19/11/2014
Thứ Tư sau Chúa Nhật
33 Quanh Năm
Bài
Ðọc I: (Năm II) Kh 4, 1-11
"Thánh,
Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã có, hiện có và sẽ đến".
Trích
sách Khải Huyền của Thánh Gioan Tông đồ.
Tôi
là Gioan, tôi đã thấy: kìa cửa trời mở ra và tiếng tôi đã nghe trước kia nói
cùng tôi như tiếng loa rằng: "Hãy lên đây, Ta sẽ cho ngươi thấy điều phải
xảy ra sau này". Bỗng tôi xuất thần, và kìa, một ngai đã đặt trên trời, có
Ðấng ngự trên ngai, và Ðấng ngự trên ngai rực rỡ như bích ngọc hoặc như hồng thạch;
có mống cầu vồng màu lục thạch bao bọc ngai. Chung quanh ngai có hai mươi bốn
toà, và trên đó, có hai mươi bốn trưởng lão, mặc áo trắng tinh, đầu đội triều
thiên vàng. Từ nơi ngai phát ra những tia chớp, tiếng nói và tiếng sấm; lại có
bảy cây đèn cháy trước ngai, đó là bảy Thần linh của Thiên Chúa. Phía trước
ngai coi như có biển trong ngần như pha lê.
Còn
chính giữa và chung quanh ngai có bốn con vật, đàng trước đàng sau chỗ nào cũng
có mắt: Con vật thứ nhất giống như sư tử; con vật thứ hai giống như con bò; con
thứ ba có dung mạo như mặt người; con thứ tư như chim phượng hoàng đang bay. Bốn
con vật ấy con nào cũng có sáu cánh quanh mình, và trong mình đầy những mắt,
ngày đêm không ngớt tung hô:
"Thánh,
Thánh, Thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng, Ðấng đã có, hiện có, và sẽ đến".
Và
mỗi lần bốn con vật tôn vinh, chúc tụng và cảm tạ Ðấng ngự trên ngai, là Ðấng hằng
sống muôn đời, thì hai mươi bốn trưởng lão phủ phục trước Ðấng ngự trên ngai và
thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời; họ gỡ triều thiên của họ mà đặt trước ngai và
tung hô rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Chúa đáng được vinh
quang, danh dự và quyền năng, vì chính Chúa đã tạo thành vạn vật, chính do ý
Chúa mà muôn vật mới có và được tạo thành".
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 150, 1-2. 3-4. 5-6
Ðáp: Thánh, thánh,
thánh! Chúa là Thiên Chúa toàn năng (Kh 4, 8b).
Xướng:
1) Hãy ngợi khen Chúa trong Thánh đài của Chúa, ngợi khen Chúa nơi thanh không
cao cả của Người. Hãy ngợi khen Người vì những kỳ công vĩ đại, ngợi khen Người
bởi sự Người tuyệt đối oai nghiêm. - Ðáp.
2)
Hãy ngợi khen Người với tiếng kèn rầm rộ, ngợi khen Người với cây đàn sắt đàn cầm.
Hãy ngợi khen Người với trống rung và ca vũ, ngợi khen Người với tiếng tơ đàn,
với ống tiêu. - Ðáp.
3)
Hãy ngợi khen Người với âm vang não bạt, ngợi khen Người với tiếng rền rĩ mã
la. Phàm vật chi có hơi thở, hãy ngợi khen Thiên Chúa. - Ðáp.
Alleluia:
Tv 110, 8ab
Alleluia,
alleluia! - Lạy Chúa, mọi gới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời. -
Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 19 11-28
"Sao
ngươi không gửi bạc Ta ở ngân hàng".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán thêm một dụ ngôn nữa, vì Người đã đến gần Giêrusalem, mà
dân chúng lại cứ tưởng là Nước Thiên Chúa sắp xuất hiện trong giây lát. Vậy Người
phán rằng:
"Có
người quý tộc kia đi phương xa để được phong vương rồi trở về. Ông cho gọi mười
người tôi tớ đến, giao cho họ mười nén bạc và dặn rằng: "Hãy làm lợi cho đến
khi ta trở về". Nhưng các người dân của ông ấy ghét ông, sai người đi theo
mà rằng: "Chúng tôi không muốn ông ấy làm vua chúng tôi". Ðược phong
vương rồi ông trở về, cho gọi các tôi tớ mà trước kia ông đã giao tiền cho, để
biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu.
"Người
thứ nhất đến và thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được mười
nén". Nhà vua bảo: "Ðược, hỡi người tôi tớ tốt lành, ngươi đã trung
tín trong điều nhỏ mọn, ngươi sẽ được quyền cai trị mười thành". Người thứ
hai đến thưa: "Tâu vua, nén bạc của vua đã sinh lợi được năm nén".
Nhà vua đáp: "Ngươi cũng vậy, hãy cai quản năm thành".
"Người
thứ ba đến thưa: "Tâu vua, đây nén bạc của vua, tôi còn giữ trong khăn, vì
tôi sợ ngài: ngài là người hà khắc, và lấy cái ngài không gửi, gặt cái ngài
không gieo". Vua phán rằng: "Hỡi đầy tớ bất lương, ta cứ lời ngươi mà
xử ngươi. Ngươi đã biết ta là người hà khắc, lấy cái ta không gửi, gặt cái ta
không gieo, sao ngươi không gửi bạc ta ở ngân hàng, để rồi khi ta trở về, ta có
thể lấy cả vốn lẫn lời".
"Vua
liền bảo những người đứng đó rằng: "Hãy lấy nén bạc của nó mà trao cho người
đã có mười nén". Họ tâu rằng: "Tâu vua, người ấy đã có mười nén rồi".
Vua đáp: "Ta nói cùng các ngươi: Ai có sẽ cho thêm, và người đó sẽ được dư
dật; còn ai không có, người ta sẽ lấy đi cả cái nó đang có. Còn những kẻ nghịch
cùng ta, không muốn ta làm vua, hãy đem chúng ra đây và giết chúng trước mặt
ta". Nói thế rồi Chúa liền dẫn họ lên Giêrusalem.
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Tỉnh
Thức Chờ Chúa
Cộng
đoàn tín hữu Thessalonica sống trong niềm thao thức việc Chúa sắp trở lại đến độ
một số người trong họ không còn muốn dấn thân làm việc nữa. Thái độ lệch lạc này
không phù hợp với lời dạy của Chúa Giêsu là sống tỉnh thức chờ đợi ngày Chúa trở
lại trong vinh quang. Cần phải có thái độ tỉnh thức được thể hiện bằng những việc
làm tốt, chứ không phải một thái độ canh chừng thụ động. Thánh Phaolô đã viết
cho tín hữu Thessalonica: "Chúng tôi cầu xin Thiên Chúa cho anh em được sống
xứng đáng với ơn gọi, xin Ngài dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của
anh em và mọi công việc anh em làm vì lòng tin... Còn về ngày Chúa Giêsu Kitô
quang lâm và tập hợp chúng ta về với Ngài, tôi xin anh em điều này: nếu có ai bảo
rằng chúng tôi đã được thần khí mạc khải, hoặc đã nói, đã viết thư quả quyết rằng
ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần giao động, cũng đừng
hoảng sợ. Ðừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào" (2Tx 1,11; 2,1-2)
Ðó
là những lời khuyên cụ thể của thánh Phaolô cho tín hữu Thessalonica đang mong
chờ lần trở lại của Chúa Giêsu, và những lời đó diễn đạt những lời Chúa dạy
trong Tin Mừng hôm nay: "Hãy làm lợi thêm những nén bạc được giao phó, chứ
đừng đem chôn dấu nó".
Dụ
ngôn nén bạc mời gọi mỗi người chúng ta ý thức trách nhiệm với tư cách là người
có niềm tin. Ðức tin không là nén bạc để được cất giữ, nhưng phải được đầu tư để
phát triển, sinh lợi. "Một đức tin không có việc làm là đức tin chết".
Nếu chúng ta chỉ đóng khung cuộc sống đạo trong bốn bức tường nhà thờ, nếu
chúng ta chỉ giản lược đức tin vào những biểu dương bên ngoài, nếu đức tin chỉ
là một mớ những giáo điều phải tin, những điều răn phải giữ, thì quả thực chúng
ta đang chôn chặt đức tin như gia nhân đã chôn nén bạc mà chủ đã trao: chúng ta
có giữ đạo, nhưng chưa thực sự sống đạo.
Cuộc
đầu tư nào cũng bao hàm những bất tất, rủi ro; một đức tin sống động cũng hàm
chứa nhiều hy sinh, mất mát. Nhưng chúng ta tin rằng chính lúc chúng ta mất mát
là lúc chúng ta được lợi lộc, chính lúc chúng ta quên mình là lúc gặp lại bản
thân, chính lúc chết đi là khi được vui sống. Ðó phải là bài trường ca trong cuộc
sống của chúng ta.
Chúng
ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa vì hồng ân đức tin chúng ta đã lãnh nhận. Xin Chúa
ban thêm can đảm, để đức tin của chúng ta thực sự được đầu tư trong từng giây
phút của cuộc sống, để đáng được phần thưởng Chúa ban trong ngày Ngài trở lại
vinh quang.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 33 TN2
Bài đọc: Rev 4:1-11;
Lk 19:11-28.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người phải tính
sổ với Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét.
Mọi
việc xảy ra trong cuộc đời đều có lý do của nó: người thợ mộc làm chiếc ghế để
ngồi, nhà nông trồng lúa để có gạo ăn … Cũng thế, Thiên Chúa dựng nên và cho con
người mọi sự trong cuộc đời là để con người chứng tỏ niềm tin và tình yêu của họ
dành cho Ngài. Con người sẽ phải tính sổ với Thiên Chúa về những gì con người
đã thực hiện trong cuộc sống trên dương gian; và tùy vào kết quả, con người sẽ
được trọng thưởng hay phải chịu hình phạt.
Trong
Bài đọc I, Thánh Gioan được cho nhìn thấy thị kiến về Ngày Phán Xét trên trời,
khi tất cả mọi tạo vật của Thiên Chúa ra trước Ngai Thiên Chúa để chịu phán xét
bởi Ngài và 24 Kỳ-mục. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kể cho dân chúng dụ ngôn: Nước
Trời cũng giống như truyện một Nhà Vua phân phối của cải cho đầy tớ trước khi
trẩy đi phương xa. Khi ông trở về, họ sẽ phải tính sổ với ông; và ông sẽ phân xử
họ tùy vào những gì họ đã sinh lời được.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Thị kiến “Ngai Thiên Chúa trên trời”
1.1/
Ngai của Thiên Chúa và 24 ngai của các Kỳ-mục:
(1)
Ngai Thiên Chúa: Gioan
nhìn thấy và mô tả Ngai Thiên Chúa; nhưng chính Thiên Chúa, Gioan không thể mô
tả. Ông chỉ có thể nói “Đấng ngự đó trông giống như ngọc thạch và xích não.”
Theo truyền thống Do-Thái, vinh quang Thiên Chúa được mô tả như ánh chớp của đá
quí (x/c Exo 24:10, Eze 1:26-28, 10:1).
(2)
24 ngai khác: 12
ngai tượng trưng cho 12 Bộ-tộc của Cựu-Ước, và 12 ngai tượng trưng cho 12
Tông-đồ của Tân-Ước. Các vị ngồi trên ngai để cùng thống trị và phân xử với
Thiên Chúa.
“Bảy
ngọn đuốc, tức là bảy thần khí của Thiên Chúa cháy sáng trước ngai.” 6 Thần Khí
được liệt kê trong Sách Isaiah 11: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí
mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Thiên Chúa. Thần khí thứ 7
là đạo đức được GH thêm vào và gọi là 7 ơn của Thánh Thần.
1.2/
Các vật xuất hiện trước Ngai Thiên Chúa:
-
Trước ngai có cái gì như biển trong vắt tựa pha lê: truyền thống Do-Thái tin
đây là bức tường ngăn cách giữa trời và đất.
-
Ở giữa ngai và chung quanh ngai có bốn Con Vật, đằng trước và đằng sau đầy những
mắt: Ý tưởng nền tảng của sự mô tả này là (Eze 1:10). Bốn Con Vật tượng trưng
cho tất cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa; mỗi Con Vật tượng trưng cho những
gì huy hòang nhất của các vật tạo dựng. Đầy những mắt: Thiên Chúa luôn hiện diện
và điều khiển công trình sáng tạo của Ngài:
*
Con Vật thứ nhất giống như sư tử: sự cao quí; “Sư tử của Judah = Đấng Thiên
Sai.”
*
Con Vật thứ hai giống như bò tơ: tượng trưng cho sức mạnh.
*
Con Vật thứ ba có mặt như mặt người: tượng trưng cho sự khôn ngoan.
*
Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay: tượng trưng cho sự mau lẹ.
-
Tất cả công trình tạo dựng của Thiên Chúa đứng trước Ngai Thiên Chúa để thờ phượng
Ngài và hòan tất những gì Ngài mong muốn. Từ thời Thánh Irenê, Bốn Con Vật tượng
trưng cho 4 Thánh Ký, theo thứ tự: Marcô, Luca, Matthêu, và Gioan.
-
Cả trái đất và trên trời hợp lời và không ngớt tiếng tung hô Thiên Chúa:
"Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, Ngài xứng đáng lãnh nhận vinh quang,
danh dự và uy quyền, vì Ngài đã dựng nên muôn vật, và do ý Ngài muốn, mọi loài
liền có và được dựng nên."
2/
Phúc Âm:
Ngày Chúa Phán Xét
Dụ
ngôn này cũng giống như trình thuật của (Mt 25:14-30). Điểm khác biệt giữa 2
trình thuật là Luca cho biết lý do tại sao nhà quí tộc trẩy đi phương xa: để
“lãnh nhận vương quyền;” và thái độ của dân chúng: “Nhưng đồng bào ông ghét
ông, nên họ cử một phái đoàn đến sau ông để nói rằng: "Chúng tôi không muốn
ông này làm vua chúng tôi.”” Sự kiện lịch sử của dụ ngôn này là sau khi Vua
Herôđê Cả chết, ông chia vương quốc thành 3 miền cho 3 con: Antipas, miền
Galilê; Philip, miền Jordan; và Archelaus, miền Judah. Quyết định này phải được
phê chuẩn bởi Hòang-đế Augustus bên Rôma. Khi Archelaus rời bỏ Judah đi Rôma để
thuyết phục Hòang-đế, người Do-Thái cũng gởi một phái đòan gồm 50 người đến
Rôma để nói lên nguyện vọng: “Họ không muốn Archelaus cai trị họ.” Hậu quả là
Hòang-đế Augustus phê chuẩn Archelaus làm Vua cai trị Judah. Khán giả của Chúa
Giêsu biết rõ sự kiện lịch sử này.
Dụ
ngôn muốn làm sáng tỏ 3 điều:
(1)
Thiên Chúa tin tưởng con người: Ngài không ấn định mức phải sinh lời; nhưng Ngài để
con người tùy khả năng và sáng kiến để làm việc sinh lời. Ngài cũng không ở gần
bên để xem xét, chỉ trích; nhưng trẩy đi phương xa để con người hòan tòan tự do
để quyết định và làm việc.
(2)
Thiên Chúa đòi con người phải tính sổ với Ngài: Tài sản được ban để sinh lời,
không phải để hoang phí. Điều quan trọng hơn là để con người chứng tỏ niềm tin
và tình yêu của mình cho Thiên Chúa: Người thứ nhất đến trình: "Thưa ngài,
nén bạc của ngài đã sinh lợi được mười nén.” Ông bảo người ấy: "Khá lắm, hỡi
đầy tớ tài giỏi! Vì anh đã trung thành trong việc rất nhỏ, thì hãy cầm quyền
cai trị mười thành.” Người thứ hai đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài
đã làm lợi được năm nén.” Ông cũng bảo người ấy: "Anh cũng vậy, anh hãy
cai trị năm thành.”
Người
thứ ba đến trình: "Thưa ngài, nén bạc của ngài đây, tôi đã bọc khăn giữ kỹ.
Tôi sợ ngài, vì ngài là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không
gieo.” Ông nói: "Hỡi đầy tớ tồi tệ! Tôi cứ lời miệng anh mà xử anh. Anh đã
biết tôi là người khắc nghiệt, đòi cái không gửi, gặt cái không gieo. Thế sao
anh không gửi bạc của tôi vào ngân hàng? Có vậy, khi tôi đến, tôi mới rút ra được
cả vốn lẫn lời chứ!” Rồi ông bảo những người đứng đó: "Lấy lại nén bạc nó
giữ mà đưa cho người đã có mười nén.” Họ thưa ông: "Thưa ngài, anh ấy có
mười nén rồi!” "Tôi nói cho các anh hay: phàm ai đã có, thì sẽ được cho
thêm; còn ai không có, thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi.”
(3)
Phần thưởng và hình phạt: Hậu quả thu được chứng tỏ khả năng của mỗi người với Thiên Chúa.
Nếu ai chứng tỏ mình xứng đáng với niềm tin của Thiên Chúa như người thứ nhất
và thứ hai, Ngài sẽ tin tưởng và trao cho những trách nhiệm nặng nề hơn; vì
Ngài biết họ có thể hòan thành trách nhiệm. Còn ai không chứng tỏ mình xứng
đáng với niềm tin của Thiên Chúa, lại còn tìm cách biện minh cho sự lười biếng
của mình bằng cách đổ tội cho Thiên Chúa như người thứ ba, làm sao Thiên Chúa
có thể tin tưởng mà trao cho sứ vụ khác? Hậu quả là Ngài sẽ lấy lại hết tất cả
những gì anh có mà trao cho những người biết sinh lợi cho Ngài. Kinh nghiệm cuộc
sống là một bằng chứng cho lời Chúa nói: Nếu con người không chịu chăm chỉ thực
hành những tài năng đã có, chúng sẽ dần dần mất đi; nhưng nếu con người biết
“văn ôn võ luyện,” tài năng càng ngày càng phát triển và đem lại nhiều lợi ích
cho con người.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
Chúng
ta cần biết lý do tại sao Thiên Chúa cho chúng ta sống trên đời này: là để
chúng ta chứng tỏ niềm tin và tình yêu của chúng ta dành cho Ngài qua những gì
chúng ta làm cho mình và cho tha nhân. Chắc chắn chúng ta sẽ phải tính sổ với
Ngài trong Ngày Phán Xét.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
HẠT GIỐNG NẨY MẦM - MÙA QUANH NĂM - TUẦN 33
Lc 19,11-28
A. Hạt giống...
Trong đoạn này, một số chi tiết thánh Luca so
sánh Chúa Giêsu với Vua Hêrôđê Akêlao (xin Rôma phong vương, nhưng dân do thái
không thích, giết những người không muốn ông làm vua) với ngụ ý vua Giêsu trổi
vượt Hêrôđê. Có lẽ ta không cần chú ý đến chúng.
Đáng chú ý là dụ ngôn các yến bạc :
- Các yến bạc tượng trưng cho những ơn ban của
Chúa.
- Mt 25,15 viết rằng ông chủ giao cho các đầy tớ
người thì 5 yến, người thì 2, người thì 1 (ngụ ý Chúa ban ơn không đồng đều).
Luca viết ông vua giao cho mỗi đầy tớ một yến bạc : Luca muốn lưu ý hai điều :
a/ công việc Chúa giao cho con người rất là nhỏ so với phần thưởng Ngài ban cho
ta ; b/ Chúa không chú ý tới số lượng ơn ban, mà chú ý tới cố gắng của
mỗi người.
- Khi khen thưởng, ông vua nói “Vì anh đã trung
thành”. Đây là điều thứ ba Chúa lưu ý nơi mỗi người.
Tóm lại, dụ ngôn nói về ơn ban của Thiên Chúa và
cách xử dụng ơn ban đó :
- Ai cũng nhận được ơn ban của Chúa.
- Số lượng ơn ban ta đã nhận không quan trọng
bằng cố gắng và lòng trung thành của ta khi xử dụng những ơn ban đó.
- Kẻ trung thành và cố gắng xử dụng ơn ban sẽ
được thưởng rất hậu.
B.... nẩy mầm.
1. Đừng nghĩ đơn giản rằng ơn Chúa ban chỉ là
những tài năng, sức khoẻ và những điều kiện xem ra thuận lợi theo cái nhìn của
con người. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng nói “Tất cả là hồng ân”. Như thế, ơn Chúa
còn là : a/ thời giờ ; b/ môi trường ta đang sống ; c/ những người ta sống
chung ; d/ bệnh tật ; e/ đau khổ v.v....
2. Chúa Giêsu giảng dụ ngôn này liền sau chuyện
ông Dakêu. Như thế Dakêu là gương mẫu cách xử dụng những nén bạc Chúa ban : ông
đã xử dụng tốt tài sản của mình và đã tận dụng cơ hội Chúa Giêsu đi ngang qua
nơi ông ở.
3. “Ai đã có (có ơn Chúa và biết xử dụng tốt) sẽ
được cho thêm. Ai không có (có ơn Chúa nhưng không xử dụng tốt thì cũng kể như
không có) thì ngay cái nó đang có cũng sẽ bị lấy đi”. Tôi phải tự hỏi mình :
Tôi đang “có” những gì ? Tôi xử dụng chúng thế nào ? Chúa sẽ “lấy đi” hay “cho
thêm” ?
4. Mặc dù đã nghỉ hưu, nhưng nhà bác học
Steinmetz một hôm nọ vẫn được Đại tướng Electric mời đến để sửa chữa một cỗ máy
của ông bị hỏng. Tất cả các kỹ sư của Đại tướng đều đã bó tay không sửa được.
Steinmetz quan sát cỗ máy rất kỹ, sau đó rút trong túi ra một viên phấn, ghi
một dấu thập ở một bộ phận cỗ máy rồi bảo các kỹ sư tháo máy ra để sửa chỗ đó.
Mọi người đều hết sức ngạc nhiên khi thấy máy bị hư ở chính chỗ nhà bác học đã
đánh dấu. Sau khi máy được sửa xong, Đại tướng gởi đến nhà bác học một ngân
phiếu lớn. Nhưng Steinmetz chỉ nhận một đồng, kém theo bản chiết tính tiền công
như sau : công đánh dấu chỗ máy hư 1 xu ; công tìm chỗ hư để đánh dấu 99 xu !
(Clifron Fadiman).
5. “Hãy làm ăn sinh lợi cho đến khi tôi đến” (Lc
19,13b)
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã phán rằng “Kẻ nào dìu
dắt con trẻ trong đường khôn ngoan đích thực thì đời đời sẽ được sáng láng như
sao trên trời”. Để khuyến khích con chu toàn bổn phận hơn, Chúa lại phán “Ai
làm ơn lành cho chúng là làm ơn lành cho chính Ta”. Điều này khiến con phải
nhìn lại trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giáo dục.
Lạy Chúa, xin giúp con
biết sống nghiêm nghị mà không nghiêm khắc
biết sống nhu mì mà không nhu nhược
biết sống khoan dung mà không dung túng
để nhờ đó con trẻ được thêm ngoan, thêm vui mà
khai lòng mở trí ra
Sau hết, xin Chúa ban cho con : khi đang truyền
đạt trí thức trần gian cho chúng, thì cũng không quên đào luyện trí thức về
Nước Trời vĩnh cửu, để ở đời này thầy trò chúng con trở thành nhân chứng cho
tình yêu của Thiên Chúa.
Ước gì bao nhiêu học trò Chúa giao phó cho con,
thì ở đời sau con sẽ được trao lại cho Ngài bấy nhiêu Đấng Thánh trên thiên
đàng. Amen. (Thánh Anphongsô).
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Suy niệm: Trong
mười người đầy tớ được giao bạc, mỗi người một nén thì Tin Mừng Lu-ca chỉ tường
thuật lại ba người. Người thứ nhất làm lợi được mười nén và anh ta được
cai trị mười thành người thứ hai năm nén và được giao trọng trách năm thành.
Nhưng với người thứ ba thì không trôi chảy tốt đẹp như thế. Chẳng biết vì lười
biếng hay vì sợ rủi ro thất bại, anh này đem nén bạc của chủ “bọc khăn cất kỹ”.
Dù vì lý do nào đi nữa, anh cũng thấy làm như thế là không ổn nên tìm cách
chống chế và “đổ thừa” cho ông chủ: “Vì ông là người khắc nghiệt”!
Chẳng phải ông chủ đã tin tưởng giao cho anh số bạc đồng đều như các bạn sao?
Chẳng phải điều ông chủ muốn anh cũng như các bạn là “làm ăn sinh lợi” sao? Các bạn anh được trọng thưởng vì đã “sinh lợi” nén bạc ông giao phó chứ không phải vì số lời
được năm nén hay mười nén. Việc anh đem “đóng băng” vốn liếng của chủ không
phải là bảo vệ tài sản cho chủ mà thực chất là phá hỏng kế hoạch của ông. Anh
bị coi là “đầy tớ tồi tệ” và bị tước hết những gì anh đang có chỉ vì
không biết sinh lời cho chủ mình.
Mời Bạn: Thiên
Chúa cũng trao cho bạn như những người khác Ngài trao cho mỗi người một khả
năng khác nhau, nhưng chung quy cũng là một nén. Ngài đang chờ bạn làm lợi nén
bạc ấy không phải cho Ngài mà cho chính bạn.
Sống Lời Chúa: Nén
bạc của bạn là gì? Bạn hãy sinh lợi bao nhiêu có thể.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa cho con những khả năng mà con nhìn thấy và những
khả năng tiềm ẩn trong con. Xin cho con biết tận dụng những điều Chúa ban để
phục vụ chứ không khư khư giữ lấy và cất kỹ. Amen.
Làm ăn sinh lợi
Ra khỏi thái độ rụt rè, sợ hãi, để dám nghĩ, dám
làm việc lớn cho Chúa, đó mới là thái độ đúng đắn của người Kitô hữu có trách
nhiệm.
Suy niệm:
Khi Đức Giêsu đến gần
Giêrusalem,
nhiều người nghĩ rằng Nước
Thiên Chúa sắp xuất hiện rồi.
Họ cho rằng khi Ngài tiến
vào thành thánh lẫm liệt như một vị vua,
Nước ấy sẽ bừng tỏa trọn vẹn
trên đoàn dân của Thiên Chúa (c. 11).
Thật ra Nước Thiên Chúa
không đến nhanh như họ nghĩ.
Đức Giêsu còn phải chịu đau
khổ, chết, rồi được phục sinh.
Sau đó Giáo Hội còn phải chờ
một thời gian dài
trước khi Nước Thiên Chúa
đến cách viên mãn qua việc Ngài trở lại.
Thời gian của Giáo Hội là
thời gian đợi chờ,
thời gian lo làm ăn sinh lợi
với những gì Chúa tặng ban.
Đó chính là ý nghĩa của dụ
ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay.
Một nhà quý tộc kia đi xa để
lãnh nhận vương quyền.
Trước khi đi ông gọi mười
người đầy tớ lại,
và trao cho họ mỗi người một
số tiền không lớn lắm, là một đồng mina.
Ông ra lệnh: “Hãy lo làm ăn
sinh lợi cho tới khi tôi đến” (c. 13).
Khi nhà quý tộc trở về trong
tư cách là vua,
ông truyền gọi các đầy tớ
lại để họ báo cáo về công việc làm ăn.
Hai người đầy tớ đầu tiên đã
sinh lợi không ít.
Một người được lời thêm mười
đồng, người kia được thêm năm đồng.
Cả hai được vua ban thưởng
rất trọng hậu, cho cai trị các thành phố.
Còn người thứ ba trả lại cho
nhà vua đồng mina anh đã nhận.
“Thưa Ngài, đồng mina của
Ngài đây, tôi đã giữ kỹ nó trong khăn.”
Tất cả tội của người đầy tớ
này nằm ở thái độ giữ kỹ.
Giữ kỹ thì chẳng mất gì, vẫn
còn nguyên vẹn.
Nhưng giữ kỹ lại không thể
làm cho đồng tiền sinh lời.
Hơn nữa, giữ kỹ là không
vâng lời ông chủ trước khi đi: “Hãy lo làm ăn!”
Người đầy tớ sợ ông chủ, vì
ông là người nghiêm khắc (c. 21).
Chính vì sợ làm ăn thua lỗ,
sợ bị ông chủ trừng phạt
mà anh chọn thái độ chắc ăn
là giữ kỹ đồng vốn trong khăn.
Thái độ này không được ông
chủ, nay trở thành nhà vua, chấp nhận.
“Tại sao anh không gửi tiền
của tôi vào ngân hàng,
để khi trở về, tôi mới rút
được cả vốn lẫn lời chứ ?” (c. 23).
Ý của chủ là đồng tiền cần
phải được đầu tư để sinh lời.
Nỗi sợ đã làm cho anh đầy tớ
mất đi sự liều lĩnh cần thiết.
Bài Tin Mừng nhắc các Kitô
hữu một điều cần.
Giữ kỹ, giữ nguyên những gì
Chúa ban vẫn chỉ là một thái độ tiêu cực.
Kitô hữu là người tích cực
sử dụng đồng vốn nhận được để sinh lời.
Ra khỏi thái độ rụt rè, sợ
hãi, để dám nghĩ, dám làm việc lớn cho Chúa,
đó mới là thái độ đúng đắn
của người Kitô hữu có trách nhiệm.
Nếu không liều lĩnh trong
những dự tính và hành động,
nhiều nén bạc Chúa ban sẽ bị
bỏ quên mãi trong khăn.
Ông chủ trong dụ ngôn thật ra
không phải là người ham lời.
Ông chỉ muốn các đầy tớ
trung tín trong việc rất nhỏ (c. 17).
Nhờ dấn thân làm việc cho
Nước Chúa mà người Kitô hữu được lớn lên.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe
nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa
vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn
con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn
con,
và Chúa yêu con hơn cả chính
con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập
giá,
xin cho con dám liều theo
Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi
sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu
đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự
quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim
con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui
bất diệt
của người một lòng theo Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
SUY NIỆM
SỬ DỤNG NHỮNG NÉN BẠC CHÚA TRAO
Câu chuyện mà Chúa Giêsu kể trong đoạn tin mừng
nghe rất dễ hiểu và dễ nhớ. Chúa cũng trao cho tôi những nén bạc trong cuộc
đời. Đó là nén bạc sức khỏe, nén bạc thời giờ, là những khả năng, những tài
năng, những ơn lành, những cơ hội; đó cũng là chỗ ở, là môi trường sống, là
những bổn phận mà Chúa muốn tôi sử dụng và hiện diện để đem lại ích lợi thiêng
liêng cho mình và cho người khác.
Khi đọc đoạn tin mừng này tôi tự hỏi mình: Tôi đã
sống như Chúa dạy chưa? Tôi ngưỡng mộ những tôi tớ tài năng có thể sinh lợi cho
ông chủ. Tôi cũng chê cười đầy tớ không sinh lợi cho ông chủ. Chúa cũng muốn
tôi là những người tôi tớ trung thành và sử dụng hữu ích những nén bạc Chúa
trao ban. Vậy tôi đang là người đầy tớ như thế nào của Chúa?
Lạy Chúa, xin cho con biết sử dụng những điều
Chúa ban trở thành những nén bạc sinh lợi cho bản thân của con và cho tha nhân
như Chúa muốn. Amen.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
19
THÁNG MƯỜI MỘT
Tiếng
Gọi Chung Thủy
Được
sinh ra từ tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa, hôn nhân tìm thấy luật nền tảng và
giá trị luân lý của nó trong một tình yêu đích thực giữa hai người. Cả vợ và chồng
đều hoàn toàn dấn thân để nâng đỡ nhau. Và xuất phát từ khát vọng chung của hai
người muốn sống trung thành với tình yêu của Thiên Chúa – là Đấng Sáng Tạo và
là Cha của mình – họ sinh ra sự sống mới. Sứ mạng mà họ lãnh nhận từ Thiên Chúa
này đòi hỏi họ phải có một sự dấn thân triệt để hơn nữa và một ý thức cao vượt
hơn nữa về những trách nhiệm của họ trong tư cách là con người và là Kitôhữu.
Họ
phải không ngừng tìm cách tận dụng các ân sủng tuôn chảy từ Bí Tích Hôn Nhân.
Ân sủng bí tích này thật cần thiết để giúp họ đương đầu với những thách đố của
bao khó khăn trong cuộc sống hằng ngày. Các đôi vợ chồng Kitôhữu tìm thấy ánh
sáng và sức mạnh để giải quyết những vấn đề riêng của họ nhờ ân sủng này. Họ có
thể sống triệt để một tình yêu đích thực và phổ quát – trước hết đó là tình yêu
hướng về Thiên Chúa, vì họ phải khao khát vinh quang của Ngài và nhiệt tình mở
rộng Nước Ngài; thứ hai, đó là tình yêu hướng về con cái họ trong ánh sáng của
nguyên tắc Thánh Phao-lô: “Tình yêu không tìm ích lợi cho riêng mình” (1Cr
13,5); và cuối cùng, đó là tình yêu hướng về nhau trong đó người này tìm cách
phục vụ người kia và hiểu được những tâm tư nguyện vọng tốt lành của người kia.
Ở đây không có sự độc đoán hay ích kỷ chen vào trong ý hướng. Không, ở đây chỉ
có một tình yêu trọn vẹn và phổ quát.
Điều
này giải thích tại sao linh đạo vợ chồng đòi hỏi một nỗ lực triệt để về luân lý
và sự thánh thiện suốt đời. Nó phải được nuôi dưỡng bởi những niềm vui và những
hy sinh trong đời sống hằng ngày.
Những
người vợ và chồng, anh chị em đừng cảm thấy cô đơn trong sự dấn thân của anh chị
em cho các mục đích nói trên. Thật vậy, Công Đồng nhắc anh chị em rằng “Hôn Phu
của Giáo Hội đến gặp gỡ các đôi vợ chồng Kitôhữu qua Bí Tích Hôn Phối. Ngài vẫn
ở với họ để – như Ngài đã yêu thương Giáo Hội và hiến mình cho Giáo Hội – họ
cũng yêu thương nhau bằng một tình yêu chung thủy” (MV 48). Anh chị em hãy sống
tình yêu chung thủy ấy, sự chung thủy được nâng đỡ bởi chính tình yêu của Chúa
Kitô.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
19-11
Kh
4, 1-11; Lc 19, 11-28.
LỜI
SUY NIỆM: “Hãy lo làm ăn sinh lợi cho tới khi tôi đến”
Chúa
Giêsu dùng dụ ngôn “nhà Vua trao mười nén bạc cho mười đầy tớ.” Rồi trẩy đi phương
xa lãnh nhận vương quyền. Để nói lên cho mọi người đều biết: Thiên Chúa, Ngài
luôn tín nhiệm con người, đồng thời Ngài cũng để cho họ được hoàn toàn tự do
hành động theo ý riêng của mình. Mục đích là Ngài đang thử nghiệm họ trong các
bổn phận hằng ngày. Sau thời gian thử nghiệm, Ngài sẽ đánh giá sự trung thành
và nhiệt tình trong công việc sinh lợi, Và rồi Ngài sẽ phân định thưởng phạt
theo kết quả mà mỗi người mang lại.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa ban mọi phúc lộc cho mỗi người trong gia đình chúng con, xin
cho mọi người đều chu toàn bổn phận để sinh lợi cho mình, cho người và cho Giáo
Hội của Chúa.
Mạnh
Phương
19
Tháng Mười Một
Một Lỗ Nhỏ Trên
Vách Tường
Tại
một trung tâm bài phung nọ, đa số các nạn nhân đều buồn chán vì cảm thấy bị bỏ
rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn biết cười và vẫn
tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ.
Vị
nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu đâu là nguyên nhân của phép lạ này. Sau
nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách
tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà
đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến. Ðó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng của
người đàn ông xấu số. Mỗi ngày, ông chờ đợi nụ cười ấy. Khuôn mặt của người đàn
bà chỉ chợt xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn ông duy nhất còn biết cười
trong trung tâm bài phung đó đã giải thích cho vị nữ tu như sau:
"Người
đàn bà ấy chính là vợ tôi. Trước khi tôi đến đây, nàng đã tìm đủ mọi cách để chữa
chạy tôi. Mỗi ngày, nàng lau sạch một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên
đó một cái hôn... Nhưng cuối cùng, nàng không thể giữ tôi lâu hơn. Người ta đã
đến đưa tôi vào trung tâm này.
Nhưng
vợ tôi đã không bỏ tôi. Mỗi ngày, nàng đến nhìn qua lỗ hỏng của vách tường và mỉm
cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống. Nhờ nàng, tôi vẫn còn
muốn sống...".
Tình
yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã làm cho người vợ không nhìn người chồng xấu số
như một con người đáng xa lánh. Tình yêu của người vợ đã đem lại sức mạnh và niềm
vui sống cho người chồng... Nhu cầu căn bản nhất của con người là yêu và được
yêu. Bất cứ ai cũng cần đến tình yêu và muốn thể hiện tình yêu... Bạn có biết rằng
có bao người đang cần một nghĩa cử, một nụ cười, một ánh mắt cảm thông của bạn
không?
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét