muốn đem lại cho dân làng
Nadarét.
Lạy Chúa Giêsu. với sự tiến bộ về truyền thông, Lời Chúa và những giáo huấn của
Giáo Hội cũng như các sinh hoạt của Giáo Hội được phổ biến rộng khắp. Xin cho
người tín hữu chúng con luôn biết quan tâm theo dõi để canh tân đời sống của
mình và cọng tác với Giáo Hội phục vụ con người vì vinh quang của Thiên Chúa.
Mạnh Phương
08 Tháng Bảy
Sự Hiện Diện Của Con Dê
Ðể khuyên chúng ta
chấp nhận cuộc sống, người Ðức thường kể câu chuyện sau đây:
Có một nhà hiền triết
nọ chuyên cố vấn giúp đỡ cho những ai gặp buồn phiền, chán nản trong cuộc sống.
Bất cá ai đến xin chỉ bảo cũng đều nhận được lời khuyên thiết thực… Một hôm, có
một người thợ may mặt mày thiểu não chạy đến xin cầu cứu. Gia đình ông gồm có
ông, vợ ông và bảy đứa con trai nhỏ. Tất cả chen chúc nhau trong một căn nhà gần
như đổ nát. Người vợ phải la hét suốt ngày vì bị sự quấy phá của bảy đứa con.
Xưởng may của ông lúc nào cũng lộn xộn, bẩn thỉu vì những nghịch ngợm của lũ
con. Thêm vào đó là những tiếng la hét, khóc nhè suốt ngày, khiến người thợ may
không thể chú tâm làm việc được.
Nghe xong câu chuyện,
nhà hiền triết mới đề nghị với người thợ may như sau: “Anh hãy ra chợ mua cho kỳ
được một con dê, rồi dắt nó về cột ngay trong xưởng may của anh”. Người đàn ông
đàng thương không đoán được ẩn ý của nhà hiền triết, nhưng đặt tất cả tin tưởng
vào ông, cho nên anh về thu gom hết tiền của trong nhà để ra chợ mua cho kỳ được
con dê.
Chúng ta hãy tưởng
tượng: sự hiện diện của con dê trong xưởng may sẽ giúp được gì cho anh ta? Con
vật hôi hám ấy không những phóng uế nhơ bẩn lại suốt ngày còn kêu những tiếng
không êm tai chút nào. Cái xưởng may chỉ trong một ngày đã biến thành một chuồng
súc vật bẩn thỉu không thể chịu đựng được… Người thợ may lại đến than phiền với
nhà hiền triết vì sự hiện diện của con dê. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới bảo
anh: “Anh hãy tức khắc mang nó ra chợ và bán lại cho người khác”. Người đàn ông
cảm thấy như nhẹ nhõm cả người. Anh dắt con vật ra chợ. Trong khi đó, ở nhà, vợ
anh mang nước vào tẩy uế cái xưởng may. Bảy đứa nhóc con của anh bắt đầu trở lại
xưởng may và hò hét trở lại. Người đàn ông nhìn xuống xưởng may rồi mỉm cười
nhìn mấy cậu con trai của anh đang chạy nhảy la hét. Anh tự nhủ: dù sao, tiếng
la hét của mấy đứa con của anh, so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn, vẫn dễ chịu
hơn… Và chưa bao giờ anh cảm thấy hạnh phúc hơn ngày hôm đó.
Tâm lý thông thường,
chúng ta dễ có thái độ “đứng núi này nhìn núi nọ”. Những cái quen thuộc, những
cái trước mặt, những cái thường ngày, những cái nhỏ bé thường dễ bị khinh thường…
Mang lấy thân phận con
người, sống trọn vẹn kiếp người, Chúa Giêsu mặc cho tất cả mọi thực tại của cuộc
sống một ý nghĩa mới, một giá trị mới. Chỉ qua những thực tại từng ngày, chỉ
qua các sinh hoạt hàng ngày con người mới có thể gặp gỡ được Thiên Chúa.
Giá trị của mỗi một
phút giây hiện tại chính là mang nặng sự hiện diện của chính Chúa. Giá trị của
cuộc sống chính là được dệt bằng những gặp gỡ triền miên giữa Thiên Chúa và con
người…
Không ai trong chúng
ta chọn lựa để được sinh ra. Không ai trong chúng ta chọn lựa cha mẹ và gia
đình để được sinh ra. Có người sinh ra trong cảnh giàu sang phú quý. Có người
sinh ra trong cảnh nghèo nàn. Có người thông minh. Có ngưòi đần độn… Mỗi người
chúng ta đến trong cuộc đời với một hành trang có sẵn. Chúa mời gọi chúng ta
đón nhận cuộc đời như một Hồng Ân của Chúa. Ngài mời gọi chúng ta đón nhận từng
phút giây của cuộc sống như một ân huệ… Nói như Thánh Phaolô: “Tất cả đều là ân
sủng của Chúa”: tất cả đều phải được đón nhận với lòng biết ơn và tín thác.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét