Trang

Thứ Bảy, 22 tháng 11, 2014

23-11-2014 : (phần I) CHÚA NHẬT XXXIV MÙA THƯỜNG NIÊN - CHÚA KI-TÔ VUA VŨ TRỤ - LỄ TRỌNG

23/11/2014
Chúa Nhật 34 Quanh Năm Năm A
Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ
(phần I)

Bài Ðọc I: Ed 34, 11-12. 15-17
"Phần các ngươi là những đoàn chiên của Ta, Ta xét xử giữa chiên với chiên".
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng. Như một mục tử kiểm điểm đoàn chiên trong ngày chúng bị tản mát, thì Ta cũng kiểm điểm đoàn chiên Ta như vậy. Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán, và trong ngày mây mù đen tối.
"Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem con chiên lạc về, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính.
"Còn các ngươi, hỡi chiên của Ta, Chúa là Thiên Chúa phán thế này: Này Ta sẽ phân xử giữa con này với con khác, giữa cừu đực với dê đực".
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 22, 1-2a. 2b-3. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).
Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. - Ðáp.
2) Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Ðáp.
3) Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu tôi thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu tôi đầy tràn chan chứa. - Ðáp.
4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

Bài Ðọc II: 1 Cr 15, 20-26. 28
"Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại, là hoa quả đầu mùa của những kẻ yên giấc. Vậy sự chết bởi một người, thì sự kẻ chết sống lại cũng bởi một người. Cũng như mọi người đều phải chết nơi Ađam thế nào, thì mọi người cũng sẽ được tác sinh trong Ðức Kitô như vậy. Nhưng ai nấy đều theo thứ tự của mình, hoa quả đầu mùa là Ðức Kitô, đoạn đến những kẻ thuộc về Ðức Kitô, những kẻ đã tin Người xuống thế: rồi đến tận cùng khi Người đã trao vương quốc lại cho Thiên Chúa Cha, và đã tiêu diệt mọi đầu mục, quyền năng và thế lực.
Nhưng Người còn phải cai trị cho đến khi Người đặt mọi quân thù dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng sẽ bị tiêu diệt là sự chết. Khi mọi sự đã suy phục Người, bấy giờ chính Con cũng sẽ suy phục Ðấng đã bắt mọi sự suy phục mình, để Thiên Chúa nên mọi sự trong mọi sự.
Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Mc 11, 10
Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước Ðavít tổ phụ chúng ta đã đến. - Alleluia.

Phúc Âm: Mt 25, 31-46
"Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người, và sẽ phân chia họ ra".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi Con Người đến trong vinh quang, có hết thảy mọi thiên thần hầu cận, Người sẽ ngự trên ngai uy linh của Người. Muôn dân sẽ được tập họp lại trước mặt Người, và Người sẽ phân chia họ ra, như mục tử tách chiên ra khỏi dê. Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái.
"Bấy giờ Vua sẽ phán với những người bên hữu rằng: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta".
"Khi ấy người lành đáp lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ chúng con thấy Chúa là lữ khách mà tiếp rước, mình trần mà cho mặc; có khi nào chúng con thấy Chúa yếu đau hay bị tù đày mà chúng con đến viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta".
"Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: "Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng. Vì xưa Ta đói, các ngươi không cho ăn; Ta khát, các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi chẳng tiếp rước; Ta mình trần, các ngươi không cho đồ mặc; Ta đau yếu và ở tù, các ngươi đâu có viếng thăm Ta!"
"Bấy giờ họ cũng đáp lại rằng: "Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu?" Khi ấy Người đáp lại: "Ta bảo thật cho các ngươi biết: những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta". Những kẻ ấy sẽ phải tống vào chốn cực hình muôn thuở, còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Vị Vua Mục Tử
Hôm nay lễ Chúa Yêsu Làm Vua. Từ ngữ này có vẻ lỗi thời, không khoái tai nhiều người, khiến nhiều người cũng ngại đọc lên. Nhưng nếu tất cả đã nghe Lời Chúa hôm nay và tìm hiểu ý nghĩa, người ta sẽ thấy việc Chúa Yêsu làm Vua không có gì động đến chính trị và từ ngữ kia có một ý nghĩa rất phong phú.

A. Vị Vua Mục Tử
Trước hết, bài sách Êzêkiel đưa chúng ta về quan niệm "Vua" ở trong Kinh Thánh. Dĩ nhiên trong quá trình lịch sử, Dân Chúa cũng như mọi dân tộc khác đã đi qua chế độ quân chủ. Và từ ngữ "Vua" ở trong Kinh Thánh cũng ám chỉ vị hoàng đế cai trị một quốc gia. Nhưng ngay từ khi Dân Chúa nghĩ đến chế độ ấy, Kinh Thánh đã có một lập trường và một lý luận rất đặc biệt.
Chúng ta nhớ câu truyện Dân đến xin tiên tri Samuel thiết lập chế độ quân chủ. Ông đã bắt đầu phản kháng như thế nào. Ông khẳng định đó chỉ là chế độ bóc lột làm khổ dân. Nhưng cuối cùng ông đã nhượng bộ trước sức ép. Nói đúng hơn, ông đã vâng lời Chúa. Và chính Chúa cũng tỏ ý phải chiều theo sự cứng lòng cứng dạ của một dân bướng bỉnh. Nghĩa là ngay từ đầu, Thánh Kinh đã không có cảm tình với chế độ quân chủ.
Và kinh nghiệm cho thấy vị vua đầu tiên đã không tốt. Vì thương dân, Chúa đã phải ra tay cứu vớt. Người không áp đặt ý tưởng của Người, nhưng sửa chữa ý tưởng của người ta và nâng nó lên đến chỗ hoàn thiện. Chúng ta hãy cảm mến thái độ quảng đại chiếu cố cũng như quyền năng êm ái của Người.
Người không hủy bỏ quân chủ, nhưng ban cho Dân một vị vua lý tưởng. Ðó là Ðavít. Hồi ấy, chàng còn là đứa trẻ tóc hoe, đang chăn chiên ngoài đồng. Chúa đã gọi chàng và xức dầu cho chàng làm vua. Mặc dầu đời vua Ðavít không tránh khỏi mọi lỗi lầm, nhưng tựu trung, đó vẫn là vị vua lý tưởng của Kinh Thánh vì ông kính sợ Chúa, rất khiêm nhu và từ tâm, luôn nhớ nguồn gốc và các đức tính chăn chiên của mình. Hành động đặc sắc nhất người làm sau khi được phong vương là đi đương đầu với tên địch thủ Golyat. Ðavít đã thắng y với phương pháp và tâm hồn một cậu bé chăn chiên đạo đức.
Thành ra khi ví các bậc lãnh đạo dân tộc như mục tử, Kinh Thánh không phải chỉ dùng thể văn thời bấy giờ và quan niệm hoàng đế cai trị dân giống như mục tử săn sóc đoàn chiên. Luôn luôn không nhiều thì ít, Kinh Thánh vẫn muốn gợi lại hình ảnh Ðavít, vị vua mục tử rất đẹp lòng Thiên Chúa. Ðặc biệt khi loan tin Ðấng Thiên Sai sẽ có huy hiệu hoàng đế, Kinh Thánh không nghĩ đến vua chúa của các nước lân bang, nhưng chỉ nghĩ đến Ðavít và quan niệm Ðấng Thiên Sai sẽ là vua nhưng là một vua mục tử, khiêm cung, tận tụy, từ tâm.
Bài sách Êzêkiel hôm nay chứng thực điều đó. Nhà tiên tri loan báo ơn Chúa cứu dân. Người sẽ cứu dân ra khỏi cảnh lưu đày và tái lập quốc gia của họ ngay trên xứ sở của họ. Người sẽ làm thế nào? Êzêkiel đáp: Người sẽ làm như một mục tử. Người coi dân lưu đày như đàn chiên tản mác. Người sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán trong ngày mù tối, ra khỏi các dân mà chúng đang nô lệ. Người đưa tất cả về trên Núi Thánh cho chúng được gặm cỏ nơi những cánh đồng xanh rì và được nghỉ ngơi bên những dòng suối mát. Chính Người chứ không phải ai khác sẽ chăn dắt chúng; tức là chính Người sẽ lãnh đạo dân, làm vua của dân chứ không ai khác nữa. Chúa tuyên bố Người là vua. Nhưng là vua mục tử và là mục tử tốt sẽ săn sóc từng con chiên, đáp ứng yêu cầu của từng con; đồng thời sẽ không để dê cừu lẫn lộn kẻo chúng húc và làm hại nhau, tức là Chúa sẽ phân biệt kẻ dữ người lành, để đàn chiên của Người, Dân thánh của Người được bình an hạnh phúc.
Ðó là lời sấm của Êzêkiel. Ông loan báo việc Chúa dắt dân trở về, nhưng có thể nói chẳng khi nào để họ lại trở thành một vương quốc có vua cai trị nữa, mà để họ làm thành một dân có sứ mạng thiêng liêng, phổ biến ơn cứu độ của Chúa và có Chúa lãnh đạo một cách vô hình.
Nhưng Thánh Thần đã dùng Êzêkiel để nói về những việc xa hơn. Và đoạn tiên tri hôm nay vẫn được coi như là lời loan báo thời đại Thiên sai. Chúa Cứu thế đã đến không phải chỉ để tập họp một dân tản mác lại, mà là muôn dân thiên hạ làm thành một Hội Thánh. Và Người đã xưng mình là mục tử tốt, cắt đặt các bậc lãnh đạo trong Hội Thánh làm mục tử.
Tuy nhiên viễn tượng của bài tiên tri còn đi xa hơn, đi đến tận cùng lịch sử. Chỉ ở đó, vào thời cánh chung, mọi chiên tản mác của Chúa mới vĩnh viễn được thu về Núi Thánh, để được nghỉ ngơi vô tận bên các dòng suối hạnh phúc từ lòng Thiên Chúa Ba Ngôi chảy ra. Khi ấy người ta mới thấy rõ Người là Vua mục tử cụ thể như thế nào! Và người ta sẽ hân hoan sung sướng nhận Người làm Vua một cách thắm thiết biết bao!
Dĩ nhiên bài sách Êzêkiel chưa nói rõ được tất cả. Nhưng nó đã gợi lên; và có thể giúp ta đi vào hai bài đọc sau.

B. Vị Vua Vâng Lời
Bài thư Phaolô đưa chúng ta đến thời đại cánh chung. Chúa Yêsu sống lại là hoa quả đầu mùa. Người sẽ lôi theo tất cả loài người và tạo vật sống lại. Người như Ađam mới. Nếu Ađam cũ đã lôi cả loài người - và qua loài người - cả tạo vật vào hư hỏng và chết chóc, thì Ađam mới lại càng kéo được toàn thể nhân loại sa ngã và tạo vật hư hoại đi vào cõi sống muôn đời... Bây giờ chưa xảy ra như thế. Chúa Yêsu đang còn phải lôi kéo tất cả ra khỏi vòng nô lệ của mọi thứ thù địch để kết hợp tất cả vào Thân Mình Người. Khi nào làm xong công việc ấy; Người sẽ tiêu diệt kẻ thù cuối cùng là sự chết. Bấy giờ tất cả sẽ sống lại. Và Chúa Kitô sẽ dâng tất cả lên cho Thiên Chúa để Người là mọi sự ở trong tất cả.
Ðối với chúng ta bản văn trên đã quen thuộc. Và chúng ta hiểu rằng hiện nay Ơn Chúa đang làm việc trong lịch sử để dần dần tất cả được quy lại dưới một Ðầu là chính Ðức Yêsu Kitô. Người là Vua vô hình của toàn thể Hội Thánh là Thân Thể của Người. Người là Vua của toàn tạo dựng được cứu chuộc nhờ mầu nhiệm Thập giá.
Nhưng theo lời thư Phaolô, chúng ta có thể tự hỏi: như vậy Chúa Yêsu không là Vua vĩnh viễn sao? Vào lúc cánh chung, Người sẽ dâng vương quốc của Người cho Thiên Chúa. Vương quyền của Người sẽ không vô tận như chúng ta vẫn tin!
Không! Ai có thể tách rời Chúa Kitô ra khỏi Thiên Chúa? Vương quyền mà Người đã nhận được sau mầu nhiệm tử nạn phục sinh có tính cách vĩnh viễn. Thánh Phaolô viết như trên để nói lên một chân lý: Ðức Kitô đã được làm Vua trong mầu nhiệm Thánh giá vì đức vâng lời của Người. Người luôn luôn làm theo Thánh ý Thiên Chúa và đã vâng lời cho đến chết trên thập giá, nên đã được tôn vinh trên hết thảy, để từ đó nghe Danh Yêsu, trên trời dưới đất đều thờ lạy... Vậy như Người đã làm Vua vì vâng lời, thì chúng ta muốn vào Nước của Người, muốn được kết hợp vào Thân thể của Người, chúng ta cũng phải có lòng vâng lời Thiên Chúa, tức là thi hành mọi huấn giới của Người. Có như vậy, Chúa Yêsu mới là Ađam mới và chúng ta mới là dòng dõi Ađam mới, khác với Ađam cũ và dòng dõi cũ của ông ở điểm: Ađam cũ và dòng dõi ông đã hư đi vì bất vâng phục, thì Ađam mới và dòng dõi mới của Người sẽ được tôn vinh nhờ đức vâng lời. Khi nói: sau khi đã làm cho tất cả suy phục mình thì Ðức Kitô dâng tất cả cho vương quyền Thiên Chúa, thánh Phaolô không có ý nói đến những công việc trước sau, nhưng chỉ muốn gợi lên ý nghĩa sâu xa và điều kiện căn bản của việc chúng ta thuộc về Ðức Kitô, vì suy phục Người và muốn được Người làm Vua thì phải vâng lời Thiên Chúa, tức là thi hành Thánh ý của Người, như chính Ðức Kitô, vì vâng lời Thiên Chúa, mà được đặt lên thống lĩnh mọi tạo vật. Cũng một hành vi đã đưa Chúa Yêsu lên làm Vua, cũng đưa chúng ta vào Nước của Người, cũng là Nước Thiên Chúa.
Chúng ta hãy dựa vào bài Tin Mừng hôm nay để xác định thêm về hành vi này.

C. Vị Vua Nhân Ái
Cũng như thánh Phaolô, trong bài Tin Mừng này, thánh Matthêô muốn có một cái nhìn tiên tri về ngày chung thẩm. Vì quen với văn Cựu Ước, nên khi nghĩ đến ngày của Thiên Chúa, người nhớ ngay tới hình ảnh Con Người mà tiên tri Ðaniel đã vẽ ra. Do đó, người viết: khi Con Người sẽ đến trong vinh quang của Người, có mọi thiên thần của Người hầu cận, thì Người sẽ ngự trên ngai vinh hiển của Người.
Chúng ta thấy ngay thánh Matthêô đã muốn ám chỉ Con Người thật là một vị hoàng đế uy nghi, có tất cả mọi sự thuộc về mình. Nhưng vị hoàng đế ấy lại như một mục tử đang kêu mọi dân tộc đến với đàn chiên. Người là Chúa Con vì Người gọi những kẻ lành là kẻ được Cha Người chúc phúc. Như vậy, vào ngày chung thẩm chính Chúa Yêsu sẽ đến phán xét chúng ta. Người ngự trên ngai vinh hiển như một vị Vua. Nhưng cách làm việc của Người lại như một mục tử. Người là Vua mục tử như Êzêkiel đã loan báo. Người phân các dân tộc ra hai bên tả hữu của Người như mục tử phân chiên ra khỏi dê.
Ðể làm công việc này, Người chỉ có một tiêu chuẩn: bên những người lành là những kẻ đã thi hành lòng nhân ái; còn bên kẻ dữ là những kẻ thiếu lòng nhân đạo. Ðiều khó hiểu là Người đã xét xử người ta theo lòng nhân ái và nhân đạo đối với chính Người. Nhưng có ai đã gặp Người ở trần gian mà thi hành lòng nhân ái? Câu Người trả lời còn lạ lùng hơn nữa. Người nói: Khi các ngươi làm hay không làm gì cho một trong các anh em hèn mọn nhất của Người là làm hay không làm cho chính Người.
Truyền thống đã cắt nghĩa từ ngữ "các anh em hèn mọn nhất" ám chỉ mọi con người thiếu thốn, đau khổ mà chúng ta gặp. Quả thật, hết mọi người đã trở thành anh em của Chúa Yêsu kể từ ngày Người mặc lấy bản tính nhân loại. Và khi hiểu như vậy, chúng ta có lý để khẳng định rằng sau này Chúa sẽ phán xét chúng ta theo thái độ bác ái của chúng ta đối với tha nhân. Và đó chính là lệnh truyền Người đã để lại cho chúng ta trước khi về trời. Và như thế chúng ta thấy thánh Matthêô và thánh Phaolô đã hợp ý với nhau khi nói rằng muốn được nhận vào Nước của Chúa Yêsu sau này, chúng ta phải vâng lời Người mà yêu thương bác ái với anh em.
Nhưng dường như thánh Matthêô hiểu từ ngữ "các anh em hèn mọn của Chúa" một cách hẹp hơn. Người nghĩ đặc biệt đến các môn đệ tông đồ của Chúa vì người chỉ dùng từ ngữ này trong hai trường hợp khác (ở đoạn 12,50 và 28,10) đều để nói về môn đệ. Họ thật là những người hèn mọn vì gia thế của họ không có gì cả. Và nhất là vì họ phải nên giống như Người là Ðấng đã tự hạ để trở thành tôi tớ. Cụ thể, ở thời Matthêô, các Tông đồ thừa sai của Chúa bị tầm nã, bắt bớ, đánh đập, phỉ báng vì Danh Chúa. Họ đang sống mầu nhiệm Thập giá là mầu nhiệm cứu thế của Chúa. Những ai đón nhận họ quả thật là đón nhận Chúa. Và những ai cho họ một ly nước lã vì họ là môn đệ thì quả thật là như ban cho chính Chúa. Người ta săn sóc các môn đệ trong hoàn cảnh bắt bớ là săn sóc chính Chúa và xứng đáng với Nước Trời rồi vậy.
Giải thích từ ngữ trên cách nào cũng rất hợp lý. Và giữ cả hai cách lại còn hợp lý hơn. Muốn vào Nước Trời, người ta phải đón nhận các Tông đồ của Chúa, cho dù bề ngoài họ chỉ là những con người hèn mọn. Bấy giờ người ta mới thật sự không đón nhận họ như người phàm và sứ điệp của họ như sự khôn ngoan của thế gian, nhưng như các anh em của Chúa và như Tin Mừng cứu độ. Lúc ấy người ta cũng sẽ khám phá ra rằng theo đạo là hội nhập một cộng đoàn khiêm tốn gồm phần lớn những người nghèo khó, bởi vì chính Chúa, tuy là Vua nhưng cũng đã sống như một mục tử, đến nỗi đã bỏ mạng sống mình vì đàn chiên của Người. Và người ta sẽ hiểu rõ vì sao lệnh truyền của Người là bác ái và có tuân giữ lệnh truyền của Người mới được vào Nước Trời.
Giờ đây Chúa cũng ngự đến trong Bí tích Thánh Thể. Người thật là Vua của chúng ta. Nhưng Người lại chia sẻ Thịt Máu Người cho đàn chiên. Nhận lấy ơn thiêng của Người chúng ta phải muốn xả kỷ hy sinh cho anh em. Và khi làm như vậy chúng ta thống trị được bao khuynh hướng xấu xa phát xuất từ căn bản tội lỗi do nguyên tổ để lại, tức là óc kiêu ngạo, không muốn vâng phục và chỉ muốn đè trên người khác. Chúng ta sẽ làm cho vương quyền của Chúa Yêsu lan ra nơi con người và đời sống của chúng ta. Chắc chắn xã hội sẽ được nhờ ảnh hưởng của Vương quyền đó và dần dần hết mọi người sẽ thấy Chúa chỉ là Vị Vua Mục Tử rất đáng mến và không có gì phải sợ cho các quyền lợi trần gian.

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)


Lời Chúa Mỗi Ngày
Chúa Nhật 34 Thường Niên A, Lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ
Bài đọc: Eze 34:11-12, 15-17; I Cor 15:20-26; Mt 25:31-46.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Xin Chúa làm Vua cai trị chúng con.
Con người ở mọi nơi và mọi thời luôn mơ ước có được một “thiên đàng trần gian;” nơi sẽ không còn chiến tranh, hận thù, ghen ghét, bóc lột; nơi con người sẽ sống an vui, yêu thương, hạnh phúc, và không thiếu thốn bất kỳ thứ gì. Biết bao nhiêu chủ thuyết qua mọi thời hứa hẹn cái “thiên đàng trần gian” này như: các đế quốc Ba-Tư, Hy-Lạp, Rôma, Fascism, Marxism, Capitalism; nhưng tất cả chỉ là những bánh vẽ, nghe rất lý tưởng, nhưng khi nếm vào mới cảm thấy nhục nhằn cay đắng. Có 3 lý do tại sao lý tưởng của nước “thiên đàng trần gian” không thành công:
(1) Vua chúa và các thủ lãnh thế gian là những con người bất tòan. Họ sống bất công và không lo lắng cho dân; họ lợi dụng niềm tin của dân để vơ vét của cải cho mình.
(2) Vuơng quốc trần gian luôn thay đổi: Hết triều đại này đến triều đại kia, hết đế quốc này tới đế quốc khác. Kiếm mỏi mắt được một người biết thương yêu lo lắng cho dân, lại bị ám sát hay chết sớm.
(3) Dân chúng hỗn hợp nhiều lọai khác nhau: cả người lành lẫn kẻ dữ, cả chiên lẫn dê; vì thế, rất khó cai trị.
Nhưng đối với các Kitô hữu, thiên đàng chỉ có được ở đời sau, nơi mà cả 3 điều kiện trên đều có thể tìm được:
(1) Vua duy nhất là Đức Kitô: Ngài sẽ chiến thắng tất cả, và các thủ lãnh thế gian phải qui phục Ngài. Ngài sẽ qui tụ tất cả về cho Thiên Chúa; sẽ cai trị trong tâm hồn; sẽ cai trị trong sự thật, công bằng, và thương yêu.
(2) Vương quốc của Ngài là Nước Trời, sẽ tồn tại muôn đời.
(3) Dân của Vua Kitô: chỉ tòan chiên (những người công chính), dê (những kẻ gian ác) bị lọai ra ngòai. Họ sẽ không bao giờ phải chết nữa. Điều kiện để thuộc về vương quốc: nghe tiếng (tin) vào Đức Kitô.
Các Bài đọc hôm nay tập trung vào 3 yếu tố căn bản này: Vua Kitô, vương quốc Nước Trời, và dân riêng của Ngài: Trong Bài đọc I, TT Êzêkiel tiên đóan trước Ngày đó sẽ đến và những gì sẽ xảy ra trong Ngày đó. Bài đọc II tập trung vào Đức Kitô: sự chiến thắng các địch thù và khôi phục Vương Quốc của Ngài. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu sẽ chọn chiên ra khỏi dê. Ngài phán xét con người theo tiêu chuẩn của Đức Bác Ái, và thưởng hay phạt tùy theo những gì con người làm cho tha nhân.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Đức Kitô là Vua yêu thương.
1.1/ Chính Chúa Thượng sẽ chăm sóc chiên: Không ai biết chăm sóc và thương yêu chiên bằng chủ của nó; không ai biết chăm sóc và thương yêu con người bằng chính Đấng Tạo Hóa đã dựng nên con người. TT Ezekiel đã nhìn thấy và tiên báo Ngày này sẽ xảy ra: “Quả thật, Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây, chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen mù mịt. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ - sấm ngôn của Đức Chúa là Chúa Thượng.”
1.2/ Người Mục Tử Tốt Lành: Kẻ chăn chiên là những người làm thuê; vì thế, họ không những không quan tâm đến tình trạng của chiên, mà còn chỉ để ý đến lông chiên và thịt chiên. Người Mục Tử Tốt Lành quan tâm đến đòan chiên của mình và sẵn sàng thí mạng sống mình vì đòan chiên. Một số dấu hiệu của Người Mục Tử Tốt Lành:
(1) Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu.
(2) Con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; Chúa làm bạn với những người thu thuế và gái điếm.
(3) Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; Chúa lập các Bí-tích để chữa lành.
(4) Con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; Chúa chữa đủ mọi thứ bệnh tật trong dân.
(5) Con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng. Chúa giáo huấn dạy dỗ theo đường ngay nẻo chính.
2/ Bài đọc II: Đức Kitô là Vua uy quyền.
2.1/ Đức Kitô có quyền trên Thần Chết: Thánh Phaolô dùng 2 hình ảnh của con người đầu tiên, Adam, và con người mới, Đức Kitô, để chứng minh con người sẽ sống lại. Vì Adam, con người đầu tiên phạm tội, nên tội lỗi lan tràn đến con cháu của ông (tội tổ tông); và hậu quả là con người phải chết đời đời. Con người không những phải chết vì tội tổ tông mà còn vì cả tội cá nhân của mỗi người nữa. Nhưng Đức Kitô, Con Thiên Chúa từ trời nhập thể trong thân xác con người, Ngài không vương tì ố tội lỗi, nên sự chết không có quyền trên Ngài. Không những thế, Ngài còn tiêu diệt sự chết bằng Cuộc Thương Khó và sự Phục Sinh của Ngài. Thánh Phaolô quả quyết: “Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu. Vì nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại. Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống.” Người đi trước mở đường là Đức Kitô; sau đó đến những kẻ thuộc về Người. Thánh Phaolô gọi sự sống lại của Đức Kitô là “Của Đầu Mùa,” vì phải có của đầu mùa mới có những mùa màng hoa quả sau đó; nếu không có của đầu mùa, cũng không thể có mùa màng hay hoa quả theo sau.
2.2/ Đức Kitô có quyền trên Ba Thù: Rất nhiều quyền lực thống trị con người trong thế giới. Để hòan tòan giải phóng con người, Đức Kitô phải tiêu diệt tòan bộ những quyền lực này: “Sau đó mọi sự đều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi giới thống trị, mọi nhà cầm quyền và mọi sức mạnh, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha.” Bản dịch của Nhóm PVCGK không sáng tỏ bằng nguyên bản trong câu này, vì họ dịch: quản thần (giới thống trị), quyền thần (giới cai quản), dũng thần (các sức mạnh). Để hiểu 3 giới này, có lẽ cách tốt nhất là giải thích theo quan niệm “Ba Thù” luôn đe dọa đời sống các tín hữu:
(1) Quỉ Thần: Satan và các đồng bọn của nó. Với chiến thắng của Đức Kitô, Satan và đồng bọn không còn thống trị con người nữa như lời Sách Khải Huyền: “Vì Satan, kẻ tố cáo anh em của Ta, ngày đêm tố cáo họ trước Tòa Thiên Chúa, nay bị tống ra ngòai” (Rev 12:10).
(2) Thế gian: Rất nhiều các vua chúa thế gian, ở mọi nơi và mọi thời, luôn có những sắc chỉ và luật lệ chống lại và bắt bớ các Kitô hữu, vì lối sống theo sự thật và theo tiêu chuẩn Nước Trời của họ. Nhưng Đức Kitô đã chiến thắng thế gian, và các thánh tử đạo, những người theo chân Đức Kitô, cũng có sức mạnh vượt thắng được những đe dọa của vua chúa muốn họ bỏ đạo.
(3) Sức mạnh của xác thịt và của các khuynh hướng xấu trong tâm hồn con người. Thế gian với mọi cám dỗ của nó như tiền của, uy quyền, danh vọng, mời gọi thỏa mãn xác thịt, luôn là mối đe dọa nguy hiểm cho các Kitô hữu. Những cám dỗ này có thể lướt thắng được khi con người để Đức Kitô hòan tòan làm Vua ngự trị trong tâm hồn. Cuộc đời các thánh là những bằng chứng hùng hồn cho sức mạnh của Đức Kitô.
3/ Phúc Âm: Chúa Kitô là Vua khôn ngoan. Ngày Phán Xét: Ngài phân biệt chiên ra khỏi dê.
"Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái.”
3.1/ Phán xét chiên (bên phải): Tiêu chuẩn phán xét là Đức Bác Ái.
(1) Lời Chúa phán xét và phần thưởng: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han."
(2) Lời kẻ lành đáp lại : Có bao giờ thấy Chúa đâu? "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?"
(3) Lời củng cố của Chúa: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta." Không gì làm hài lòng cha mẹ hơn khi thấy người khác giúp đỡ con cái của mình. Cũng vậy, tất cả đều là con cái của Thiên Chúa; và Ngài vui sướng khi thấy con cái của Ngài được yêu thương giúp đỡ.
3.2/ Phán xét dê (bên trái): Cùng một tiêu chuẩn phán xét: Đức Bác Ái.
(1) Lời Chúa phán xét và hình phạt: "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng."
(2) Lời kẻ dữ đáp lại: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?"
(3) Lời củng cố của Chúa: "Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy."
Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đã nhận ra sự giả tạo của “thiên đàng trần gian:” sự bất tòan của các nhà lãnh đạo, sự chóng qua của vương quốc trần gian, và sự lẫn lộn của cả người lành lẫn kẻ dữ. Đồng thời chúng ta cũng nhận ra sự tòan hảo của Đức Kitô: Người là Vua của thương yêu, uy quyền, và khôn ngoan, vương quốc Nước Trời sẽ tồn tại muôn đời, và công dân Nước Trời sẽ sống ấm no, hạnh phúc, và bình an muôn đời. Xin Đức Kitô làm Vua cai trị lòng chúng ta muôn đời.
- Muốn làm công dân của Vua Kitô, phải có nhân đức thương yêu như Ngài. Nếu không sẽ bị lọai ra ngòai.
- Vua Kitô và vương quốc Nước Trời không phải là chuyện tưởng tượng như các nhà vô thần và cộng sản tuyên truyền. Bằng chứng cụ thể là các tín hữu đã được nếm thử sự dịu ngọt của Vua tình thương ngay từ đời này. Các Kitô hữu đã chứng minh họ là những người biết sống, sống có mục đích, và sống yêu thương mọi người.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

23/11/14 CHÚA NHẬT TUẦN 34 TN – A 
Chúa Ki-tô Vua vũ trụ
Mt 25,31-46
Suy niệm: Xin được trích dẫn tâm sự của thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II với các đôi vợ chồng nhân bài Tin Mừng hôm nay: “Vào ngày phán xét, có thể Đức Giê-su sẽ nói với người vợ có chồng thất nghiệp: ‘Con là kẻ được chúc phúc, vì xưa Ta thất nghiệp, không kiếm ra tiền để lo cho gia đình, nhưng con vẫn một niềm thương yêu kính trọng và nâng đỡ Ta qua cơn thử thách.’ Ngày ấy vị Thẩm phán sẽ nói với người chồng có vợ đau yếu: ‘Hãy đến thừa hưởng gia nghiệp dành cho con. Vì xưa Ta đau yếu, nhan sắc tàn tạ, đang khi con lại có nhiều cô gái vây quanh; vậy mà con vẫn một lòng chung thủy son sắt, chăm sóc Ta ân cần, khiến Ta được an ủi rất nhiều.’ Ngài sẽ nói với người con hiếu thảo với cha mẹ: ‘Ngày xưa Ta già yếu, khó tính, hay than phiền con cái trong nhà. Ấy thế mà con đã không xem thường Ta, vẫn một niềm kính trọng và chu đáo chăm nom’.”
Mời Bạn: Ghi nhớ Lời Chúa : Mỗi lần các con làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là làm cho chính Ta”.
Chia sẻ: Bạn đã nhận ra Chúa Ki-tô nơi những người đói nghèo, rách rưới, vô gia cư, bệnh hoạn… chưa?
Sống Lời Chúa: Tập nhận ra Chúa Ki-tô nơi những người bé mọn chung quanh và có cử chỉ, lời nói nâng đỡ thích hợp.
Cầu nguyện: Đọc kinh “Thương người 14 mối”.


Đoạn Tin Mừng hôm nay đặt chúng ta vào trong quang cảnh hùng vĩ của cuộc phán xét chung. Ở đó, Đức Kitô giữ vai trò xét xử bá nhân bá tánh. Vậy thì sẽ phải xét xử ra làm sao? Hơn nữa, mỗi người có những hoàn cảnh, những nhiệm vụ, những khả năng riêng, do đó quả cân nào sẽ phân định tội trạng và công phúc?
Thế nhưng, đối với Chúa Giêsu mọi sự xem ra lại đơn giản. Muôn dân thiên hạ cuối cùng được phân chia thành hai loại được đặt ở bên phải và bên trái của Ngài. Tiêu chuẩn để phân biệt cũng rất đơn giản: Đã làm gì cho những kẻ bé mọn. Đối xử với những kẻ bé mọn, đói khát, trần truồng, tù tội, đau yếu là đối xử với chính Chúa vậy.
Sự phân xử của Chúa Giêsu trong ngày phán xét làm cho cả người lành lẫn kẻ dữ phải ngạc nhiên sửng sốt. Mọi sự sẽ dễ dàng hơn nếu như mỗi người trong cuộc đời của mình đã có lần được gặp Chúa Giêsu bằng xương bằng thịt, với một bảng tên rõ ràng và một lý lịch minh mạch. Biết bao nhiêu người đã xả thân để giải phóng thánh địa chỉ vì đó là nơi đã ghi dấu tích sự hiện diện của Chúa, huồng hồ là gặp Chúa đói khát, trần truồng, đau yếu và tù tội. Ai có thể lại làm ngơ.
Nhưng cái làm cho chúng ta lúng túng đó là Chúa Giêsu đã đồng hoá mình với mỗi người trong anh em chúng ta, với những con người chúng ta gặp trong cuộc sống thường ngày tại khu phố, tại trường học, trên đồng ruộng, nơi công sở, ngoài chợ ngoài đường và nhất là với những kẻ làm chúng ta khó chịu vì cái nghèo nàn, thô kệch và quấy rầy của họ. Mọi người đều ngạc nhiên.
Nhưng Đức Kitô trong cương vị Đấng xét xử, đã tuyên bố: Những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất là các ngươi đã làm cho chính ta. Và những gì các ngươi đã không làm cho một trong các anh em bé mọn nhất là các ngươi đã không làm cho chính Ta. Thế là đã rõ. Đức Kitô xét xử theo tình yêu chúng ta đã có hay không có đối với anh em đồng loại, nhất là đối với những người hèn mọn về chức tước, danh vọng và của cải. Vương quốc của Đức Kitô chính là vương quốc của tình yêu. Giáo Hội tôn vinh Đức Kitô là Vua, nhưng Ngài không muốn ngự trên ngai vàng để mọi người bái phục, nhưng Ngài đã đến phục vụ những kẻ hèn và đồng hoá mình với họ.

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
23 THÁNG MƯỜI MỘT
Mở Rộng Tấm Lòng Để Đón Nhận
“Bất cứ ai đón nhận em bé này nhân danh Thầy là đón nhận chính Thầy” (Lc 9,48). Lời ấy của Chúa Giêsu soi sáng ý nghĩa của việc đón nhận trẻ em làm con nuôi. Quyết định nhận nuôi một đứa trẻ luôn luôn phát xuất từ tình yêu đối với trẻ em và từ nỗi khát khao được làm cha làm mẹ. Việc nhận con nuôi là một chứng tá độc đáo loan báo cho thế giới thấy tấm lòng rộng mở để chia sẻ sự sống và tình yêu tự nguyện đối với một đứa trẻ đang cần có cha mẹ và cần một mái ấm gia đình.
Dù trong thời đại chúng ta những đám mây đen đang vần vũ trên các gia đình, chúng ta vẫn được khích lệ bởi vô số những tấm gương quảng đại rực sáng lên trong các gia đình Kitôhữu. Chúng ta ngập tràn hy vọng khi nhìn thấy các chứng tá ấy. Những sự chọn lựa theo tinh thần Kitô giáo thường trái ngược với não trạng thế gian xung quanh chúng ta. Những sự chọn lựa ấy sẽ thách đố và chất vấn những người cần nghe Tin Mừng, những người có khuynh hướng muốn sống một cuộc sống đóng kín và ích kỷ. Việc nhận con nuôi là một dấu hiệu qua đó các gia đình Kitôhữu tuyên bố rằng mình không muốn khép kín nơi chính mình – trái lại, muốn mở ra đón nhận một đứa trẻ đáng thương và nhận một trách nhiệm cao cả cách vui tươi và vô vụ lợi.
Quyết định nhận con nuôi không bao giờ là một quyết định dễ dàng. Thật vậy, quyết định đó luôn luôn kèm theo với nó những bổn phận hết sức quan trọng và phức tạp. Tuy nhiên, đó là một quyết định có sức làm phong phú cộng đồng.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng trong thời đại chúng ta ngày càng có nhiều gia đình ước ao nhận ocn nuôi. Đây rõ ràng là một chiều hướng tích cực. Đây là một sự đáp trả đầy yêu thương trước một tiếng gọi cao cả. Đó là lý do tại sao tôi muốn bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với những gia đình đang đảm nhận công việc quan trọng này. Tôi cũng muốn khích lệ công việc của những người liên hệ đến việc giới thiệu nhận con nuôi. Xin Chúa chúc lành cho công việc đầy ý nghĩa này và chúc lành cho mọi gia đình đang nuôi dạy những đứa con nuôi một cách đầy yêu thương và quảng đại.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 23-11
Chúa Nhật XXXIV Thường Niên
Chúa Giêsu Kitô Vua
Ed 34, 11-12. 15-17; 1Cr 15, 20-26. 28; Mt 25, 31-46.

LỜI SUY NIỆM: “Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê”
Càng gần cuối năm phụng vụ. Giáo Hội dẫn đưa chúng ta chuẩn bị  đón ngày Chúa đến. Chúa đến trong vinh quang của Người, để phân nhân loại ra làm hai rõ ràng: Một bên Hữu và một bên Tả, giữa Tả Hữu này không có chổ đứng cho những kẻ trung lập. Bên Hữu dành cho những kẻ đã tận hiến cho Thiên Chúa và cứu giúp, thăm viếng và phục vụ con người sẽ được ân thưởng đời đời trong Nước Thiên Chúa đã dành sẵn. Còn bên Tả dành cho những kẻ thờ ơ, không quan tâm đến Thiên Chúa cũng như đóng cửa long mình trước tha nhân, họ sống ích kỷ, chỉ biết mình mà thôi; giờ đây họ sẽ lãnh lấy hình phạt đau khổ muôn kiếp nơi Lửa thiêu đốt.
Lạy Chúa Giêsu. Chúa đang cho mỗi thành viên trong gia đình chúng con biết: hạng người bên Tả và bên Hữu của Chúa trong ngày quang lâm của Chúa. Xin cho mỗi người chúng con biết trải lòng sống tốt với hết mọi người để ngày sau được vui hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa muôn đời.
Mạnh Phương

23 Tháng Mười Một
Tấm Gương Trong Lâu Ðài Versailles
Lâu đài Versailles ở ngoại ô Paris là một trong những danh lam thu hút nhiều du khách nhất. Trong lâu đài, nơi mà du khách cảm thấy bị giữ chân lâu nhất đó là phòng khánh tiết bằng pha lê, được trang bị bằng hàng ngàn tấm kính từ trên trần nhà đến các vách tường.
Du khách sẽ ngỡ ngàng vì một hiện tượng lạ lùng: Nếu bạn đưa tay ra và chỉ về một phía nào đó, bạn sẽ thấy có hàng trăm ngàn cánh tay và hàng ngàn khuôn mặt đang hướng về bạn như đang ngắm nhìn bạn. Bạn sẽ cảm thấy như mọi người đang chú ý đến bạn. Nhưng nhìn cho kỹ thì tất cả những cánh tay, tất cả những khuôn mặt đó đều là của bạn.
Ðó là hình ảnh của mỗi người trong chúng ta. Ai trong chúng ta cũng cho mình là quan trọng nhất. Tất cả mọi hành động, mọi ý nghĩ, mọi lời nói, đều tập trung vào bản thân chúng ta và trong lòng chúng ta không còn một chỗ trống nào dành cho người khác.
Cái tôi trong chúng ta có thể là một trở ngại cho tương giao giữa chúng ta và người khác cũng như tương giao giữa chúng ta và Chúa. Sự sống của Chúa chỉ có thể lớn mạnh trong chúng ta và sự sống của chúng ta chỉ có thể triển nở là lúc chúng ta thực sự sống cho Chúa. Lời của Ngài phải tiêu diệt cái tôi ích kỷ trong chúng ta để chúng ta có thể lớn lên trong Người. Nói như thánh Gioan Tẩy Giả khi gặp chúa Giêsu: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại". Thưa bạn, đó là bí quyết trong cuộc sống của người Kitô chúng ta.
(Lẽ Sống)



Đức Giêsu Vua vũ trụ - Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Tin Mừng trình bày ngày chung thẩm ở đó Đức Vua vinh hiển mở cửa Nước Trời cho tất cả những ai đã yêu mến Ngài qua việc yêu thương anh chị em bất hạnh của họ, những người mà Đức Vua tình yêu tự đồng hoá mình với họ.
ĐỨC GIÊ-SU VUA VŨ TRỤ
Lễ Chúa Kitô Vua đã được Đức Pi-ô XI thiết định vào năm 1925 để khẳng định niềm tin của Giáo Hội vào quyền tối thượng của Đức Giê-su trên mọi người, mọi gia đình và mọi xã hội nhân loại. Trong bức Thông Điệp của mình “Quas primas” vào ngày 11 tháng 12 năm 1925, Đức Pi-ô XI đặc biệt tố cáo chủ nghĩa thế tục làm phương hại tận căn vương quyền của Đức Ki-tô.
Trước đây, Lễ Chúa Ki-tô Vua được ấn định vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng mười. Từ cuộc canh tân phụng vụ, Ngày Lễ nầy đóng lại năm phụng vụ, vì nó được trình bày như đỉnh cao của tất cả mầu nhiệm Đức Ki-tô.
Lễ Đức Ki-tô Vua long trọng nhắc nhở rằng Đức Ki-tô không chỉ là anh em của chúng ta, người bạn đồng hành của chúng ta, nhưng cũng là Chúa của chúng ta.
Ed 34: 11-12, 15-17
Bài Đọc I, trích từ sách Ê-dê-ki-en, là dụ ngôn người mục tử nhân lành. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Đấng Mê-si-a (Đức Ki-tô) mà muôn dân mong đợi sẽ còn hơn một vị vua: người mục tử nhân lành của dân Ngài, Ngài biết chọn lựa giữa chiên và dê, giữa người tốt và kẻ xấu.
1Cr 15: 20-26, 28
Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô gợi lên vương quyền của Đức Ki-tô. Thiên Chúa đã quy phục mọi sự cho Ngài, và vào ngày cùng tận, Chúa Con sẽ hoàn lại cho Cha Ngài thế giới mà Ngài đã vĩnh viễn tiêu diệt quyền lực Sự Ác và Tử Thần.
Mt 25: 31-46
Tin Mừng trình bày ngày chung thẩm ở đó Đức Vua vinh hiển mở cửa Nước Trời cho tất cả những ai đã yêu mến Ngài qua việc yêu thương anh chị em bất hạnh của họ, những người mà Đức Vua tình yêu tự đồng hoá mình với họ.
BÀI ĐỌC I (Ed 34: 11-12; 15-17)
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sống vào thời kỳ bi thảm nhất của lịch sử Ít-ra-en: thời kỳ những cuộc xâm lăng của đế quốc Ba-by-lon vào đầu thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên. Sau khi vua Ba-tư là Na-bu-cô-đô-no-so đánh chiếm kinh thành Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất vào năm 598 tCN, ngôn sứ Ê-dê-ki-en là một trong đoàn người ưu tú đầu tiên bị dẫn đi lưu đày.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en tiên báo một tai họa còn lớn lao hơn. Tai họa nầy bất ngờ xảy đến mười một năm sau đó. Quân Ba-by-lon triệt hạ kinh thành Giê-ru-sa-lem lần thứ hai và phá hủy Đền Thờ (588-587 tCN). Cuộc xuất chinh thứ nhất của quân Ba-by-lon là trừng phạt trong khi cuộc xuất chinh thứ hai là chấm dứt vương quốc Giu-đa.
Trong những hoàn cảnh bi thương, ngôn sứ Ê-dê-ki-en cực lực tố cáo các nhà lãnh đạo Ít-ra-en là bất tài, vị kỷ, bất công: họ là những mục tử gian ác đã dẫn dân của mình đến chỗ phải ly tán khắp nơi. Danh xưng “mục tử” được dùng để gọi vua rất phổ biến ở Đông Phương, thuộc ngôn ngữ triều đình.
1.Dụ ngôn người mục tử nhân hậu.
Khi tai họa bất ngờ giáng xuống trên dân tộc mình, ngôn sứ Ê-dê-ki-en, trước đây đã loan báo tai họa, nay loan báo niềm hy vọng: sẽ đến ngày Đức Chúa đích thân cầm lấy vận mệnh của dân Ngài, Ngài sẽ là vị Mục Tử đích thật.
Như ngôn sứ Ê-dê-ki-en, ngôn sứ Giê-rê-mi-a cũng sống cùng một hoàn cảnh lịch sử nhưng không bị lưu đày và vẫn còn lưu lại ở kinh thành Giê-ru-sa-lem, đã sử dụng cùng một hình ảnh để loan báo một tương lai tươi sáng hơn: “Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác…Các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Nầy Ta sẽ để ý đến hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Chính ta sẽ quy tụ đoàn chiên Ta còn sót lại từ khắp mọi miền Ta đã xua chúng đến. Ta sẽ đưa chúng về đồng cỏ của chúng…Ta sẽ cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng; họ sẽ chăn dắt chúng” (Gr 23: 1-4).
Chắc chắn, sấm ngôn nầy của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã khơi nguồn cảm hứng cho ngôn sứ Ê-dê-ki-en về dụ ngôn “người mục tử nhân lành” mà ông đã khai triển dài ở chương 34 được trích dẫn trong Bài Đọc I nầy.
2.Sứ điệp hy vọng.
Trước hết, sấm ngôn loan báo tai họa của ngôn sứ Ê-dê-ki-en được ứng nghiệm ngay tức thời. Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ, Đền Thờ bị tàn phá, đám đông dân cư bị đi lưu đày. Đó là một thời kỳ thử thách, một thời kỳ “mây mù tăm tối” (hình ảnh truyền thống để gợi lên sự trừng phạt của Thiên Chúa). Mỗi lần kinh thành Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm, mỗi lần một đoàn dân cư bị lưu đày ở Ba-by-lon. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị đánh chiếm lần thứ hai, thành thánh bị san thành bình địa, một số lượng dân cư Giê-ru-sa-lem và Giu-đê trốn chạy sang Ai-cập: đàn chiên bị tản mác khắp nơi.
Trong hoàn cảnh bi thương giáng xuống trên đất nước, ngôn sứ loan báo một sứ điệp chan chứa niềm hy vọng khi hứa rằng Thiên Chúa sẽ can thiệp. Chính Ngài sẽ đích thân chăn dắt đoàn chiên của mình: “Chúng có tản mác đến tận đâu vào một ngày mây mù tăm tối, thì Ta cũng sẽ cứu chúng ra”. Đó là lời hứa cuộc hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem và cuộc đoàn tụ lại ở quê cha đất tổ. Đức Chúa sẽ đích thân băng bó tất cả những ai bị thương tổn, bồi bổ những ai bệnh hoạn trong cơn thử thách, Ngài “sẽ dựa vào công lý mà săn sóc”. Đây cũng là dụ ngôn về những mục tử gian ác, những kẻ có quyền cậy thế mà chà đạp những người nghèo hèn thấp cổ bé miệng.
Sứ điệp chứa chan niềm hy vọng này được gởi đến những người sống kiếp lưu đày và những nạn nhân xấu số trong những cuộc xâm lăng, nhưng cũng tiên báo một sự thay đổi sẽ xảy đến trong lịch sử Ít-ra-en: sau cuộc hồi hương trở về, vương quyền sẽ không còn được khôi phục lại nữa. Chỉ một mình Đức Chúa sẽ là lãnh đạo dân Ngài.
3.Tôn giáo tình yêu.
Qua dụ ngôn mục tử nhân lành, sứ điệp mà vị ngôn sứ gởi đến cho dân Ngài còn quan trọng hơn. Những mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài được trình bày như những mối quan hệ đầm ấm thân tình; những hình ảnh chất chứa biết bao âu yếm, sôi nổi, sống động như một điệp khúc: “Con nào mất, Ta sẽ lo tìm kiếm; con nào lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh hoạn, Ta sẽ bồi bổ; con nào béo khỏe, Ta sẽ giữ gìn”. Ở nơi dụ ngôn người mục tử nhân lành ẩn chứa một tôn giáo tình yêu. Đức Giê-su, khi lấy lại dụ ngôn nầy, sẽ định vị mình vào trong truyền thống của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Ga 10: 1-16; Mt 18: 12-14; Lc 15: 4-7).
Đức Chúa, Đấng trừng phạt dân Ngài, nhưng không quên họ và vẫn một lòng yêu thương họ, là một Thiên Chúa chí công vô tư: Ngài biết “phân xử giữa chiên và chiên, giữa dê và cừu”. Đây là hình ảnh mà thánh Mát-thêu lấy lại trong Tin Mừng về Ngày Chung Thẩm: chính dựa trên những tiêu chuẩn tình yêu nầy mà vị Vua-Mục Tử sẽ tuyên án.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 20-26, 28)
Cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô, mà thánh Phao-lô đã loan báo Tin Mừng, đa số là người gốc Hy-lạp, ngay cả những người không phải gốc Hy lạp cũng chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp. Niềm tin vào kẻ chết sống lại đặt ra cho họ một vấn nạn. Tại sao thân xác, vốn là ngục tù giam hãm linh hồn trong thế giới vật chất, lại được thăng hoa viên mãn, lại được phục sinh? Đối với tư tưởng Do thái, quan niệm con người như toàn thể, việc kẻ chết sống lại gồm cả xác lẫn hồn được cắm rể trong một niềm tin truyền thống từ nhiều thế kỷ.
Thánh nhân dành đoạn kết của bức thư để trả lời cho những biện bác mà cộng đoàn Cô-rin-tô nêu lên.
1.Mối dây liên đới giữa cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su và cuộc phục sinh của chúng ta.
“Đức Giê-su đã chỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu”. Chúng ta đều phải chết vì thân phận tội lỗi của chúng ta trong mối liên đới với sự chết và tội lỗi ở nơi A-đam, nhưng được sống lại nhờ liên đới với Đức Giê-su Ki-tô. Đức Giê-su là Đầu của toàn thể nhân loại được tái sinh, là Trưởng Tử của đoàn người đông đúc được sống lại. Theo Ngài và nơi Ngài toàn thể con người của chúng ta, cả xác lẫn hồn, được cứu độ.
2.Vương quyền của Đức Giê-su.
Lúc đó, thánh nhân triển khai tư tưởng của mình trong một thị kiến vĩ đại về Ngày Chung Cuộc. Sau khi đã tiêu diệt vĩnh viễn mọi thế lực Ác Thần và cuối cùng là Tử Thần, Chúa Con sẽ trao lại cho Chúa Cha vương quyền mà Chúa Cha đã trao ban cho Ngài. Như vậy mọi sự đều hoàn tất. Sứ mạng của Chúa Con được chu toàn. Lúc đó, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài.
TIN MỪNG (Mt 25: 31-46)
Năm Phụng Vụ hoàn tất trên thị kiến vĩ đại mà truyền thống Ki-tô giáo gọi là “Ngày Chung Thẩm”. Thị kiến nầy đóng lại bài diễn từ cánh chung, trong đó Đức Giê-su gợi lên những viễn cảnh nối tiếp nhau về ngày cùng tận của thế giới và ơn cứu độ của mỗi người.
1.Con Người.
Bức tranh được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: Con Người ngự giá mây trời mà đến và Thiên Chúa trao cho Người “quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người” (Đn 7: 13-14).
Ngai vinh hiển và sự hiện diện của các thiên thần vào Ngày Chung Thẩm là những nét đặc trưng của truyền thống ngôn sứ và các tác giả khải huyền. Nhưng hoạt cảnh được soi sáng chủ yếu bởi danh xưng “Con Người” được đặt ở đầu. Danh xưng “Con Người” được dịch sát từ có nghĩa “con của loài người”. Đây là diễn ngữ Kinh Thánh được gặp thấy trong sách Ê-dê-ki-en, đồng nghĩa với “một con người”, tức là một phàm nhân mỏng dòn yếu đuối đối lập với Thiên Chúa cao vời khôn ví như trong câu:“Hỡi con người, hãy đứng cho vững, Ta sắp nói với ngươi đây” (Ed 2: 1). Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, “Con Người” là nhân vật thuộc thiên giới từ mây trời mà đến, nghĩa là từ Thiên Chúa mà đến, nhưng cũng không kém con người.
Như vậy, qua danh xưng “Con Người” trong thị kiến Đa-ni-en, Đức Giê-su mặc khải rằng Đức Vua giáng trần để xét xử trần thế này thuộc về thiên giới nhưng cũng chia sẻ trọn vẹn nhân tính của chúng ta. Nét đặc trưng độc đáo nầy ngự trị toàn bộ hoạt cảnh: Vua-Thẩm Phán muốn liên đới với anh em đồng loại của mình, đặc biệt những kẻ nghèo hèn thua thiệt và bênh vực cho họ đến độ Ngài tự đồng hoá mình với họ.
Cựu Ước thường hằng cho thấy Thiên Chúa đứng về phía những kẻ thấp cổ bé miệng bị áp bức thua thiệt trong cuộc đời này. Chính Ngài đích thân đảm nhận việc báo oán cho họ. Trong sách Xuất Hành, Thiên Chúa một cách nào đó tự đồng hoá mình với những người khốn khổ, bị áp bức: “Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu vì người Ai-cập” (Xh 3: 9). Sách Gióp mô tả những nguyên do Thiên Chúa trừng phạt nhân danh công lý theo cùng những từ ngữ trong đoạn Tin Mừng hôm nay: “Anh đòi anh em nộp của cầm mà chẳng có lý do, lại còn lột cả áo che thân của họ. Kẻ mệt nhoài, anh chẳng cho nước uống, người đói lả, anh từ chối bánh ăn. Anh trao đất đai cho kẻ có quyền hành, và cho người thần thế được định cư. Các quả phụ, anh đuổi về tay trắng, các cô nhi, anh bắt phải bó tay.Vì thế, cạm bẫy bủa vây anh tứ phía làm cho anh bất chợt phải sợ hãi kinh hoàng” (G 22: 6-11).
2.Mến Chúa và yêu người.
Nét tiêu biểu của Ki-tô giáo đó là “Mến Chúa và yêu người là một”. Nhưng ai có thể công bố“mến Chúa và yêu người là một”, nếu không là Đấng hiệp nhất Thiên Chúa và nhân loại chúng ta ở nơi Ngài? Hoạt cảnh Ngày Chung Thẩm, trong đó việc chọn lựa giữa những người công chính và quân vô đạo được thực hiện dựa trên tiêu chuẩn tình yêu, minh họa hùng hồn nhất nét tiêu biểu Ki-tô giáo: “Mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy”.
3.Bối cảnh lịch sử.
Được đặt vào trong bối cảnh lịch sử của nó, đoạn Tin Mừng nầy đã có một âm vang ngay tức thời. Đức Giê-su đã từng gọi các môn đệ Ngài là những “kẻ bé nhỏ” (Mt 10: 42) hay “anh em Thầy” (Ga 20: 17). Vào lúc thánh ký ghi lại đoạn văn nầy, những người Ki-tô hữu đang phải sống trong cảnh bách hại, chịu những gian truân tứ bề, bị tù đày giết chết. Đức Giê-su dự phần vào những nỗi truân chuyên của họ. Không phải trên đường Đa-mát Ngài đã nói với Phao-lô: “Tại sao ngươi bách bớ Ta” (Cv 9: 4) đó sao? Chắc chắn đoạn Tin Mừng hôm nay đã đem đến một niềm an ủi lớn lao biết là ngần nào cho những người Ki-tô hữu đang sống trong cảnh bách hại và cho những ai giúp đỡ họ hay gia đình của họ. Tuy nhiên, bản văn có một tầm mức hoàn vũ hơn.
4. Tầm mức hoàn vũ.
“Các dân thiên hạ sẽ tụ họp trước mặt Người”. Vị Vua-Thẩm Phán ngỏ lời với hết mọi người. Đức Giê-su đã lật đổ những viễn cảnh của sách Lê-vi, theo đó, yêu người thân cận chỉ giới hạn ở nơi đồng bào của mình, để công bố chiều kích “tứ hải giai huynh đệ” của Luật Đức Ái. Tác giả thư gởi các tín hữu Do thái khẳng định rằng Đức Giê-su đã trở nên anh em của tất cả mọi người: “Đức Giê-su đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa…Thật vậy, Đấng thánh hóa là Đức Giê-su, và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em, khi nói: Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em…” (Dt 2: 9-17). Vả lại, chính Đức Giê-su đã công bố: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12: 50).
Đức Giê-su nối kết diễn từ Chung Thẩm với diễn từ “Các Mối Phúc Thật”, đồng thời đem đến một khía cạnh mới mẽ. Ngài mở rộng sự tuyển chọn của Thiên Chúa ở bên kia Ki-tô giáo nói riêng. Tất cả những ai thực hành Đức Ái huynh đệ sẽ được định vị trong tinh thần của Đức Kitô, dù thuộc bất kỳ dân tộc nào và bất kỳ tôn giáo nào: họ sẽ nhận được gia sản và dự phần vào những lời chúc phúc của Chúa Cha.
Đây là ân ban trực tiếp của mầu nhiệm Nhập Thể. Ngôi lời Nhập thể không là một giai đoạn tạm thời: Thiên Chúa tháp nhập vĩnh viễn vào nhân loại, và qua nhân loại Ngài cho chúng ta được tháp nhập vào Ngài.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét