Giáo hội học ngày nay
Vũ Văn An 30/Dec/2024
Trên trang mạng What We Need Now ngày 15 tháng 10 năm 2024, Tác giả Tracey
Rowland (*) viết về giáo hội học ngày nay và cho biết:
Nhà sử học Cambridge Richard Rex đã lưu ý rằng cuộc khủng hoảng
lớn đầu tiên trong Kitô giáo là về bản chất của Chúa Ba Ngôi, đặc biệt là về bản
chất của Chúa Kitô, do đó có những tà thuyết Kitô học ban đầu. Cuộc khủng hoảng
lớn thứ hai, liên quan đến cuộc Cải cách, là về bản chất của Giáo hội. Điều này
kéo theo cuộc tấn công của Thệ Phản vào tính bí tích và phẩm trật thánh thiêng.
Cuộc khủng hoảng lớn thứ ba, Rex nhận xét, cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang phải
chịu đựng ngày nay, là về bản chất của nhân vị. Ở đây, các vấn đề cụ thể xoay
quanh sự kiện về sự khác biệt giới tính. Sự khác biệt giữa nam tính và nữ tính
có ý nghĩa thần học nào không?
Tổng quan về lịch sử các cuộc khủng hoảng của giáo hội này rất sâu sắc nhưng
người ta có thể nói thêm rằng trong Giáo Hội Công Giáo ngày nay, cuộc khủng hoảng
không chỉ giới hạn ở các vấn đề nhân học. Thay vào đó, một cơn bão hoàn hảo đã
và đang hình thành trên khắp các nhánh thần học khác nhau. Trong một số trường
hợp, cuộc khủng hoảng đã xảy ra vì các yếu tố của truyền thống trí thức Công
Giáo, vốn nên hiện hữu trong mối quan hệ cộng sinh, đã bị tách rời khỏi nhau và
bị để trong trạng thái nổi trôi tự do. Ví dụ, thần học luân lý đã bị tách khỏi
thần học tín điều. Nói một cách đơn giản, lĩnh vực thần học cơ bản hỗ trợ tất cả
các nhánh khác của thần học Công Giáo đã trở thành chiến trường trí thức trong
nửa thế kỷ qua. Không có sự đồng thuận chung trong các học viện thần học Công
Giáo về những "khối xây dựng" như mối quan hệ giữa bản chất và ân sủng,
đức tin và lý trí, lịch sử và hữu thể học, kinh thánh và truyền thống, và các
nguyên tắc cần chi phối việc chú giải kinh thánh. Không chỉ các mối quan hệ này
là chủ đề tranh luận học thuật, mà bản thân các khái niệm riêng lẻ cũng không
được hiểu theo cùng một cách trên toàn thế giới học giả Công Giáo. Ví dụ, không
có sự đồng thuận chung về các khái niệm chính như "ân sủng", "bí
tích", "truyền thống" và thậm chí là "chức linh mục".
Những quan niệm như hiểu một linh mục như "alter Christus" (một
Chúa Kitô khác) được một số người chấp nhận nhưng lại bị những người khác bác bỏ.
Một số học giả tin rằng chức linh mục đòi hỏi một sự thay đổi hữu thể học ở người
nhận bí tích trong khi những người khác tin rằng ý tưởng này là một sự vô nghĩa
thời trung cổ. Một số học giả đọc Kinh thánh qua lăng kính của các lý thuyết xã
hội đương thời như Lý thuyết phê phán hoặc nhiều lý thuyết duy nữ khác nhau,
trong khi những người khác chấp nhận giáo huấn trong The Interpretation
of the Bible in the Church [Giải thích Kinh thánh trong Giáo hội]
(1993), một ấn phẩm của Ủy ban Kinh thánh Giáo hoàng, chỉ trích rõ ràng việc sử
dụng các lý thuyết xã hội Mác-xít và duy nữ.
Giữa quá nhiều bất đồng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cổ vũ một loạt các thượng hội
đồng, nơi những người ủng hộ các tầm nhìn thần học thay thế và các nguyên tắc
cơ bản có thể trình bày các trường hợp của họ. Mặc dù đã có nhiều thượng hội đồng
trong suốt nhiều thế kỷ, nhưng trong quá khứ, những người được mời tham dự các
thượng hội đồng là các giám mục và học giả có một số thẩm quyền học thuật trong
lĩnh vực đang được thảo luận. Tuy nhiên, hình thức thượng hội đồng đương thời
bao gồm một số thành viên của giáo dân vốn thù địch với các giáo huấn của huấn
quyền. Đối với một số người, chỉ cần nằm trong sổ lương của Giáo hội là đủ tiêu
chuẩn để được đưa vào các cuộc họp. Đây là điều chưa từng có và đã xảy ra mặc
dù có hai văn kiện của Ủy ban Thần học Quốc tế—Cảm thức Đức tin trong Đời sống
Giáo hội (2014) và Tính Đồng nghị trong Đời sống và Sứ mệnh
Giáo hội (2018)—đã đưa ra danh sách các tiêu chuẩn cần phải đáp ứng
trước khi bất kỳ thành viên nào của hàng ngũ giáo dân có thể được coi là sở hữu
sensus fidei (cảm thức đức tin). Trong cả hai danh sách, lòng trung thành với
giáo huấn của huấn quyền là một tiêu chuẩn cần thiết. Điều này là do Giáo hội
là một điều hoàn toàn khác với một hội tranh luận. Theo lời của Hans Maier, có
một sự tương tự giữa những gì các luật sư hiến pháp gọi là bloc
incontestables (một khối các ý tưởng hoặc đề xuất không thể tranh
cãi), đặt ra ranh giới cho bất cứ cuộc tranh luận nào về luật hiến pháp, và những
gì các nhà thần học gọi là kho tàng đức tin hoặc lời dạy của Chúa Giêsu Kitô, đặt
ra ranh giới cho các cuộc thảo luận thần học. Chưa bao giờ trong lịch sử giáo hội,
các cá nhân được mời đưa ra ý kiến của mình dựa trên điều gì đáng tin cậy hơn cảm
xúc của họ và chưa bao giờ cảm xúc đơn thuần (được tiếp thị là sự thúc đẩy của
Chúa Thánh Thần) được phép lấn át kinh thánh và truyền thống.
Một sự phát triển xã hội học quan trọng trong nửa thế kỷ qua là việc tuyển dụng
những người Công Giáo giáo dân vào các cơ quan, trường học, trường đại học và bệnh
viện của Giáo hội. Khi ơn gọi tu trì giảm mạnh sau những năm 1960, một thế hệ
giáo dân Công Giáo mới đã thay thế các tu sĩ trong việc quản lý các tổ chức
giáo hội. Đồng thời, nhiều tổ chức như vậy bắt đầu nhận được tài trợ từ các
chính phủ thế tục. Quốc gia có sự phát triển này rõ rệt nhất là Đức. Các số liệu
thống kê từ năm 2022 cho thấy Giáo Hội Công Giáo tại Đức sử dụng khoảng 650,000
người. 150,000 người làm việc trực tiếp trong Giáo hội ở các vị trí mục vụ và
quản lý, bao gồm cả giáo sĩ. Khoảng 500,000 người làm việc tại các tổ chức tôn
giáo khác như trường học và bệnh viện. Giáo Hội Công Giáo ở Đức có khoảng 22
triệu tín đồ, trong đó có khoảng 1.2 triệu người tham dự các buổi lễ vào Chúa
Nhật (đôi khi dưới hình thức cầu nguyện khi không có linh mục). Tờ Frankfurter
Allgemeine Zeitung gần đây đã đưa tin về một cuộc khảo sát được tiến
hành trong số những người Công Giáo và Thệ phản Tin lành. Ở cả hai giáo phái, tỷ
lệ người tin rằng "Thiên Chúa đã mặc khải chính mình qua con người của
Giêsu thành Na-da-rét" là khoảng 30%. Tuy nhiên, ở cả hai giáo phái, việc
ban phước cho các cặp đôi đồng tính được chấp nhận hoặc ủng hộ bởi khoảng 85%.
Một sự kiện khác là vào năm 2022, một kỷ lục là 522,821 người Công Giáo đã
chính thức rời khỏi Giáo hội ở Đức.
Synodale Weg (Con đường Đồng nghị) của Đức là một biểu hiện phụ của
tình trạng này. Trong khi hàng trăm nghìn người được Giáo hội Đức tuyển dụng vì
được chính phủ tài trợ thông qua hệ thống thuế “Kirchensteuer”, thì việc
sử dụng họ không hề đồng nghĩa với đức tin và thực hành Công Giáo. Một đề xuất
quan trọng của những người Đức nhằm nhận diện như người “Công Giáo” gặp khó
khăn trong việc khẳng định niềm tin vào thần tính của Chúa Kitô, chưa nói đến
nhiều yếu tố ít quan trọng khác trong truyền thống trí thức Công Giáo. Thật khó
hiểu việc mời những người như vậy đến các lễ hội nói chuyện toàn quốc có thể giải
quyết ra sao điều về cơ bản là cuộc khủng hoảng đức tin và niềm tin.
Một lời giải thích cho thảm họa tâm linh vốn là nước Đức Công Giáo là: thế hệ
ngay sau Thế chiến II cần một câu chuyện để giải thích cách chế độ Đức Quốc xã
có thể tồn tại trong hơn một thập niên và cách cuộc thảm sát Holocaust có
thể xảy ra dưới bàn tay của các sĩ quan Đức. Câu chuyện mà nhiều người chấp nhận,
đặc biệt là thế hệ ngay sau chiến tranh, được đưa ra bởi Lý thuyết phê phán của
Trường phái Frankfurt vốn thù địch với các khái niệm như chân lý khách quan và
phẩm trật xã hội. Khi áp dụng Lý thuyết phê phán vào việc phân tích quản trị
giáo hội, nó thúc đẩy việc phá đổ cấu trúc của phẩm trật thánh thiêng. Nó “phi
huyền thoại hóa” ngôi vị giáo hoàng, chức linh mục và giám mục và thúc đẩy quá
trình dân chủ hóa Giáo hội theo hướng của chủ nghĩa duy cộng đồng
[congregationalism]. Những ý tưởng này không chỉ phổ biến ở Đức mà còn ở Hòa
Lan và Bỉ. Chúng cũng lan truyền sang các quốc gia khác thông qua kênh tốt nghiệp
các học viện thần học ở Đức, Hòa Lan và Bỉ, đặc biệt là Đức và Bỉ. Một sự thật
lịch sử là mọi nhà lãnh đạo trí thức của phong trào thần học giải phóng (được
coi là phong trào tiêu biểu của Mỹ Latinh) đều lấy bằng tiến sĩ từ các trường đại
học châu Âu (chủ yếu là Đức và Bỉ). Nói một cách đơn giản, thần học giải phóng
được “tạo ra ở Đức”!
Một hiện tượng khác của Đức là ảnh hưởng của Immanuel Kant. Kant muốn tách thần
học khỏi triết học, gạt thần học ra bên lề, sau đó bảo vệ truyền thống luân lý
của Ki-tô giáo chỉ bằng cách tham chiếu lý trí mà thôi, không bị ảnh hưởng bởi
các nguyên tắc thần học. Điều này dẫn đến điều mà các nhà thần học nói tiếng Đức
gọi là “chủ nghĩa duy luân lý [moralism]”—một cách trình bày đức tin Ki-tô giáo
như một bộ luật luân lý. Mặc dù đức tin Công Giáo dành chỗ cho thần học luân
lý, nhưng thần học luân lý không phải là cùng đích hay mục đích của đời sống
Ki-tô hữu. Cùng đích hay mục đích của đời sống Ki-tô hữu là tham gia vào cuộc sống
và tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Có thể nói, “bộ luật luân lý” của Công Giáo là một
yếu tố trong phương tiện để đạt được điều này—nó là phương tiện, không phải là
mục đích.
Nghiên cứu của nhà xã hội học Julie Pagis về những người lãnh đạo các phong
trào phản kháng của sinh viên năm 1968 kết luận rằng nhiều sinh viên trở thành
người theo chủ nghĩa Marx này được nuôi dưỡng trong các gia đình theo Ki-tô
giáo. Điều đáng chú ý là, đặc điểm của những gia đình như vậy là Ki-tô giáo được
trình bày với trẻ em như một bộ luật luân lý. Người ta có thể nói rằng những
sinh viên nổi loạn được nuôi dưỡng theo kiểu Ki-tô giáo của Kant ngay cả khi họ
đã được rửa tội theo Công Giáo. Một khi vào đại học, họ vẫn giữ mong muốn trở
thành những người có luân lý, nhưng thích nền luân lý của chủ nghĩa Marx, với sự
nhấn mạnh vào việc giải phóng “nạn nhân của sự áp bức xã hội” hơn là nền luân
lý của Giáo hội. Sự sẵn có của thuốc tránh thai đã thu hút thế hệ 1968 rời xa
thần học luân lý Kitô giáo.
Một kết quả là nhiều người Công Giáo trung lưu đã hấp thụ các yếu tố của lý
thuyết xã hội Marx vào khuôn khổ trí thức của họ trong khi bỏ qua giáo lý của
Giáo hội về các vấn đề liên quan đến nền luân lý tình dục. Sự phát triển này là
chủ đề trung tâm trong các tác phẩm của triết gia người Ý Augusto del Noce. Del
Noce hiểu rằng chủ nghĩa Marx của “Tân tả”, tiêu biểu là những người như
Antonio Gramsci và các nhà lý thuyết xã hội của Trường phái Frankfurt, “đạt đến
một hình thức phi tôn giáo sâu xa hơn nhiều so với [một] sự phủ nhận vô thần
đơn giản, và trong hình thức này, nó liên minh với tinh thần thế tục-địa lý bị
đẩy đến kết luận cuối cùng của nó.” (1) Tóm lại, nhận định của del Noce là Công
Giáo tự do đương thời được xây dựng dựa trên sự liên minh giữa tinh thần tư sản-thế
tục, đặc biệt là mối quan tâm đến sự thăng tiến xã hội, với các hình thức của
Chủ nghĩa Marx Tân tả. Do đó, thật hợp lý khi các cuộc tấn công vào truyền thống
thần học luân lý, và đặc biệt là thần học luân lý của Thánh Gioan Phaolô II, từ
các học giả (chủ yếu là giáo sĩ) tự nhận mình là "Công Giáo", hầu như
luôn mang hình thức kêu gọi khoa học xã hội và làm giảm tương ứng thẩm quyền của
Kinh thánh.
Ảnh hưởng này của sự liên minh giữa tinh thần tư sản-thế tục với các trào lưu của
Chủ nghĩa Marx Tân tả trong các học viện Công Giáo và trong các gia đình Công
Giáo và các cơ quan Công Giáo đã khiến các nhà lãnh đạo Công Giáo Châu Phi than
thở về thực tế là những người Công Giáo thế giới thứ nhất (người Công Giáo ở
Tây Âu và Anh quốc) đã trở thành những người theo chủ nghĩa hòa đồng
[syncretism]. Nói cách khác, các yếu tố hợp pháp của đức tin Công Giáo đã trở
nên rối rắm với một hỗn hợp các ý tưởng trí thức hấp thụ từ các truyền thống
thù địch. Sự pha trộn này, đại diện cho một hình thức thờ ngẫu tượng, là nguyên
nhân quan trọng dẫn đến tỷ lệ tham gia vào đời sống bí tích của Giáo hội thấp đến
thảm hại và số lượng thanh thiếu niên gia nhập chức linh mục và đời sống tu trì
ở các nước thế giới thứ nhất cũng thấp đến thảm hại. Thái độ chung của người
châu Phi là "nhìn hoa trái của chúng mà biết" và mùa màng, có thể nói
như vậy, ở những nơi như Đức và Bỉ, hầu như là thất bại hoàn toàn. Có điều gì
đó cằn cỗi trong Công Giáo Đức cấp tiến.
Một cách khác để xem xét vấn đề là nói rằng chủ nghĩa hòa đồng nguyên mẫu của Đức
tự liên kết, một cách có ý thức hoặc vô thức, với một hình thức chủ nghĩa nhân
bản được Gottlieb Söhngen mô tả là chủ nghĩa nhân văn contra crucem—một chủ
nghĩa nhân văn tránh chủ nghĩa khổ hạnh và cảnh giác với tình yêu hy sinh bản
thân—một chủ nghĩa nhân văn muốn tránh xa thập giá. Tiểu luận trong tuyển tập
này được trình bày để kỷ niệm ngày thành lập Dòng Khổ nạn đề cập đến vấn đề
này.
Để không bị buộc tội là bất công với người Công Giáo Đức, tôi phải nói rõ rằng
tôi coi Joseph Ratzinger và những người Đức khác trong nhóm trí thức của ngài,
chẳng hạn như Gottlieb Söhngen đã đề cập ở trên, là những tiến sĩ của Giáo hội
đã đưa ra chẩn đoán chính xác về các bệnh lý tâm linh ẩn chứa trong cuộc khủng
hoảng đương thời. Theo nhiều cách, Ratzinger thấy mình ở tâm điểm của cơn bão
thần học cơ bản đương thời. Những bài phát biểu, bài giảng và tiểu luận thỉnh
thoảng của ngài có thể được ghép lại với nhau để tạo thành một báo cáo bệnh lý
về sự sụp đổ của đức tin Công Giáo ở Châu Âu và một lộ trình thoát khỏi mê cung
do một vài thế kỷ người Đức nỗ lực cải thiện cuộc sống con người mà không cần đến
Thiên Chúa tạo ra.
Trong một bài giảng được trình bày vào năm 1959, Linh mục trẻ Joseph Ratzinger
đã mô tả ngày Giáng sinh đầu tiên là "ngày đông chí của lịch sử thế giới".
Chúa Kitô là một điều gì đó hơn một giáo viên luân lý hay một nhà từ thiện nổi
tiếng và Giáo hội của Người—bao gồm cả chức linh mục, Chức vụ Phêrô và hàng
giám mục—là một định chế thánh thiêng, không phải là một cơ quan phúc lợi đa quốc
gia khác. Trích dẫn từ §766 của Sách Giáo lý Công Giáo, vốn là tiếng
vọng của Lumen Gentium §3:
Giáo hội được sinh ra chủ yếu từ sự hiến thân hoàn toàn của Chúa Kitô vì sự cứu
rỗi của chúng ta, được dự ứng trong việc thiết lập Bí tích Thánh Thể và được
hoàn thành trên Thập giá. "Nguồn gốc và sự phát triển của Giáo hội được tượng
trưng bằng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn mở toang của Chúa Giêsu bị đóng
đinh". "Vì chính từ cạnh sườn của Chúa Kitô khi Người ngủ giấc ngủ của
cái chết trên thập giá đã xuất hiện 'bí tích kỳ diệu của toàn thể Giáo hội'".
Cũng như E-và được hình thành từ cạnh sườn của A-đam đang ngủ, Giáo hội cũng được
sinh ra từ trái tim bị đâm thủng của Chúa Kitô treo chết trên thập giá.
Vậy, bây giờ chúng ta cần gì?
Trước tiên, chúng ta cần đấu tranh trên nền tảng bí tích. Chúng ta cần đặt đức
tin của mình vào lời cầu nguyện và các bí tích.
Thứ hai, chúng ta cần phải chỉ trích khái niệm Giáo hội chủ yếu là một định chế
từ thiện.
Thứ ba, chúng ta cần tránh cái bẫy coi đức tin Công Giáo chỉ như một khuôn khổ
luân lý. Có, nó có một khuôn khổ luân lý, nhưng khuôn khổ này là sự hỗ trợ về mặt
cơ sở hạ tầng cho mối quan hệ của chúng ta với Chúa Ba Ngôi, đó là điều đầu
tiên của việc trở thành một Kitô hữu.
Thứ tư, chúng ta cần bắt đầu đặt câu hỏi về việc liệu các thượng hội đồng có giống
như các câu lạc bộ tranh luận nơi mọi người có thể cổ vũ bất cứ ý tưởng nào phù
hợp với họ hay liệu bản thân đức tin có phải là thứ đã được trao ban cho chúng
ta và chỉ có thể được tiếp nhận và truyền lại, chứ không phải liên tục được xây
dựng lại hay không. Nói cách khác, câu hỏi đặt ra là liệu có một số giáo lý đơn
giản là không thể bị bác bỏ vì chúng là một phần của chính kho tàng đức tin hay
không.
Thứ năm, trong khi các tình huống lịch sử mới có thể đặt ra những thách thức mới
cho việc thực hành đức tin và có thể làm phát sinh sự phát triển của giáo huấn
của huấn quyền, chẳng hạn như, ví dụ, sự ra đời của thuốc tránh thai đã làm
phát sinh Giáo lý của Thánh Gioan Phaolô II về tình yêu con người, chính chân
lý thì không thay đổi. Như Joseph Ratzinger đã nói trong Nguyên lý Thần
học Công Giáo:
Vậy thì, cứ điểm của mọi đức tin là memoria Ecclesiae, ký ức Giáo hội, Giáo hội
như ký ức. Nó tồn tại qua mọi thời đại, lúc thịnh lúc suy nhưng không bao giờ
ngừng là cứ điểm chung của đức tin… có thể có lúc thịnh lúc suy, lúc quên lúc
nhớ, nhưng không có sự đúc lại chân lý theo thời gian.
________________________________________
(*) Tracey Rowland giữ chức Giáo sư Thần học Thánh Gioan Phaolô II tại Đại học
Notre Dame (Úc). Năm 2020, bà đã giành Giải thưởng Thần học Ratzinger và năm
2023, bà được bổ nhiệm vào Viện Hàn lâm Giáo hoàng về Khoa học Xã hội. Bài đóng
góp này là một đoạn trích từ lời tựa cho cuốn sách mới nhất của bà: Unconform
to the Age: Essays on Ecclesiology [không hùa theo thời đại: các Tiểu luận về
Giáo hội học](Steubenville: Emmaus Academic, 2024).
(1) Augusto del Noce, The Age of Secularization (Montreal:
McGill-Queen’s University Press, 2017), 242.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét