22/12/2019
Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
năm A
(phần I)
BÀI ĐỌC I: Is 7, 10-14
“Này trinh nữ sẽ thụ thai”.
Bài trích sách Tiên tri
Isaia.
Ngày ấy,
Chúa phán bảo vua Achaz rằng: “Hãy xin Thiên Chúa, Chúa ngươi, một dấu ở dưới
lòng đất hay ở trên trời cao!” Nhưng vua Achaz thưa: “Tôi sẽ không xin, vì tôi
không dám thử thách Chúa”.
Và
Isaia nói: “Vậy hãy nghe đây, hỡi nhà Đavít, làm phiền lòng người ta chưa đủ ư,
mà còn muốn làm phiền lòng Thiên Chúa nữa? Vì thế, chính Chúa sẽ cho các ngươi
một dấu: này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, và tên con trẻ
sẽ gọi là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”. Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 23, 1-2. 3-4ab. 5-6
Đáp: Chúa ngự qua, chính Ngài
là Hoàng Đế hiển vinh (x. c. 7c và 10b).
Xướng:
1) Chúa là chủ trái đất và mọi vật làm sung mãn nó, chủ địa cầu và muôn loài cư
trú ở trong. Vì chính Ngài xây dựng nó trên biển cả, và Ngài giữ vững nó trên
chỗ nước nguồn. – Đáp.
2) Ai
khá trèo lên cao sơn của Chúa, ai được đứng trong nơi thánh của Ngài? Người tay
vô tội và lòng thanh khiết, người không để lòng xu hướng bả phù hoa. – Đáp.
3) Người
đó sẽ được Chúa chúc phúc cho, và được Thiên Chúa là Đấng cứu độ ban ân thưởng.
Đó là dòng dõi người tìm kiếm Chúa, người tìm long nhan Thiên Chúa nhà Giacóp.
– Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 1, 1-7
“Đức Giêsu, thuộc dòng dõi vua
Đavít, là Con Thiên Chúa”.
Bài trích thơ Thánh Phaolô
Tông đồ gởi tín hữu Rôma.
Phaolô,
tôi tớ Chúa Giêsu Kitô, đã được kêu gọi làm Tông đồ và đã được tuyển chọn để
rao giảng tin mừng Thiên Chúa. Tin mừng ấy Thiên Chúa đã hứa trước bằng lời các
tiên tri trong Kinh Thánh về Con của Người; Người đã sinh ra theo huyết nhục bởi
dòng dõi Đavít, đã được tiền định là Con Thiên Chúa quyền năng theo Thánh Thần,
đã sống lại từ cõi chết. Đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người,
chúng tôi đã nhận ân sủng và chức vụ tông đồ, để nhân danh Người, chúng tôi quy
phục mọi dân tộc về Đức Tin, trong đó có cả anh em là những người mà Chúa Giêsu
đã kêu gọi.
Tôi
chúc tất cả mọi người trong thành Rôma được Thiên Chúa yêu mến và kêu gọi nên
thánh, được ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Đức Giêsu
Kitô là Chúa chúng ta. Đó là lời Chúa.
ALLELUIA: Mt 1, 21
Alleluia, alleluia! – Này đây
trinh nữ sẽ mang thai, hạ sinh một con trai, và người ta sẽ gọi tên Người là
Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Mt 1, 18-24
“Chúa Giêsu sinh ra bởi Đức
Maria, đính hôn với Thánh Giuse con vua Đavít”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Chúa
Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse,
trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse,
bạn của bà, là người công chính, không muốn tố cáo bà, định tâm lìa bỏ bà cách
kín đáo.
Nhưng
đang khi định tâm như vậy thì thiên thần Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ
và bảo: “Hỡi Giuse, con vua Đavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì
Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần: bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông
sẽ đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội”.
Tất cả
sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng Tiên tri phán xưa
rằng: “Này đây một trinh nữ sẽ mang thai và hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi
tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.
Khi tỉnh
dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền: ông tiếp nhận bạn mình
nhưng không ăn ở với nhau cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt
tên con trẻ là Giêsu. Đó là lời Chúa.
Suy
Niệm: Ðức Maria Ban Chúa Cứu Thế
Truyền thống vẫn gọi Chúa nhật này là Chúa nhật
của Ðức Mẹ. Bài sách tiên tri Isaia nói về một Trinh nữ sẽ sinh con trai. Và
bài Tin Mừng kể chuyện về việc Ðức Maria mang thai. Như vậy, Phụng vụ muốn ta
suy nghĩ về việc Ðức Mẹ ban Chúa Cứu Thế cho chúng ta và chúng ta hãy đón nhận
Người.
A. Ðức Maria Ban Chúa Cứu Thế
Thật ra, bài tiên tri Isaia không trực tiếp
nói về Ðức Mẹ và Chúa Cứu Thế. Các học giả bàn nhiều về đoạn văn vắn tắt này. Ðại
khái bối cảnh của đoạn văn như sau: Akkaz bấy giờ là vua xứ Yuđa. Mấy vua phía
Bắc lăm le xâm lăng xứ sở của ông. Ông sợ hãi. Thay vì trông cậy vào Chúa, ông
lại chỉ nghĩ đến việc xin viện trợ nước ngoài. Isaia đến can gián ông, khuyên
ông tin tưởng vào Chúa. Ông vẫn không nghe và sai sứ ra ngoại quốc xin viện
binh. Ðồng thời ông tiếp tục đường lối tội lỗi, lập các đền thờ quấy, đến nỗi
thiêu sinh cả con mình để làm lễ tế. Isaia đến can thiệp lần nữa. Và để bảo đảm
lời khuyên của mình, nhà Tiên tri giục vua cứ xin một dấu chỉ, dù ở trên trời
hay ở dưới đất: tức là nhà vua xin dấu chỉ nào, Chúa cũng sẽ cho để làm chứng rằng
lời tiên tri nói là thật. Nhưng nhà vua vốn không tin Chúa. Vua lại sợ xin được
dấu chỉ sẽ phải tin lời tiên tri và phải từ bỏ tà thần để sống trung thành với
Chúa. Ông giở giọng đạo đức, nói rằng loài người không nên thử thách Thiên Chúa,
cốt ý để ông khỏi phải nghe Lời Chúa dạy. Isaia bực mình, coi nhà vua như dân
ngoại rồi. Ông nói: làm loài người khó chịu thôi chưa đủ sao mà còn làm cực
lòng Chúa tôi? Chúa tôi, chứ không phải là Chúa của các ông nữa, Isaia muốn nói
như thế. Tuy nhiên, chẳng ai cưỡng lại được lệnh Chúa: Này, Chúa sẽ cho nhà
Ðavít một dấu chỉ: Cô Nương sẽ sinh con trai và Danh Người là Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Ðây là một sự vô cùng bất ngờ. Người ta cứ tưởng
dấu chỉ mà Chúa sẽ cho là một điềm dữ vì thái độ của Akkaz như vậy. Nhưng ngược
lại đây là một điềm lành, một dấu chỉ vô cùng quý hóa. Nhà Ðavít sẽ có thái tử
kế vị và vị hoàng đế này sẽ đẹp lòng Chúa, đến nỗi Chúa sẽ ở giữa dân. Như vậy
không phải lo gì chiến tranh. Tương lai của Yuđa còn đó vì sau nhà vua này vẫn
còn hoàng tử kế vị. Hơn nữa vị Vua tương lai sẽ được Chúa ở cùng và dân chúng sẽ
được hạnh phúc.
Mà quả thật, các vua phương Bắc đã phải rút
quân. Akhaz có hoàng tử kế vị là Ezêkia. Thoạt đầu nhà vua này rất đạo đức, khiến
cả nước đều vui mừng. Nhưng về sau, ông đã tội lỗi, sa ngã... Như vậy ông chưa ứng
dụng hết lời tiên tri. Có lẽ ngay từ cuối đời Isaia, người ta đã nghĩ lời tiên
tri kia còn phải đi xa hơn nữa và phải đưa về Ðấng Cứu Thế. Do đó lời Isaia đã
trở thành lời tiên báo về Ðấng Thiên Sai, mặc dầu gần thì đưa về E�zêkia. Và truyền thống Tân Ước
đã mau mắn dùng bản dịch HyLạp để đọc chữ "Cô Nương" trong lời tiên
tri trên là "Trinh Nữ". Và từ đó ta có câu: "Một Trinh Nữ sẽ thụ
thai và sinh một Con Trai, được gọi tên là Emmanuel".
Ðặt trong bối cảnh của lịch sử, lời tiên tri
này nói lên lòng Chúa tốt lành nhường bao! Ðang khi loài người, (như Akkaz vua
Yuđa) tội lỗi và khước từ mọi cố gắng yêu thương cứu giúp của Chúa, Chúa đã
không giận dữ, nhưng vẫn dự tính chương trình cứu chuộc đầy tình thương, không
thể ngờ được.
B. Chúng Ta Ðón Nhận Thế Nào?
Chắc chắn không ai muốn bắt chước Akkaz. Nhưng
trong thực tế nhiều người đã theo đường lối của ông. Thiên Chúa đã ban cho ta một
Hài Nhi. Nhiều người không nhận, vì sợ phải bỏ nếp sống cũ. Lễ Giáng sinh sắp đến
nhắc lại Ân ban của Chúa. Chúng ta sẽ đón nhận thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay
nêu cho chúng ta một gương mẫu. Chúa dạy Yuse hãy nhận lấy Maria và Con Trẻ.
Câu truyện xem ra có nhiều điều khó hiểu. Chúng ta hãy nhớ lại bối cảnh và ý của
thánh Matthêô khi viết bài này.
Ai cũng biết, các tín hữu thời Giáo hội sơ
khai không quan tâm nhiều lắm đến cuộc đời thơ ấu của Ðức Kitô. Họ tin Ngài đã
sống lại sau khi chết. Việc này làm chứng Ngài là Người Thiên Chúa Cha gửi tới,
và là Thiên Chúa. Do đó phải nghe Lời Ngài, giữ lệnh Ngài và chờ đợi Ngài và chờ
đợi Ngày Ngài trở lại. Thánh Matthêô, khi viết quyển Tin Mừng, cũng chỉ quan
tâm trình bày những điều ấy. Và để cho người Dothái hiểu: Ðức Kitô thực sự là Ðấng
Thiên Sai do Chúa Cha gởi tới, ngài phải làm chứng Ðức Kitô là con vua Ðavít.
Thế mà ngài lại biết Ðức Kitô đã không sinh bởi ý muốn nam nhân, nhưng do tự
Thiên Chúa Cha. Ðức Kitô chỉ có một người mẹ đồng trinh như lời Isaia đã tiên
báo. Làm thế nào để có thể nói Ngài là Con Vua Ðavít? Thánh Matthêô đã phải tìm
hiểu. Và bài Tin Mừng hôm nay là kết quả. Yuse, thuộc dòng dõi Ðavít đã đính
hôn với Maria. Maria được chọn, được truyền tin. Yuse thắc mắc. Sứ thần Chúa hiện
ra báo tin cho Yuse. Một người công chính chờ đợi Ðấng Thiên Sai như ông lập tức
chỉ còn một thái độ: hân hoan đón nhận tin mừng; được tin này là được tất cả:
không gì ở trần gian này còn đáng kể nữa; từ nay chỉ còn sống cho Tin Mừng, vì
như lời Ðức Kitô nói sau này: Ai tìm được Nước Trời rồi sẽ bán tất cả, cho đi tất
cả để nhận lấy Tin Mừng, sống với Tin Mừng, hy sinh cho Tin Mừng. Thế nên thánh
Matthêô đã không cần kể chuyện dài dòng. Những thắc mắc của ta, của những con
người ít đạo đức, có thể nói là tiểu nhân thích để ý đến những chi tiết nhỏ mọn
và bỏ rơi điều chính yếu, những thắc mắc của ta liên quan tới liên hệ giữa
Maria và Yuse đã không được Matthêô gợi đến. Ta hãy theo gương thánh nhân: nhìn
vào điểm chính yếu và Tin Mừng Chúa gởi đến cho ta. Qua miện sứ thần, Chúa báo
tin: "Một Trinh Nữ sẽ sinh cho ta một Con Trai". Nghe tin ấy, Yuse đã
đón nhận ơn cứu độ hằng chờ mong. Và nhờ việc ông đón nhận, và lãnh trách nhiệm
đặt tên cho Con Trẻ, nhận Con Trẻ là con của mình, Ðức Kitô trở thành Con vua
Ðavít như lời các tiên tri đã loan báo. Yuse thấy mình gần Maria hơn, hiệp nhất
với nhau hơn cả những đôi bạn uyên ương, vì cả hai đã đồng thân đồng phận, trở
thành dụng cụ cho chương trình của Thiên Chúa, được là những người đầu tiên
lãnh nhận Lời Hứa từ bao ngàn năm để đem lại cho loài người. Chỉ những ai không
hiểu giá trị ơn cứu chuộc và không đánh giá đúng mức tinh thần của Yuse và
Maria, mới còn nêu ra những câu hỏi vụn vặt. Ngược lại, ai coi việc Chúa ban Ơn
Cứu Ðộ là lớn, là hạnh phúc vượt quá mọi hạnh phúc và bao gồm hết thảy mọi phúc
lộc, sẽ bắt chước Maria và Yuse, từ bỏ mọi sự, hy sinh mọi sự để đón nhận Ơn
Chúa và cho đến chết sẽ chỉ còn biết sống cho Ơn đó.
C. Thái Ðộ Thực Tế
Lễ Chúa Giáng sinh đã gần đến. Chúng ta muốn
đón nhận Chúa sâu xa ư? Hãy theo gương Ðức Maria và thánh Yuse. Lấy Chúa làm đủ
và sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa. Và như Ðức Maria góp máu thịt với Ngôi Lời,
như Yuse giúp Chúa trở thành Con vua Ðavít, chúng ta phải làm gì để đưa Chúa
vào thế gian, vào xã hội? Mà thế gian, xã hội trước hết là con người và đời sống
của ta. Nếu Chúa ngự trị trong con người của ta hơn, khi ta xua đuổi mọi tâm
tư, cảm nghĩ, khuynh hướng xác thịt và thế gian đi, Chúa sẽ nhập thế nơi ta vì
ta đã trở thành Kitô hữu nhiều hơn. Và nếu thái độ, hành vi của ta nơi xã hội
chiếu tỏa tinh thần của Chúa, xã hội sẽ thấy Ơn Chúa hiện đến với mọi người và
ta sẽ như Yuse đưa Chúa vào dòng dõi loài người.
Chúng ta không cần đợi đến lễ Giáng sinh để
đón nhận Chúa và sống cho Chúa như vậy. Thánh lễ cử hành bây giờ cũng ban cho
chúng ta một Hài Nhi. Nếu ta đón nhận như Ðức Maria và thánh Yuse, ra khỏi nhà
thờ hôm nay ta có thể coi mình như một Phaolô: tôi đã được chọn làm Tông đồ của
Ðức Yêsu Kitô. Ngài là Lời Hứa từ ngàn xưa, đã nhập thế trong lòng Ðức Maria và
đã sinh ra là Con vua Ðavít nhờ thánh Yuse. Nay Ngài dùng tôi và đời sống của
tôi đem Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người, để tất cả chúng ta đều trở nên
thánh thiện và chứa chan ơn lành và bình an.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật IV Mùa Vọng, Năm A
Bài đọc: Isa 7:10-14; Rom 1:1-7; Mt 1:18-24.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đừng nghi ngờ hay bất tuân lệnh
của Thiên Chúa.
Con
người có khuynh hướng làm theo những gì mình suy nghĩ, và áp dụng những gì mình
suy nghĩ vào cho Thiên Chúa. Nếu họ nghĩ chuyện đó không thể làm được, họ kết luận
Thiên Chúa cũng không thể làm được. Khi suy nghĩ như thế, con người đã hạ Thiên
Chúa xuống ngang hàng với con người; và như một hậu quả, con người bất tuân lệnh
của Ngài, và dần dần, họ cũng chẳng cần đến Thiên Chúa.
Các
Bài Đọc hôm nay dẫn chứng những mẫu gương vâng lời và bất tuân lệnh của Thiên
Chúa. Trong Bài Đọc I, vua Ahaz của Judah bất tuân lệnh Thiên Chúa đi cầu cứu với
vua Assyria để xin sự bảo vệ; vì Vua không tin Thiên Chúa có sức mạnh đủ để bảo
vệ Judah khỏi tay Ai-cập.
Trong
Bài Đọc II, Phaolô, sau khi được Đức Kitô mặc khải trên đường đi Damascus, đã
nhận ra Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô và cho mọi dân tộc. Kể từ
đó, ông không ngừng rao giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại. Trong Phúc Âm, thánh
Giuse không hiểu nổi cuộc thụ thai kỳ lạ của Đức Trinh Nữ Maria, nên toan lìa bỏ
Đức Mẹ cách kín đáo; nhưng thiên thần hiện đến với Giuse trong giấc mộng, và
cho ông biết sự thụ thai là do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Thiên thần lặp lại
lời tiên-tri của ngôn sứ Isaiah trong Bài Đọc I để soi sáng cho Giuse hiểu cuộc
mang thai cách mầu nhiệm này. Khi tỉnh dậy ông làm theo ý định của Thiên Chúa
và nhận Maria về nhà làm bạn mình.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đừng bất tuân lệnh của Thiên
Chúa.
1.1/ Vua
Ahaz bất tuân lệnh Thiên Chúa: Chúng ta phải hiểu hoàn cảnh lịch sử thì mới hiểu trình thuật của Isaiah
hôm nay: Ahaz là vua Judah. Sau khi vương quốc miền Bắc bị rơi vào tay quân thù
Assyria, ông sợ hãi và muốn sai sứ giả sang triều cống và cầu cứu với vua
Assyria để được bảo vệ. Thiên Chúa sai tiên-tri Isaiah đến khuyên nhà vua không
được làm như thế; Vua chỉ cần tin vào Thiên Chúa, Ngài có thể bảo vệ vương quốc
Judah khỏi tay mọi quân thù. Vua không tin Thiên Chúa có thể bảo vệ, nên cứ sai
sứ giả sang cầu cứu với vua Assyria. Khi biết Vua bất tuân lệnh Thiên Chúa,
tiên-tri Isaiah vào hoàng cung để đối chất với vua Ahaz, và chúng ta có trình
thuật của Isaiah hôm nay.
Một lần
nữa Đức Chúa phán với vua Ahaz rằng: “Ngươi cứ xin Đức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh.” Vua Ahaz
trả lời: “Tôi sẽ không xin, tôi không dám thử thách Đức Chúa.” Đây là sự khiêm
nhường giả tạo: Nếu muốn biết Thiên Chúa uy quyền thế nào, tại sao vua Ahaz
không dám mở miệng xin. Lời của vua Ahaz chứng tỏ ông không kính sợ và làm theo
ý Thiên Chúa; nhưng chỉ nhát đảm để rồi làm theo ý riêng mình. Hậu quả là toàn
vương quốc miền Nam bị rơi vào tay quân đội của vua Babylon. Chúng phá hủy Đền
Thờ và đem tất cả vua quan và dân chúng đi lưu đày.
1.2/ Lời
tiên báo về hoàn cảnh của Đấng Thiên Sai ra đời: Tuy Ahaz không xin nhưng Thiên Chúa vẫn cho.
Ông Isaiah bèn nói: “Nghe đây, hỡi nhà David! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa
đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng
sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con
trai, và đặt tên là Immanuel.” Động từ “làm phiền” đồng nghĩa với bất tuân lệnh
của Thiên Chúa. Dấu lạ vĩ đại của Thiên Chúa là Ngài sẽ ban cho nhân loại Đấng
Thiên Sai qua sự mang thai mà vẫn còn đồng trinh của một trinh nữ (parthenos trong
bản Hy-lạp, LXX, và almah trong bản Do-thái, MT).
+ Các
học giả tranh luận: Từ almah chỉ được dùng ba lần trong Cựu Ước
vừa có nghĩa tổng quát là một thiếu nữ, vừa có nghĩa là một trinh nữ; nếu muốn
chỉ sự đồng trinh, người ta sẽ dùng danh từ betulah, xảy ra 14 lần
trong Cựu Ước. Isaiah cũng dùng 3 lần danh từ betulah (Isa
23:12, 27:32, 47:1).
+ Ý kiến
chúng tôi: Tiên-tri Isaiah muốn ám chỉ một trinh-nữ, vì ba lý do sau:
(1)
Kinh Thánh: Hai lần khi bản MT dùng almah (Gen 24:43 và Isa
7:14), bản LXX đều dùng parthenos. Chỉ có một lần bản LXX dùng từ neanis để
dịch almah là trong (Exo 2:8), khi chị của Moses được công
chúa của vua Pharao sai đi mời mẹ của Moses đến. Chị của Moses trong trường hợp
này cũng có thể là một trinh nữ, vì theo văn mạch là người vẫn còn nhỏ tuổi.
Như thế, Isaiah có thể dùng từ đồng nghĩa ở đây, almah, để chỉ
một trinh nữ.
(2)
Văn mạch: Hơn nữa, theo văn mạch, Thiên Chúa muốn cho con người một dấu lạ vĩ đại
– nếu một thiếu nữ có chồng mà sinh con là chuyện thường tình xảy ra, đâu còn gọi
là dấu lạ nữa.
(3)
Truyền thống: Khi thánh sử Matthew trích dẫn lời ngôn sứ Isaiah, ông dùng từ parthenos,
có ý muốn nói một trinh nữ.
2/ Bài đọc II: Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng
các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh.
Để hiểu
bắt đầu trình thuật của Thư Rôma hôm nay, một người phải nhớ lại biến cố ngã ngựa
của Phaolô trên đường đi Damascus. Trước đó, Phaolô không tin Đức Kitô cần thiết
trong Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa, và ông cũng không tin Dân Ngoại có thể được
cứu độ. Như phần đông người Do-thái, ông tin chỉ cần giữ Lề Luật là đủ để được
cứu độ, và ơn cứu độ chỉ dành cho người Do-thái. Nhưng sau khi được Đức Kitô mặc
khải, Phaolô thay đổi niềm tin hoàn toàn: ông tin và được chọn để rao giảng Đức
Kitô cho Dân Ngoại. Đây là hai điều mà Phaolô đề cập tới trong trình thuật hôm
nay.
2.1/
Phaolô được kêu gọi để rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô: Ông xác tín niềm tin vào Đức
Kitô, vào Tin Mừng Đức Kitô rao giảng, và vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng của ông:
“Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành
riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các
ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người
là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ
Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng.”
2.2/ Tin
Mừng được loan truyền cho tất cả Dân Ngoại: Phaolô tin Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa có hai
giai đoạn: (1) Thiên Chúa chọn dân tộc Do-thái để chuẩn bị cho Đức Kitô ra đời,
và (2) khi Đức Kitô đến, Tin Mừng Cứu Độ được mở rộng đến các Dân Ngoại. Phaolô
được tuyển chọn bởi chính Đức Kitô để loan báo Tin Mừng cho Dân Ngoại: “Nhờ Người,
chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các Dân Ngoại
vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. Trong số đó, có cả anh em, là
những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giêsu Kitô. Kính gửi tất cả anh em ở
Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi làm dân thánh. Xin
Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và
bình an.”
3/ Phúc Âm: Tất cả sự việc này đã xảy ra, là
để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ.
3.1/ Cuộc
thụ thai khó hiểu của Maria: Thánh-sử Matthew tường thuật cuộc thụ thai của Maria: “Sau đây là gốc
tích Đức Giêsu Kitô: bà Maria, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giuse. Nhưng trước
khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần. Ông
Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm
bỏ bà cách kín đáo.”
Theo
trình thuật này, một người có thể nhận ra ngay hai điều quan trọng:
(1)
Maria mang thai không phải bởi Giuse: Khi Giuse định tâm lìa bỏ Maria cách kín
đáo, ông xác nhận điều này, vì Giuse là người công chính.
(2)
Maria mang thai do quyền năng Chúa Thánh Thần: Hai lần trong trình thuật hôm
nay, thánh sử Matthew đề cập đến sự thụ thai là do bởi quyền năng của Chúa
Thánh Thần. Lần đầu bởi chính thánh-sử, và lần thứ hai bởi sứ thần của Thiên
Chúa.
3.2/ Sự
việc xảy ra để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaiah: Khi Giuse đang toan tính như vậy, thì sứ thần Chúa
hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giuse, con cháu David, đừng ngại đón
bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.
Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ
cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.” Trình thuật nhấn mạnh: “Tất cả sự việc này
đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: “Này đây,
Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là
Immanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.”” Mặc dù là trong giấc mơ, nhưng
sứ thần Thiên Chúa muốn Giuse được củng cố bởi lời của ngôn sứ Isaiah, đã được
loan báo hơn 600 năm trước. Vì thế, khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần
Chúa dạy và đón Maria về nhà.
3.3/
Tranh luận về vấn đề đồng trinh của Đức Mẹ: Từ thời Giáo Hội sơ khai đến nay, thời nào cũng có
những người không tin vào tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm. Đối với họ, một phụ nữ
không thể sinh con mà còn đồng trinh. Chúng ta có thể căn cứ vào 5 lý chứng sau
đây để xác tín vào sự đồng trinh của Đức Mẹ:
(1) Lời
ngôn sứ Isaiah đã tiên báo gần 600 năm trước khi Đức Kitô sinh ra. Chúng ta đã
phân tích từ ngữ và văn mạch trong Bài Đọc I.
(2)
Trình thuật của Tin Mừng Matthew hôm nay hai lần nói tới việc thụ thai của Chúa
Giêsu là do ý định của Thiên Chúa và do quyền năng của Chúa Thánh Thần.
(3)
Chính Giuse, chồng của Maria cũng xác nhận việc thụ thai là không do ông; vì thế,
ông toan tính lìa bỏ Maria cách kín đáo.
(4)
Thiên Chúa có uy quyền làm mọi sự: không điều gì Ngài không thể làm được.
(5) Việc
thụ thai như thế nên làm; vì Đức Kitô là Thiên Chúa thánh thiện, không thể
vương vấn tội nhơ.
Ai tiếp
tục chất vấn sự đồng trinh của Đức Mẹ, người ấy cũng chẳng khác gì vua Ahaz,
luôn nghi ngờ uy quyền của Thiên Chúa. Những người này chỉ tin vào sự lý luận
khôn ngoan của mình và tiếp tục “làm phiền” Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
– Con
người chúng ta bị giới hạn rất nhiều trong sự hiểu biết; vì thế, chúng ta đừng
bao giờ ngoan cố trong sự cố chấp của mình, nhưng phải biết mở lòng để đón nhận
mặc khải của Thiên Chúa.
–
Chúng ta cũng đừng bao giờ áp dụng những gì chúng ta suy luận vào cho Thiên
Chúa, vì Ngài rất khác và uy quyền hơn chúng ta gấp bội. Khi không hiểu mặc khải
của Thiên Chúa, chúng ta hãy khiêm nhường xin Thánh Thần soi sáng, thay vì kiêu
ngạo cho là chuyện không thể xảy ra.
Linh mục Anthony Đinh Minh
Tiên, OP
22/12/2019 – CHÚA NHẬT TUẦN 4 MV – A
Mt 1,18-24
TRUNG THÀNH VỚI LỜI CAM KẾT
Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần dạy và đón vợ về
nhà. (Mt 1,24)
Suy niệm: Con người vĩ đại không bởi thề
hứa nhiều, nhưng ở việc trung thành thực hiện lời đã hứa. Thánh Giu-se là vị
thánh vĩ đại, thánh “cả,” vì ngài trung thành với lời hứa với vị hôn thê của
mình là Đức Ma-ri-a, và sâu xa hơn, vì đã trung tín với lời cam kết kéo dài suốt
cả cuộc đời để “làm như lời sứ thần dạy”. Quả thật, đứng trước thử thách to lớn
là sự kiện Đức Ma-ri-a thụ thai – mà thánh Giu-se không hay biết là bởi phép
Chúa Thánh Thần, thay vì làm ầm ĩ như bao người, thánh nhân đã hành xử như một
người công chính, khi “định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo”. Sự “lìa bỏ” không phải
là trốn chạy mà là tôn trọng và tin tưởng sự công chính của người bạn đời cũng
tôn trọng và nhẫn nại chờ đợi thánh ý Chúa tỏ hiện. Đón Đức Ma-ri-a về nhà là
trung thành với lời cam kết, là vui lòng làm theo thánh ý Chúa, là lãnh nhận,
nuôi dưỡng và bảo vệ Chúa Giê-su. Việc đó đòi hỏi thánh Giu-se triệt tiêu những
sở thích cá nhân để chỉ tùng phục ý Thiên Chúa. Sự trung thành đó là điều làm
cho thánh cả Giu-se thực sự là cao cả. Vì thế, Ngài trở nên gương mẫu cho mọi
tín hữu.
Mời Bạn: noi gương thánh cả Giu-se “lìa
bỏ” Đức Ma-ri-a để trung thành với lời cam kết của một con người; “lìa bỏ” ý
riêng của mình để trung thành với cam kết với chính Thiên Chúa.
Chia sẻ: Những dịp kỷ niệm (hôn phối hay
chịu chức, khấn dòng…) là những dịp để quyết tâm mạnh mẽ hơn sống lời mình đã
cam kết. Bạn có cảm nghiệm gì về điều này? Mời bạn chia sẻ.
Sống Lời Chúa: Nhớ lại lời cam kết và có một
quyết tâm theo thánh ý Chúa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con
trung thành sống lời con đã cam kết.
(5 Phút Lời Chúa)
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (22.12.2019 – Chúa Nhật 4 Mùa Vọng
năm A)
Suy niệm:
Thiên Chúa bất ngờ và mãi mãi bất ngờ.
Ngài
muốn cứu độ nhân loại bằng cách sai Con Một làm người.
Cách
trở thành người của Con Thiên Chúa
vừa
bình thường, lại vừa tuyệt đối khác thường.
Bình
thường vì Ngài được một phụ nữ sinh ra (x. Gl 4, 4).
Khác
thường vì Ngài được sinh ra không do một người cha ruột,
nhưng
do quyền năng của Thánh Thần (cc. 18. 20).
Đây là
niềm tin ngay từ thuở ban đầu của các Kitô hữu.
Giáo Hội
sung sướng đến với máng cỏ
để
chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu và Mẹ đồng trinh của Ngài.
Nhưng chúng ta không được quên thánh Giuse.
Giuse
đã bối rối, đau khổ khi thấy vị hôn thê của ông mang thai,
dù
Maria chưa về chung sống với ông, dù chưa làm đám cưới.
Ông
không muốn tố cáo Maria vì tội ngoại tình,
nhưng
ông cũng không thể lấy Maria làm vợ,
với
thai nhi trong bụng không phải của ông.
Cuối
cùng ông chọn giải pháp là chia tay bà một cách kín đáo (c. 19).
Như thế
ông hy vọng sẽ bảo vệ được danh dự và an toàn cho Maria.
Nhưng Thiên Chúa Cha cần Giuse,
cần một
người cha nhân loại cho Con mình.
Con
Thiên Chúa không thể sinh ra trong một gia đình không cha.
Người
cha cần biết bao cho sự phát triển quân bình của đứa trẻ.
Maria
cũng cần chỗ dựa và không thể một mình nuôi con.
Qua sứ
thần, Thiên Chúa mong Giuse đón Maria về làm vợ (c. 20),
nghĩa
là làm đám cưới chính thức với Maria.
Việc
này đi kèm với việc đặt tên cho người con trai của Maria,
nghĩa
là nhận người con ấy là con của mình trước pháp luật (c. 21).
Một lời
mời quan trọng chờ nơi Giuse một tiếng Xin Vâng.
Đâu phải
Thiên Chúa chỉ cần tiếng Xin Vâng của Maria là đủ.
Giuse
có thể từ khước vì thấy mầu nhiệm khó hiểu và khó tin.
Làm
sao quyền năng Thánh Thần lại có thể làm cho Maria mang thai?
Giuse
có thể sợ vì thấy mình phải chịu trách nhiệm làm chồng làm cha,
dù thực
sự mình chẳng hề là thế.
Thiên
Chúa đã mời Giuse trong giấc ngủ đêm khuya.
Và ông
đã làm y như lời sứ thần truyền khi thức dậy (c. 24).
Tiếng
Xin Vâng của Giuse quá quan trọng cho kế hoạch cứu độ,
nhờ đó
Con Thiên Chúa đàng hoàng bước vào cuộc đời,
có một
mái nhà, có mẹ, có cha, có tên, có tuổi.
Nếu
không có những tiếng Xin Vâng của Maria và Giuse,
thì điều
gì sẽ xảy ra cho nhân loại đang cần ơn cứu độ?
Thiên
Chúa chỉ ở-với-chúng ta nếu có những tấm lòng xin vâng.
Ngài vẫn
cần tấm lòng của người mẹ biết cưu mang như Maria,
và tấm
lòng của người cha dám chịu trách nhiệm
để
Giêsu có chỗ đứng hợp pháp trong thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sống
cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc
về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của
Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu,S.J.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
22 THÁNG MƯỜI HAI
Một Khởi Đầu Mới Trên Con Đường
Dẫn Về Vĩnh Cửu
Mùa Vọng
đem lại cho chúng ta niềm vui lớn lao bởi vì chúng ta “sẽ tiến về nhà Chúa” (Tv
122,1). Chúng ta có thể nhìn thấy kết cục của cuộc hành trình vĩ đại này, cuộc
hành hương của kiếp người trên trần gian. Chúng ta được mời gọi để cư ngụ trong
“nhà của Chúa”. Đó là quê hương đích thực của chúng ta.
Mùa Vọng
là mùa mong chờ ngày của Chúa, mong chờ giờ của sự thật. Đó là sự chờ mong ngày
“Ngài sẽ xét xử các quốc gia, và phân xử các dân tộc” (Is 2,4). Chân lý trọn vẹn
của Thiên Chúa sẽ là nền tảng cho nền hòa bình phổ quát và viên mãn của Đức
Kitô. Đó là mục tiêu mà mọi người thiện chí hướng vọng.
Như vậy,
một lần nữa Mùa Vọng giúp chúng ta nhận ra con đường vĩnh cửu dẫn con người đến
với Thiên Chúa. Mỗi năm, Mùa Vọng là một khởi đầu mới. Đời sống con người không
đi về chỗ bế tắc. Không, đời sống chúng ta đưa chúng ta về gặp gỡ Thiên Chúa ở
cuối thời gian.
Trong
Mùa Vọng cũng có một tiên báo về những con đường sẽ dẫn các mục đồng và các đạo
sĩ Đông phương đến máng cỏ của Hài Nhi Giêsu ở Bêlem.
– suy tư 366 ngày của Đức
Gioan Phaolô II –
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope
John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 22/12
Chúa Nhật IV Mùa Vọng
Is 7, 10-14; Rm 1, 1-7; Mt 1,
18-24.
LỜI SUY NIỆM: “Này ông Giuse, con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì
người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và
ông phải đạt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội
lỗi của họ.”
Chuẩn bị đón mừng ngày Chúa Giáng Sinh. Giáo hội mời gọi người tín hữu cần chuẩn
bị tâm hồn mình với tâm tinh lắng nghe khiêm nhường sâu xa; và vâng nghe Lời
Thiên Chúa và thực thi ý Ngài.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn có sự khiêm nhường trong
lòng, để lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, với sự xin vâng mà thực hiên đức ái giữa
xã hội hôm nay.
Mạnh Phương
22
Tháng Mười Hai
Mùa Của Gửi Thiệp Tặng Quà
Người
Anh thường nói: “Một quà tặng không có người tặng là một quà tặng trống rỗng
trơ trụi”. Giá trị của một quà tặng do đó, không tùy thuộc nhiều ở giá trị vật
chất của nó, mà đi chính tâm tình của người tặng quà.
Ngày
nay, cũng giống như ở bất cứ thời đại nào, cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo quốc
gia thường đi kèm với nghi thức trao tặng quà cho nhau. Trong một cuộc họp thượng
đỉnh ở ngoài khơi đảo quốc Malta cuối năm 1989, tổng thống Bush của Hoa Kỳ đã tặng
cho chủ tịch Gorbachov của Liên Xô một viên gạch lấy từ bức tường ô nhục Bá
Linh. Dù chỉ là một viên gạch, nhưng đây lại là một món quà vô giá, bởi vì tổng
thống Bush đã muốn gói ghém trong đó tất cả thiện chí và ước muốn xây dựng hòa
bình của ông, của nhân dân Hoa Kỳ, cũng như của tất cả những ai yêu chuộng hòa
bình.
Trước
đó vài ngày, chủ tịch Gorbachov cũng đã trao tặng và nhận quà trong cuộc gặp gỡ
với Ðức Thánh Cha. Nhà lãnh đạo của Liên Xô đã tặng cho Ðức Thánh Cha một tập
thánh vịnh in vào thế kỷ thứ 13 và 14, qua đó ông muốn khẳng định rằng những
giá trị đạo đức và luân lý do tôn giáo đề ra là những nhân tố cần thiết cho việc
xây dựng xã hội.
Ðáp
lại, Ðức Thánh Cha đã tặng cho nhà lãnh đạo Liên Xô một quyển Tân Ước có ghi
hàng chữ: “Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống”.
Ðó
là tất cả những gì mà Ðức Gioan Phaolô II và qua ngài, toàn thể Giáo Hội có thể
trao tặng cho một xã hội đã từ lâu muốn gạt bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống.
Riêng
với bà Raissa, phu nhân của chủ tịch Gorbachov, Ðức Thánh Cha đã tặng một cỗ
tràng hạt. Lòng yêu mến đối với Nữ Vương của hòa bình: đó là món quà cao quý nhất
mà một vị Giáo Hoàng đã có thể tặng cho tất cả những ai đang mưu tìm hòa bình
cho nhân loại.
Mùa Vọng
là mùa của gửi thiệp và tặng quà Giáng Sinh.
Chúng
ta gửi thiệp chúc mừng đến những người thân thương quen thuộc đã đành, chúng ta
cũng gửi đi những cánh thiệp xã giao đến những người chỉ một lần gặp gỡ, quen
biết… Có một cánh thiệp nào, một quà tặng nào cho những người không quen biết,
cho những người đầu ngõ cuối xóm mà chúng ta không hề muốn đưa mắt nhìn đến,
cho những người hành khất bên vệ đường, cho những kẻ không nhà không cửa, cho
những ai đang rét run vì giá lạnh, vì cô đơn không?
Hãy
nhiệt tình chào hỏi những người mà chúng ta ghét cay ghét đắng. Hãy làm hòa với
những ai chúng ta vừa gây gổ. Hãy dọn một bữa ăn cho những người hành khất quen
thuộc. Hãy thăm viếng một người bệnh đang chờ một lời an ủi, đỡ nâng. Hãy san sẻ
đôi chút với những người hàng xóm đang túng thiếu hơn ta.
Ðó là
những cánh thiệp, những món quà Giáng Sinh có giá trị nhất mà chúng có thể gửi
ngay đi trong Mùa Vọng này, bởi vì đó là phần cao đẹp nhất của chúng ta.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét