02/10/2016
Chúa Nhật tuần 27 thường niên năm C
Kính trọng thể Đức Mẹ Mân Côi
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: CN 27 TN-C-Lễ Mẹ Mân Côi
CHÚA NHẬT XXVII THƯỜNG NIÊN C
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
(Cv 1,12-14; Gl 4,4-7; Lc 1,26-38)
Chủ đề: ĐỨC
MARIA – MẪU GƯƠNG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi
như lời sứ thần nói”
(Lc 1,38)
(Lc 1,38)
I.
CÁC BÀI ĐỌC:
Các bài đọc hôm nay đề cao vai
trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và là mẫu gương của
đời sống đức tin cho người Kitô hữu. Khi suy niệm kinh Mân Côi qua bốn mầu
nhiệm Vui-Thương-Mừng-Sáng, người Kitô hữu đang cùng với Đức Maria tham dự vào
cuộc đời của Chúa Giêsu-Con Mẹ; đồng thời cộng tác vào chương trình cứu độ của
Thiên Chúa Cha.
1. BÀI
ĐỌC I (Cv 1,12-14):
Bài đọc I thuật lại cuộc sống
của những người môn đệ sau biến cố Đức Giêsu lên Trời. Trong số đó có các tông
đồ, có một số phụ nữ thường theo Đức Giêsu trên hành trình loan báo Nước Trời
của Người, có các anh em bà con của Đức Giêsu và không thể thiếu sự hiện diện của
Đức Maria, thân mẫu Người.
Sau khi trở về nơi trú ngụ ở
Giêrusalem từ núi Ôliu, nơi Đức Giêsu được rước lên Trời, dựa theo truyền thống
Luca, các Tông đồ đã làm hai việc đáng lưu ý nói lên nền tảng căn bản và trở
thành mẫu mực cho đời sống cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, đó là:
- đồng tâm nhất trí với nhau;
- chuyên cần cầu nguyện.
Điều đáng lưu ý là trước đây
các Tông Đồ ít thực hiện hai việc đó, nhưng vào lúc khởi đầu đời sống của cộng
đoàn Kitô hữu tiên khởi, các ông lại thực hiện khi cùng quy tụ quanh Đức Maria,
mẫu mực và là thầy dạy của đời sống đức tin và việc cầu nguyện. Quả thật Đức
Maria luôn cầu nguyện để tìm kiếm Thánh ý Thiên Chúa và suy niệm trong lòng: từ
biến cố truyền tin, khi dâng Hài Nhi trong Đền Thờ, suốt hành trình theo Đức
Giêsu đến tận đỉnh núi Canvê. Do đó, có thể nói, các tông đồ và những người tin
theo Đức Giêsu lúc này “đồng tâm nhất trí với nhau” và “chuyên tâm cầu nguyện”
theo mẫu mực của Đức Maria. Như thế, Đức Maria có vai trò quan trọng trong việc
đào tạo đức tin và củng cố đời sống các tín hữu.
2.
BÀI ĐỌC II (Gl 4,4-7):
Bài đọc II ngầm so sánh hai
người “đàn bà” nổi tiếng trong Kinh Thánh nhưng lại thuộc hai thái cực khác
nhau: một người thuộc thời Cựu Ước là căn nguyên của sự chết; một người thuộc
thời Tân Ước là đấng sinh ra Đức Giêsu-Nguồn sự sống.
Thật vậy, nếu Eva là người đàn
bà đã đem tội lỗi vào thế gian, thì Đức Maria-Eva mới, đã đem Đức Giêsu, Đấng
là nguồn ân sủng, đến trong thế gian. Nếu Eva làm cho nhân loại phải nô lệ tội
lỗi và vì có tội nên có Lề Luật, do đó cũng làm cho nhân loại bị giam hãm trong
Lề Luật (x. Gl 4,23), thì Đức Maria sinh ra Đấng làm cho nhân loại được tự do
khỏi nô lệ của tội lỗi và khỏi sự giam hãm của Lề Luật. Nếu Eva làm cho nhân
loại mất quyền làm con cái Thiên Chúa, thì Đức Maria sinh ra Đấng đem lại cho
nhân loại phúc làm nghĩa tử của Thiên Chúa.
Quả thật, khi đến thời viên
mãn, qua Đức Maria, Thiên Chúa đã sai Con Mình tới để giải thoát con người khỏi
mọi ánh nô lệ của Lề Luật và tội lỗi, đồng thời cho con người nhận lại ơn làm
nghĩa tử, làm người thừa kế gia nghiệp Nước Trời. Như thế, Đức Maria cộng tác
cách đắc lực vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
3. BÀI
TIN MỪNG (Lc 1,26-38):
Bài Tin Mừng thuật lại biến cố
truyền tin cho Đức Maria. Sứ thần Gábrien, có nghĩa là sức mạnh của Thiên Chúa,
đã đến loan tin vui cho Đức Maria với lời chào: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân
sủng”. “Mừng vui lên” vì được Thiên Chúa viếng thăm. “Đấng đầy ân sủng” vì có
Thiên Chúa ở cùng qua việc được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa. Đây cũng là ân
sủng cao quý nhất và là nguồn gốc của mọi ân sủng khác mà Đức Maria nhận được.
Thật vậy, vì được phúc làm Mẹ Thiên Chúa nên Đức Maria được tiên liệu cho hưởng
đặc ân vô nhiễm nguyên tội; vì được phúc làm Mẹ Thiên Chúa nên ngài được ơn
trọn đời đồng trinh; và vì được phúc làm Mẹ Thiên Chúa nên ngài được hưởng
trước hoa trái ơn cứu độ mà Đức Giêsu, Con lòng Mẹ, mang lại, đó là được hồn
xác lên Trời.
Trước ân sủng lớn lao của
Thiên Chúa dành cho mình qua lời truyền tin của sứ thần, Đức Maria đã phản ứng
rất tự nhiên: bày tỏ sự lo sợ qua tâm trạng “rất bối rối” và diễn tả việc suy
nghĩ cân nhắc qua hành vi “tự hỏi” về sứ điệp mà sứ thần vừa loan báo cho mình.
Tuy nhiên, đó không phải là sự hoài nghi như trong trường hợp của ông Dacaria
khi nghe sứ thần truyền tin (Lc 1,12.18) mà là biểu hiện của một đức tin trưởng
thành trước sứ mạng Thiên Chúa trao cho mình. Vì vậy, khi đã nhận biết Thánh ý
của Thiên Chúa trên cuộc đời và ơn gọi của ngài, Đức Maria đã hoàn toàn tuân
theo: “Vâng- Fiat, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như
lời sứ thần nói”. Như thế, Đức Maria là thầy dạy chúng ta về đời sống Kitô hữu
qua ba thái độ cụ thể: tin tưởng vào Thiên Chúa, phó thác cho Thiên Chúa, và
vâng theo kế hoạch của Người.
Biến cố truyền tin cho Đức
Maria trong bài Tin Mừng hôm nay là mầu nhiệm thứ nhất trong năm sự vui của
chuỗi Mân Côi. Đồng thời, lời chào của Sứ thần Gábrien trong biến cố này làm
nên nội dung phần đầu của Lời Kinh Mân Côi “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức
Chúa Trời ở cùng Bà…” Do đó, Kinh Mân Côi diễn tả cách tuyệt vời mầu nhiệm Con
Thiên Chúa nhập thể và vai trò cộng tác của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu độ
của Thiên Chúa.
Đối với người Kitô hữu, khi
suy gẫm Kinh Mân Côi với bốn mầu nhiệm Vui-Thương-Mừng-Sáng, chúng ta đang cùng
với Đức Maria tham dự vào cuộc đời của Chúa Giêsu và cộng tác vào chương trình
cứu độ của Thiên Chúa Cha. Đồng thời, Kinh Mân Côi giúp chúng ta kết nối với
Đức Maria và qua Đức Maria, kết nối với Đức Giêsu và mọi người Kitô hữu khác để
làm nên một gia đình duy nhất: gia đình con cái Thiên Chúa.
II.
GỢI Ý MỤC VỤ
1. Tất cả các ông đều đồng
tâm nhất trí và chuyên cần cầu nguyện… với Mẹ Maria. Đó là hai đặc tính
căn bản của đời sống cộng đoàn Kitô hữu. Chỉ khi thực hiện như thế, các môn đệ
mới có thể liên kết với nhau như các chi thể trong một thân thể huyền nhiệm là
Đức Giêsu Kitô Phục sinh và có thể lãnh nhận Chúa Thánh Thần để dám ra đi loan
báo Tin Mừng. Nhóm, cộng đoàn giáo xứ, cộng đoàn tu trì của chúng ta có thực sự
là môi trường để sống hiệp nhất và là trường dạy cầu nguyện hay không? Chúng ta
có biết quy tụ bên Đức Maria và lấy ngài làm gương mẫu cho việc đào tạo đức tin
và củng cố đời sống đạo hay chưa?
2. Khi thời gian tới hồi
viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con của một người đàn bà, để
cứu độ và làm cho mọi người trở thành con Thiên Chúa. Chương trình cứu độ của
Thiên Chúa diễn tiến trong lịch sử và từng bước đúng thời đúng buổi của nó. Tuy
nhiên, chương trình ấy có được thực hiện đúng thời đúng buổi hay không cũng cần
sự cộng tác của con người. Nếu Eva cũ đã khước từ ân sủng của Thiên Chúa qua
việc bất tuân lệnh truyền của Người, làm cho con người mất phúc làm con cái
Thiên Chúa và phải chết, thì Đức Maria, Eva mới, nhờ thái độ vâng phục, đã sinh
hạ Đấng Cứu thế đem lại cho con người quyền làm nghĩa tử và được sống muôn đời.
Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta là ai: đang là “Eva cũ” cản
trở chương trình của Thiên Chúa hay là “Eva mới” cộng tác vào chương trình của
Thiên Chúa?
3. Vâng, xin Người thực
hiện cho tôi như lời sứ thần nói. Đức Maria là thầy dạy chúng ta về đời sống
Kitô hữu qua ba thái độ cụ thể: tin tưởng vào, phó thác cho, và vâng theo kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Quả thật, thái độ của Đức Maria cho thấy đời sống
Kitô hữu được xây dựng trên nền tảng đức tin. Tin dẫn đến việc phó thác đời
mình vào tay Thiên Chúa. Tin thúc đẩy tìm kiếm và vâng theo Thánh ý Thiên Chúa.
Dầu vậy, đức tin của Đức Maria là một đức tin trưởng thành, có cân nhắc qua
nhưng lý lẽ của lý trí và cảm xúc của con tim, nhưng không thể là một thái độ
nửa vời mà cần có một chọn lựa dứt khoát qua tiếng “xin vâng” để đưa tới một
dấn thân trọn vẹn cho Thánh ý Thiên Chúa. Khi soi vào tấm gương Đức Maria,
chúng ta thấy mình đã thể hiện đời sống đạo như thế nào: có hết lòng tin tưởng
vào Thiên Chúa, phó thác cho Thiên Chúa, tìm kiếm và vâng theo kế hoạch của
Người trên cuộc đời mình hay không?
4. Kinh Mân Côi đóng vai trò quan
trọng nơi đời sống của Kitô hữu. Trong lịch sử Giáo Hội, lúc đầu chính Thánh Đa
Minh đã phổ biến Kinh Mân Côi vào thế kỷ XIII để chống lại bè rối Albigeois ở
miền Nam nước Pháp. Kế đến, sau khi chiến thắng Hồi giáo nhờ sức mạnh của Kinh
Mân Côi, ĐGH Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi vào năm 1573, vì thấy
Kinh Mân Côi có vai trò quan trọng trong đời sống Kitô hữu. Điều đó vẫn còn
thiết thực đối với đời sống Kitô hữu hiện nay, như Chân Phước Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã viết trong Tông Thư Kinh Mân Côi: “Khi suy ngẫm về Kinh Mân Côi,
chúng ta bước vào trường học của Đức Maria để Mẹ dạy chúng ta về Chúa Giêsu”.
Ðức Bênêđíctô XVI, trong bài giảng tại buổi yết kiến chung thứ Tư ngày
03/02/2010, cũng khẳng định: “Kinh Mân Côi là một trường học thật sự của đức
tin và lòng đạo đức”; và trong một lần khác, ngài đã nói: “Kinh Mân Côi cần
thiết hơn bao giờ hết, vì không những dâng lên Mẹ để nhờ Mẹ làm đẹp lòng Thiên
Chúa ban mọi ơn cho chúng ta, mà Kinh Mân Côi còn mang một dấu hiệu lời kinh
chung gia đình”. Còn Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong bài giảng Lễ Đức Mẹ Lên Trời
năm nay ở Castelgandolfo đã nói: “Cầu nguyện với Mẹ Maria, đặc biệt, lần chuỗi
mân côi, cũng có một ý nghĩa ‘đấu tranh’, nghĩa là cầu nguyện ủng hộ trận chiến
chống ác thần và chống những kẻ đồng lõa với nó”. Kinh Mân Côi quan trọng là
vậy, nhưng chúng ta có siêng năng lần Chuỗi Mân Côi, qua đó suy gẫm về các mầu
nhiệm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhất là mầu nhiệm Nhập Thể hay
không? Con người thời đại chúng ta đang có khuynh hướng chia rẽ và cảm thấy cô
đơn. Chúng ta có ý thức rằng Chuỗi Mân Côi là lời kinh mang tính kết nối: qua
Mẹ đến với Chúa liên đới mọi người với nhau, khi đọc Kinh Mân Côi chung trong
gia đình, thôn xóm, trong cộng đoàn giáo xứ hoặc dòng tu hay không?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến!
Thiên Chúa đã tuyển chọn Ðức Maria với vai trò đặc biệt trong chương trình cứu
chuộc loài người. Trong ngày mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng
chung lời ngợi khen Thiên Chúa và hiệp với Mẹ tha thiết khẩn cầu:
1. “Các Tông đồ luôn đồng tâm
nhất trí và chuyên cần cầu nguyện cùng với Đức Maria.” Chúng ta cùng cầu nguyện
cho mọi thành phần Hội Thánh luôn liên kết với nhau trong một Giáo hội duy
nhất, biết lấy Đức Maria làm gương mẫu cho việc nuôi dưỡng đức tin và gia tăng
đời sống chứng tá.
2. “Anh em không còn phải
là nô lệ nữa, nhưng là con.” Chúng ta cùng cầu xin cho mọi dân tộc trên thế
giới biết tin nhận Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ trần
gian; để trong Người, tất cả được giải thoát khỏi tội lỗi, nhận lại ơn làm
nghĩa tử, và là người thừa kế gia nghiệp Nước Trời.
3. “Kinh Mân Côi là một trường
học thật sự của đức tin và lòng đạo đức.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi Kitô
hữu luôn ý thức giá trị của kinh mân côi, và siêng năng lần chuỗi như một
phương thế để tái khám phá đức tin và đào sâu các mầu nhiệm cuộc đời của Đấng
cứu độ trần gian.
4. Đức Maria thưa: “Vâng,
xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho
mọi người trong cộng đoàn chúng ta, biết noi gương Đức Maria, luôn vững lòng
tin cậy nơi quyền năng của Thiên Chúa, biết sống tín thác và trở nên khí cụ cho
dự án yêu thương của Người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã muốn Con Một
Chúa mặc lấy xác phàm trong cung lòng Trinh Nữ Maria. Xin nhận lời chúng con
cầu nguyện và giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn trung thành gắn bó với Đức
Kitô, Con Chúa. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
SCĐ CHÚA NHỰT XXVII TN C
Chủ đề :
Đức tin và Phục vụ
"Hãy bật rễ đi" (Lc 17,6)
Sợi chỉ đỏ :
Các
bài đọc hôm nay đều nói về Đức tin, mỗi bài đề cập đến đức tin dưới một khía
cạnh :
-
Bài đọc I : Tin là kiên nhẫn chờ đợi chương trình của Thiên Chúa được thực
hiện.
-
Tin Mừng : Đức tin là nguồn sức mạnh giúp ta làm được những việc phi
thường.
-
Bài đọc II : Tin là dựa vào sức mạnh của Chúa để hoàn thành sứ mạng Ngài
giao.
Ngoài
ra, phần thứ hai của bài Tin Mừng cũng đề cập đến thái độ phục vụ khiêm tốn như
một người đầy tớ.
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Chúng
ta vẫn nói rằng mình là tín hữu, nghĩa là người có đức tin. Nhưng thực ra đức
tin của chúng ta còn rất yếu, và chúng ta chưa thực sự sống đức tin của mình.
Trong
Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy thưa với Chúa như các tông đồ xưa "Thưa
Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con".
II. Gợi ý sám hối
-
Chúng ta giao động không muốn tin nữa khi gặp phải những khó khăn trong đời
sống.
-
Chúng ta chưa thể hiện đức tin mình ra bằng một cách sống siêu nhiên phó thác
nơi Chúa quan phòng.
-
Chúng ta không khiêm tốn phục vụ mọi người như một người tôi tớ.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kb 1,2-3 ; 2,2-4)
Ngôn
sứ Kha-ba-cúc than thở với Chúa về những cảnh bất công cứ tồn tại và những
người ác cứ nhởn nhơ. Đáp lại, Thiên Chúa bảo ông hãy giữ vững lòng tin và đừng
nản lòng, vì khi đến thời của Ngài, Ngài sẽ ra tay tái lập sự công chính.
2. Đáp ca (Tv 94)
Tiếp
nối tư tưởng của đoạn sách trên, Thánh vịnh 94 kêu gọi đừng khép kín cõi lòng,
nhưng hãy biết lắng nghe tiếng Chúa để biết được ý định của Ngài trong những
lúc gian truân thử thách.
3. Tin Mừng (Lc 17,5-10)
Đoạn
Tin Mừng này gồm 2 giáo huấn của Chúa Giêsu : a/ Về sức mạnh của Đức
tin ; b/ Về việc phục vụ cách khiêm tốn.
a.
Đức tin : Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin
của mình. Nếu có lòng tin thì sẽ làm được nhiều điều phi thường.
b.
Phục vụ : Chúa Giêsu dạy muốn phục vụ, trước hết hãy khiêm tốn, khiêm tốn
đến mức tự coi mình là đầy tớ. Khi ta đã tự coi mình là đầy tớ rồi thì ta sẽ
không ngại phục vụ người khác, hơn nữa ta sẽ coi tất cả những gì ta làm cho
người khác ta đều là bổn phận.
4. Bài đọc II (2 Tm 1,6-8.13-14)
Thánh
Phaolô kêu gọi Timôtêô đừng ngả lòng trước những khó khăn mục vụ, trái lại hãy
củng cố đức tin bằng cách khơi dậy đặc sủng của Thánh Thần mà Timôtêô đã nhận
được khi được đặt tay trao sứ mạng, và hãy dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa để
tiếp tục nhiệm vụ mình.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Đức tin - phục vụ
Trong
đoạn Tin Mừng hôm nay, Thánh Luca ghi lại 2 điều Chúa Giêsu căn dặn những kẻ
muốn làm môn đệ Ngài.
a.
Điều thứ nhất là về đức tin : Câu chuyện khởi đầu với lời xin của các tông
đồ "Xin Thầy thêm đức tin cho chúng con". Ta hãy chú ý họ là các tông
đồ chứ không phải chỉ là môn đệ thường. Họ đã từng sống với Chúa Giêsu một thời
gian dài, nghe biết bao điều Ngài giảng dạy, thấy biết bao điều Ngài làm. Họ là
thành phần ưu tú được chọn riêng ra trong số 72 môn đệ. Thế mà họ vẫn cảm thấy
mình thiếu đức tin.
Các
tông đồ mà còn cảm thấy thiếu đức tin, thì huống chi chúng ta ! Nhiều khi
chúng ta quỳ chầu trước Thánh Thể mà hình như không tin có Chúa đang ngự trong
Nhà tạm. Nhiều khi chúng ta rước lễ mà hình như không tin có Chúa đang thực sự
ở trong lòng ta. Và nhiều khi đứng trước một hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hình
như không tin lời Chúa dạy "Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian". Mặc
dù chúng ta đã học giáo lý nhiều, đã đọc Thánh Kinh nhiều, nhưng tại sao chúng
ta không vững đức tin ? Như thế đủ biết Đức tin không phải là kết quả của
học hỏi, của kiến thức. Đức tin chính là một ơn ban. Tại sao rất nhiều bậc
thông thái không có đức tin, còn chúng ta không thông thái gì, thế mà có đức
tin. Rõ ràng vì Chúa thương chúng ta nên ban đức tin cho chúng ta. Và chính vì
đức tin là một ơn ban, cho nên chúng ta phải xin như các tông đồ ngày
xưa : "Lạy Thầy, xin ban thêm đức tin cho chúng con".
Đức
tin không phải là kết quả của học hỏi và của kiến thức. Ngược lại nhiều khi
càng học biết nhiều thì càng khó mà tin. Tại sao thế ? Thưa tại vì trong
đức tin luôn có một phần mờ tối, khi ta tin thì luôn có một phần mạo hiểm. Nếu
tất cả đều sáng tỏ hết rồi ta mới tin thì đấy không phải là đức tin. Nếu tất cả
đều chắc chắn rồi ta mới dấn thân thỉ đấy cũng không phải là một hành vi đức
tin. Đức tin luôn có phần mờ tối, tin luôn đòi ta mạo hiểm dấn thân. Nhưng nói
thế không phải là chúng ta tin cách mù quáng, trái lại chính vì chúng ta yêu.
Xin lấy một thí dụ trong đời thường : ở một vùng kinh tế mới nọ, có một
thanh niên và một thiếu nữ quen nhau. Mỗi người họ đến từ một miền khác nhau.
Quen nhau một thời gian rồi họ yêu nhau. Và một hôm người thanh niên ngõ lời
xin cưới cô gái. Cô gái ưng thuận ngay. Người thanh niên mới hỏi : Em
không biết gốc gác của anh, không biết gia đình anh, em không sợ bị anh gạt hay
sao mà dám giao phó cuộc đời cho anh ? Cô gái đáp : không. Anh chàng
hỏi thêm : Tại sao ? Và cô gái trả lời rất gọn : vì em yêu anh.
Người
con gái ấy vì yêu nên đã tin người thanh niên nọ. Chúng ta cũng thế, nếu chúng
ta yêu Chúa thì chúng ta mới tin Chúa được, yêu càng nhiều thì tin càng mạnh.
Cho nên ngoài việc xin Chúa ban thêm đức tin, chúng ta cũng cần xin Chúa ban
thêm lòng yêu mến cho chúng ta.
b.
Điều thứ hai Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là : người môn đệ Chúa
phải biết phục vụ, và phục vụ cách vô vụ lợi. Giống như một người đầy tớ, sau
khi đã đi cày, sau khi đã chăn chiên rồi về nhà còn phải dọn cơm cho chủ, đứng
đó hầu hạ chủ, rồi dọn dẹp. Xong xuôi hết thì nói "Tôi chỉ là đầy tớ vô
dụng". Nhiều chuyên viên Thánh Kinh nói rằng dịch chữ vô dụng không được
đúng lắm. Ý nghĩa của nó là "Tôi chỉ là một người đầy tớ mà thôi, không
hơn không kém". Người đầy tớ thì đương nhiên phải phục vụ, phục vụ là bổn
phận của người đầy tớ. Cho nên dù có phục vụ nhiều thì cũng không có gì là công
lao để đòi chủ biết ơn.
Khi
Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy tớ để làm bài học cho các môn đệ, Ngài muốn
nhắc chúng ta rằng làm môn đệ, làm tông đồ chính là làm đầy tớ. Bởi thế Đức
giáo Hoàng xưng mình là "Đầy tớ của các đầy tớ".
Có
một điểm rất sâu sắc về từ ngữ : trong Thánh Kinh, chữ "phục vụ"
vừa chỉ việc làm của một người đầy tớ đối với chủ, vừa chỉ việc làm của người
tín hữu phụng thờ Chúa. Tế lễ là phục vụ Chúa. Như thế, khi chúng ta phục vụ
người ta thì cũng có nghĩa là chúng ta đang phụng thờ Chúa. Và nếu như suốt
ngày chúng ta lo phục vụ anh em thì điều đó có nghĩa trọn ngày hôm đó của chúng
ta là một Thánh lễ nối dài.
* 2. Chiếc bình trống rỗng
Một
thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên
cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một
người trong bọn họ nói : "Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn
ngoan như thầy". Người khác nói : "Đức tin của thầy ngang ngửa
với đức tin của tổ phụ Abraham". Người thứ ba nói : "Chắc chắn
sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp". Người thứ tư
châm vào : "Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy
mà thôi".
Vị
Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới
hỏi :
Ông
có nghe họ ca tụng ông không ?
-
Có.
-
Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như thế ?
Vị
Rabbi than phiền :
-
Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi ?
*
Mong
người ta ca ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn ! Cho dù
thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn
như ông Gióp và thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất
cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các
nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang
công trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.
Vì
khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các Tông
đồ : "Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy
nói : "Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc
bổn phận đấy thôi" (Lc 17,10). Thật vậy, chúng ta là những đầy tớ của
Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là đức Thánh Cha cũng
luôn luôn nhận mình là "đầy tớ của các đầy tớ Chúa". Đã là đầy tớ thì
phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng
không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận.
Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận "mến Chúa yêu
người", có ai đám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều
gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên
Chúa ban cho.
Kẻ
kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả
mình đã đạt được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát
cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường
xuyên của mỗi người chúng ta.
Người
khiêm tốn trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu
sót nên họ càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công
thì họ rất vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại
sao Chúa lại yêu thích những con người khiêm tốn như thế.
Nếu
đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé, là "đầy tớ vô dụng", thì cho dù
khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì
thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng
mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xoá mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng.
Chỉ có những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.
*
Lạy
Chúa, có một ân huệ nào chúng con đã nhận lãnh mà không phải do Chúa thương
ban, có một điều thiện nào chúng con thực hiện mà chẳng do Chúa tác thành.
Xin
tiếp tục đổ đầy vào tâm hồn nhỏ bé, yếu đuối và bất toàn của chúng con những
điều tốt lành mà Chúa đã khởi sự cho chúng con. Amen. (TP)
* 3. Phục vụ trong tình yêu
Nhiều
người xem Chúa như một ông chủ thuê người làm việc và con người là những người
được thuê ấy. Bởi thế, sau khi làm được một việc gì, họ nghĩ rằng Chúa phải ban
ơn cho họ, như một cách trả tiền công.
Suy
nghĩ trên hoàn toàn sai. Và rất may là suy nghĩ đó sai, bởi vì nếu Chúa thực sự
đối xử với ta như một ông chủ đối xử với người làm thì chắc chúng ta chẳng nhận
được bao nhiêu từ tay Ngài, bởi vì công lao của chúng ta chẳng có là bao.
Qua
bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta biết rằng tương quan của Thiên Chúa
đối với loài người chúng ta là tương quan ân sủng và tình yêu, bởi vì Thiên
Chúa là Cha và chúng ta là con. Con cái làm việc theo ý Cha đâu phải để được
Cha trả lương ; và Cha ban gì cho con đâu phải vì trả nợ.
Vả
lại Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và ban rất nhiều ơn cho chúng ta trước
khi chúng ta làm được việc gì xứng đáng với tình yêu của Ngài. Thánh Phaolô nói
rằng Thiên Chúa còn yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là những tội
nhân. Vì thế tất cả những gì chúng ta làm bây giờ chỉ là để đáp lại tình yêu
của Ngài.
Còn
nữa, chúng ta tuân giữ những điều răn của Chúa không phải để được Ngài
yêu thương, nhưng chúng ta tuân giữ các điều răn Chúa bởi vì Ngài
yêu thương chúng ta.
Toàn
bộ Tin Mừng của Chúa Giêsu có thể được diễn tả thế này : Chúa nhân từ kêu
gọi các môn đệ hãy phục vụ Ngài vì tình yêu chứ không phải vì bổn phận. Vì vậy,
chỉ đức tin thôi chưa đủ, còn phải có tình yêu nữa. Trong khi đức tin khiến cho
mọi sự trở thành có thể, thì tình yêu khiến cho mọi sự trở thành dễ dàng. (FM)
4. Chuyện minh họa
a/ Đức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một
bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để
sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi :
-
Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao ?
-
Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin
bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
b/ Tin người đáng tin
Một bà già đứng ở ngã tư có nhiều chuyến tàu đi qua. Vì ít khi ra ngoài, nên bà
chẳng biết tàu nào về đâu. Sợ đi lạc, bà giơ vé ra hỏi một người đứng kế
bên :
-
Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
-
Phải đó bà.
Nhưng
bà chưa an tâm. Biết đâu người ấy cũng không rành. Bà gặp người khác, cũng
hỏi :
-
Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
-
Phải đó bà.
Nhưng
bà vẫn chưa hết áy náy. Rồi bà gặp một người đeo phù hiệu nhân viên hoả xa, bà
hỏi :
-
Tôi định đi Bay City, có phải đi tàu này không ?
-
Phải, thưa bà.
Thế
là bà an tâm bước lên tàu. Bà đã tin người đáng tin. Đức tin là thế !
c/ Phục vụ là hạnh phúc
Tại
văn phòng của một Cố vấn Tâm lý, một thiếu phụ vừa trẻ vừa giàu giải bày tâm
sự : "Bất cứ thứ gì tôi muốn thì chồng tôi đều cho cả. Tôi có đủ mọi
"sự" nhưng trong lòng trống vắng vô cùng. Xin bà hãy cho tôi một lời
khuyên". Nhà Cố vấn tâm lý không trả lời, nhưng bảo cô thư ký của bà kể
chuyện đời cô. Cô này kể : chồng tôi đã chết, cách nay 3 tháng con tôi cũng
chết vì xe đụng. Tôi cảm thấy mất tất cả, tôi không ngủ được, tôi không muốn ăn
uống, tôi không bao giờ cười. Một hôm tôi đi làm về hơi khuya. Có một chú mèo
con cứ đi theo sau tôi. Trời lạnh. Tôi cũng tội nghiệp nó, nên tôi mở cửa cho
nó vào nhà. Tôi pha cho nó một ly sữa. Nó kêu meo meo và cọ mình vào chân tôi.
Lần đầu tiên tôi cười. Rồi tôi nghĩ : nếu việc giúp cho một chú mèo con có
thể làm tôi cười, thì việc giúp cho người nào đó chắc có thể làm tôi hạnh phúc.
Thế là hôm sau tôi nướng vài ổ bánh đem cho bà cụ hàng xóm đang bệnh. Mỗi ngày
tôi cố làm vài việc gì đó cho những người tôi gặp được vui vẻ. Và quả thực tôi
đã thấy hạnh phúc. Tôi nghiệm ra được điều này là ta sẽ không hạnh phúc khi ta
chỉ chờ người khác đem lại hạnh phúc cho mình ; ngược lại ta sẽ hạnh phúc thật
khi ta làm cho người khác hạnh phúc". Nghe đến đó, người thiếu phụ trẻ bật
khóc. Cô đã có bất cứ thứ gì đồng tiền có thể mua được nhưng cô đã đánh mất
những thứ mà đồng tiền không mua nổi. Và cô quyết định noi gương cô thư ký nọ.
(Charlene Johnson).
5. Mảnh suy tư
Đức
tin làm cho cuộc đời có ý nghĩa : vì một cuộc đời không có niềm tin cũng
giống như một đêm tối không ánh sao.
Đức
tin ban cho cuộc đời tinh thần hăng hái và niềm hy vọng : vì chúng ta cần
hy vọng cũng như cuộc sống cần lương thực. Nhưng muốn hy vọng thì phải có đức
tin, và đức tin sẽ mang đến niềm vui.
Nhưng
chúng ta đừng mong rằng đức tin sẽ soi tỏ hết mọi vấn đề, bởi vì đức tin là
trông cậy chứ không phải là sự hiển nhiên chắc chắn.
Đức
tin không phải là một sự vật mà là một mối tương quan, tương quan với Chúa.
Người
ta không nhận được đức tin trọn vẹn trong ngày rửa tội, nhưng phải nuôi lớn đức
tin hằng ngày.
Đức
tin lớn dần lên qua việc tập sống đức tin.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế : Anh chị em thân mến, đức tin là
món quà vô giá Chúa ban tặng cho mỗi người chúng ta. Với tâm tình cảm tạ tri ân
Thiên Chúa là Tình yêu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :
1. Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của toàn
thể dân thánh Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần săn sóc giữ gìn
người / để nhờ người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắt son.
2. Tin là gắn bó với Chúa / là dấn thân theo
Người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / nhất là các Kitô
hữu trẻ / dám xả thân vì Chúa và vì anh em / hầu mang sứ điệp yêu
thương đến cho biết bao người chưa nhận biết Chúa.
3. Ngày nay / một số thanh niên đánh mất niềm tin
của mình vì vốn liếng giáo lý còn quá ít / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho
các tín hữu biết tận dụng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý
của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng trưởng thành và vững chắc hơn.
4. Tin còn là vâng theo thánh ý Chúa / Chúng ta
hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết noi gương Đức
Mẹ / vâng theo thánh ý Chúa trong đời sống đức tin thường ngày.
Chủ tế : Lạy Chúa, Chúa dạy chúng con
phải luôn tin tưởng vào Chúa giữa muôn vàn thử thách của cuộc đời, nhưng do bản
tính yếu đuối, chúng con dễ buồn chán và thất vọng khi gặp khó khăn. Vậy xin
Chúa ban thêm lòng tin cho chúng con. Chúng con cầu xin :
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước
kinh Lạy Cha : Chúng ta không phải là đầy tớ của Chúa, mà là con của
Ngài. Vậy chúng ta hãy hân hoan trìu mến cùng dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Trong
Thánh lễ hôm nay, Chúa đã nhắc chúng ta rằng Ngài là Cha của chúng ta và tha
nhân là anh em của chúng ta. Vậy trong tuần này chúng ta hãy sống với Thiên
Chúa trong tin yêu như con cái đối với Cha, và hãy phục vụ tha nhân như anh em
phục vụ nhau.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina: Chúa Nhật XXVII Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 2
Tháng 10, 2016
Chúa ban thêm
đức tin cho chúng ta,
để đời sống
chúng ta có thể tự nguyện phục vụ Thiên Chúa và tha nhân
Lc 17:5 –10
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu,
xin hãy sai Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình
mà Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau. Trong ánh sáng của Lời
Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các môn đệ khám phá ra được sự
hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản án và cái chết của
Chúa. Vì thế, cây thập giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng,
đã trở nên nguồn mạch của sự sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo
trong chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự
Tác Tạo và trong Kinh Thánh, trong các sự kiện của đời sống hằng ngày và trong
những người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện
xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con để, giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con
cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục sinh của Chúa và làm chứng cho những người
khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa chúng con như nguồn mạch của tình anh
em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Bài Tin Mừng của
phần phụng vụ Chúa Nhật tuần này là một phần của một đoạn Phúc Âm tiêu biểu và
dài của Luca (Lc 9:51 đến 19:28), trong đó mô tả chuyến đi lên Giêrusalem chậm
chạp của Chúa Giêsu, nơi Người sẽ bị trở thành tội nhân, bị kết án và chịu chết.
Một phần lớn của đoạn Tin Mừng này là để hướng dẫn cho các môn đệ. Bài
Tin Mừng của chúng ta là một phần của lời hướng dẫn ấy. Chúa Giêsu chỉ dạy
cho các ông cách sống trong cộng đoàn (Lc 17:1).
b) Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho
bài đọc:
Lc 17:5:
Các tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin cho các ông
Lc 17:6:
Sống với người có lòng tin lớn bằng hạt cải
Lc
17:7-9: Sống với đời sống của người tự nguyện phục vụ Thiên Chúa và tha
nhân
Lc 17:10:
Áp dụng sự so sánh với người đầy tớ vô dụng
c) Phúc Âm:
5 Khi ấy, các tông đồ thưa với Chúa Giêsu
rằng: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con.” 6 Chúa
liền phán rằng: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con
khiến cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển,’ nó liền
vâng lời các con. 7 Ai trong các con có người đầy tớ
cày bừa hay chăm sóc súc vật ngoài đồng trở về, liền bảo nó rằng: ‘Mau
lên, hãy vào bàn dùng bữa’, 8 mà trái lại không bảo nó rằng:
‘Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống
đã, sau đó ngươi mới ăn uống.’ 9 Chớ thì chủ nhà có
phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy
nghĩ rằng: ‘Không’. 10Phần các con cũng vậy, khi các con
làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: ‘Chúng
tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm.’”
3. Giây phút cầu nguyện trong thinh lặng
Để Lời Chúa có
thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
Để giúp chúng
ta trong việc suy gẫm cá nhân.
a) Phần nào của bài Phúc Âm
này tôi thích nhất hoặc điều gì đã đánh động tôi nhất?
b) Tin vào ai đây? Tin
vào Thiên Chúa? Tin vào người khác? Hay tin vào chính mình?
c) Đức tin lớn chỉ bằng hạt cải:
có phải đức tin của tôi là như thế không?
d) Hiến dâng đời sống của một
người cho việc phục vụ mà không mong đáp trả: tôi có khả năng sống đời sống
như thế chăng?
5. Chìa khóa dẫn đến bài Tin Mừng
Dành cho những
ai muốn đào sâu vào chủ đề
a) Bối cảnh lịch sử của đoạn Phúc Âm:
Bối cảnh lịch sử
của Phúc Âm viết bởi Luca luôn có hai chiều: vào thời Chúa Giêsu của thập
niên 30, khi những điều được mô tả trong văn bản đã xảy ra, và vào thời điểm của
các cộng đoàn là những người mà sách Tin Mừng của thánh Luca chú tâm tới, hơn
năm mươi năm sau khi sự việc đã xảy ra. Khi Luca tường trình những lời và
các cử chỉ của Chúa Giêsu, ông không chỉ nghĩ đến những việc đã xảy ra vào thập
niên 30, mà đúng hơn là đời sống của các cộng đoàn của những năm thuộc thập
niên 80 với tất cả các vấn nạn và mối quan tâm của họ, và ông đã cố gắng cung cấp
cho họ một số ánh sáng và các giải pháp khả thi (Lc 1:1-4).
b) Chìa khóa dẫn đến Phúc Âm: Bối cảnh
văn học:
Bối cảnh văn học
(Lc 17:1-21) trong đó có đoạn Tin Mừng của chúng ta (Lc 17:5-10) giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về những Lời của Chúa Giêsu. Trong đoạn Tin Mừng này, thánh
Luca tập hợp những Lời của Chúa Giêsu dùng để giảng dạy cách người ta phải sống
như thế nào trong cộng đoàn. Thứ nhất (Lc 17:1-2), Chúa
Giêsu lôi cuốn sự chú ý của các môn đệ đến những người nhỏ bé, đó
là những người bị gạt ra ngoài lề xã hội. Các cộng đoàn phải ghi nhớ kỹ
điều này. Thứ hai (Lc 17:3-4), Chúa tạo sự chú ý đến những
thành viên yếu kém của cộng đoàn. Về vấn đề của họ, Chúa Giêsu muốn các
môn đệ phải có trách nhiệm đối với họ và có một thái độ hiểu biết và hòa giải với
họ. Thứ ba (Lc 17:5-6) (và ở đây bắt đầu đoạn Tin Mừng của
chúng ta), Chúa Giêsu nói về đức tin vào Thiên Chúa phải là động lực đời sống của
các cộng đoàn. Thứ tư (c 17:7-10), Chúa Giêsu bảo các
môn đệ phải phục vụ tha nhân với lòng xả kỷ và vị tha tối đa, tự nhận mình là
các tôi tớ vô dụng. Thứ năm (Lc 17:20-21), Chúa Giêsu dạy
các ông cách làm thế nào để nhận sự phục vụ của người khác. Họ phải tỏ
lòng biết ơn. Thứ sáu (Lc 17:20-21), Chúa Giêsu dạy các
ông phải nhìn vào thực tế chung quanh mình. Người bảo các ông không nên
chạy theo các lời truyền giáo giả dối của những kẻ loan báo rằng Nước Thiên
Chúa, khi xuất hiện, sẽ được chứng kiến bởi tất cả mọi người. Chúa Giêsu
lại dạy khác. Nước Trời sắp đến, không như vương quốc của các kẻ cai trị ở
thế gian, sẽ không trông thấy được. Đối với Chúa Giêsu, Vương Quốc Nước
Trời đã đến rồi! Nó đang ở giữa chúng ta, độc lập với những nỗ lực và
thành tích của chúng ta. Đó là thuần khiết ân sủng! Và chỉ có đức
tin mới có thể lãnh hội được.
c) Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:
Lc
17:5: Các tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin cho các ông
Các môn đệ nhận
thức rằng không phải dễ dàng gì để có được những phẩm chất mà Chúa Giêsu vừa mới
đòi hỏi nơi họ: chăm sóc cho những người bé mọn (Lc 17:1-2) và hòa đồng với
những anh chị em cô thế trong cộng đoàn (Lc 17:3-4). Và với nhiều đức
tin! Không chỉ là niềm tin vào Thiên Chúa, mà cũng còn là lòng tin vào khả
năng mua chuộc lại anh chị em. Đó là lý do tại sao các ông đến và thưa với
Chúa Giêsu: “Xin Thầy ban thêm đức tin cho chúng con!”
Lc
17:6: Sống với người có lòng tin lớn bằng hạt cải
Chúa Giêsu trả
lời: “Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu
này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển,’ nó liền vâng lời các
con”. Câu nói này của Chúa Giêsu đặt ra hai câu hỏi: (1) Có phải
Chúa đang nói bóng gió rằng các thánh tông đồ không có đức tin lớn bằng hạt cải
không? Sự so sánh của Chúa Giêsu thật là mạnh mẽ và bóng gió xa
xôi. Hạt cải thì rất bé, nhỏ bé như sự tầm thường của các môn đệ.
Nhưng với đức tin, các ông có thể trở nên mạnh mẽ, mạnh hơn núi rừng hoặc biển
cả! Nếu là thời bây giờ, có lẽ Chúa Giêsu sẽ nói: “Nếu các con có
lòng tin bằng hạt nguyên tử, thì các con có thể san bằng ngọn núi này.”
Đó là, mặc dù có những khó khăn cố hữu, việc hòa giải giữa các anh chị em là việc
có thể làm được, bởi vì đức tin có thể làm cho những điều dường như không thể lại
trở thành sự thật. Nếu không có trục chính là đức tin, thì mối quan hệ sứt
mẻ không thể nào hàn gắn và cộng đoàn được Chúa Giêsu mong muốn không thể nào
thực hiện được. Đức tin của chúng ta phải mang chúng ta đến điểm mà chúng
ta có thể dời được ngọn núi của những thành kiến trong lòng chúng ta và vất nó
xuống biển. (2) Với câu nói này, Chúa Giêsu có đang đề cập tới đức
tin vào Thiên Chúa hoặc niềm tin vào khả năng đem lại những anh chị em yếu kém
nhất không? Có lẽ câu nói này đề cập đến cả hai. Khi tình yêu Thiên
Chúa được thể hiện cụ thể trong tình yêu tha nhân, cũng như đức tin vào Thiên
Chúa phải được thực hiện cụ thể trong niềm tin vào anh chị em, trong sự hòa giải
và tha thứ đến bảy mươi lần bảy! (Mt 18:22) Đức tin là sự điều khiển
từ xa của quyền năng Thiên Chúa, Đấng đã làm và mặc khải chính Người trong mối
tương quan loài người được phục hồi được sống trong cộng đoàn!
Lc
17:7-9: Chúa Giêsu đã chỉ cho biết chúng ta phải thực hành các bổn
phận của chúng ta đối với cộng đoàn như thế nào
Để dạy rằng
trong đời sống cộng đoàn tất cả mọi người đều phải chối bỏ và tách rời khỏi bản
thân mình, Chúa Giêsu đã dùng thí dụ của người đày tớ. Vào thời bấy giờ,
một người đày tớ không thể được hưởng một công trạng nào. Người chủ nhà,
khó khăn và đòi hỏi, chỉ muốn sự phục vụ của các đày tớ. Người đày tớ hiếm
khi được cảm ơn. Đối với Thiên Chúa, chúng ta giống như một người đày tớ
trước mặt ông chủ mình.
Nó có vẻ kỳ lạ
khi Chúa Giêsu phải dùng một ví dụ chói tai như thế trích ra từ một tổ chức xã
hội bất công thời bấy giờ, để mô tả mối quan hệ của chúng ta với cộng
đoàn. Người đã làm việc này vào một dịp khác khi Người so sánh cuộc sống
trên Nước Trời với một tên trộm. Điều quan trọng là mục đích của sự so
sánh này: Thiên Chúa đến như một kẻ trộm, không lời báo trước, vào lúc mà
chúng ta không ngờ nhất; giống như một người đày tớ trước mặt chủ mình vì vậy
chúng ta không thể và không nên kể công trước anh chị em chúng ta trong cộng
đoàn.
Lc
17:10: Áp dụng sự so sánh với người đầy tớ vô dụng
Chúa Giêsu áp dụng
ví dụ này vào đời sống trong cộng đoàn: như một người đày tớ trước mặt chủ
mình, do đó thái độ của chúng ta cũng phải tùy thuộc vào cộng đoàn: chúng
ta chẳng làm được những điều gì để đáng được thưởng công, tán thành, thăng thưởng
hay khen ngợi, nhưng chỉ để cho thấy rằng chúng ta thuộc về Thiên Chúa!
“Vì vậy, với bạn, khi bạn đã làm xong tất cả những việc bạn đã được bảo
phải làm, thì hãy nói: ‘Chúng tôi chỉ là những người đầy tớ; chúng tôi đã
làm điều chúng tôi phải làm’.” Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta không xứng đáng
bất cứ điều gì. Bất cứ những gì chúng ta nhận lãnh, chúng ta đã không xứng
đáng. Chúng ta đang sống nhờ vào tình yêu cho không của Thiên Chúa.
c) Phần tìm hiểu thêm về đức tin và sự phục
vụ:
i) Đức
tin vào Thiên Chúa được thể hiện cụ thể trong việc đem anh chị em trở lại
Sự kiện thứ
nhất: Trong
thời Đệ Nhị Thế Chiến ở Đức, chuyện xảy ra cho hai người Do-Thái, Samuel và
Gioan bị đẩy vào trại tập trung. Họ bị đối xử tàn nhẫn và thường bị hành
hạ. Gioan là người trẻ hơn, lấy làm bực dọc. Anh ta đã trút bỏ sự tức
giận của mình bằng cách nguyền rủa và dùng những lời lẽ thô tục đối với quân
nhân Đức Quốc Xã là những người đối cử tàn tệ và đánh đập họ. Samuel, là
người lớn tuổi hơn, tỏ ra bình tĩnh. Ngày kia, trong một lúc phân tâm,
Gioan nói với Samuel: “Làm cách nào mà anh có thể giữ được sự thản nhiên
khi anh bị đối xử tàn nhẫn như thế? Tại sao anh có được lòng can đảm lớn
lao như thế? Lẽ ra anh phải phản ứng và tỏ lòng bất mãn của anh đối với
chế độ vô lý này chứ!” Samuel đáp lại: “Giữ cho được bình
tĩnh thì khó hơn tỏ ra can đảm. Tôi không tìm kiếm sự can đảm, vì tôi sợ
rằng, do sự tức giận của tôi, anh ta có thể dập tắt tia lửa nhân đạo cuối cùng
đang tiềm ẩn trong người lính dã man này”.
Sự kiện thứ hai:
Trong thời gian đế quốc La-Mã chiếm đóng vùng Paléstin, Chúa Giêsu bị kết án tử
hình bởi Thượng Hội Đồng Do Thái. Chính vì đức tin của Người vào Chúa
Cha, Chúa Giêsu đón nhận tất cả mọi người như anh chị em, và khi làm như thế,
Người đã thách đố một cách mạnh mẽ cái hệ thống nhân danh Thiên Chúa, đã khiến
cho rất nhiều người chịu thiệt thòi. Bản án của Thượng Hội Đồng Do Thái
đã được duyệt xét bởi Đế quốc La-Mã và Chúa Giêsu đã bị dẫn đến đồi Canvê để chịu
chết. Các quân lính La-Mã đã thi hành bản án. Một người trong bọn họ
đã đâm thủng bàn tay Chúa Giêsu với những chiếc đinh. Phản ứng của Chúa
Giêsu là: “Lạy Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ đang
làm!” (Lc 23:34). Đức tin vào Thiên Chúa cho thấy tự nó đã có sự tha thứ
đối với những kẻ đang giết Chúa.
ii) Việc
phục vụ cho dân Chúa và cho tha nhân
Vào thời của
Chúa Giêsu, đã có một loạt các kỳ vọng khác nhau vào đấng cứu thế. Theo
nhiều lời giải thích từ các lời tiên tri, đã có người mong đợi một vị Vua
Cứu Thế (Lc 15:9-32), Đấng Thánh của Thiên Chúa (Mc
1:24), một Thiên Tướng (Lc 23:5; Mc15:6; 13:6-8), một Thày
Thuốc Cứu Tinh (Ga 4:25; Mc 1:22-27); một ĐấngPhán Xét Mêssia
(Lc 3:5-9; Mc 1:8); một vị Thiên Sai Tiên Tri (Mc 6:4;
14:65). Tất cả mọi người, theo lợi ích riêng của họ hoặc theo tầng lớp xã
hội, ngóng chờ Đấng Thiên Sai theo như ước nguyện và sự mong đợi của họ.
Dường như không một ai, ngoại trừ người cùng đinh, người nghèo
của Đấng Gia-Vê, đã mong đợi một Đấng Cứu Thế Tôi Trung, đã được
công bố bởi tiên tri Isaia (Is 42:1; 49:3; 52:13). Người nghèo khó thường
nhớ lại lời hứa đấng cứu tinh được xem như một sự phục vụ tặng cho nhân loại
qua dân của Chúa. Đức Maria, người nghèo khó của Thiên Chúa, đã nói với
thiên sứ: “Này tôi là tôi tá của Chúa!” Từ Đức
Maria, Chúa Giêsu đã học được cách phục vụ. “Con Người đến
không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10:45).
Hình ảnh của
Người Tôi Trung được mô tả trong bốn bài thánh ca của tiên tri Isaia (Is
42:1-9; 49:1-6; 50:4-9; 52:13 đến 53:12), đã không chỉ về một cá nhân riêng rẽ
nào, nhưng nói về dân tộc bị trị (Is 41:4-9; 42:18-20; 43:10; 44:1-2; 44:21;
45:4; 48:20; 54:17), được mô tả bởi tiên tri Isaia như là một dân tộc “bị đàn
áp, bị biến dạng, không còn hình thù của một con người và không điều kiện tối
thiểu của con người, một dân tộc bị khai thác, bị ngược đãi, không có tiếng
nói, không thanh nhã hoặc vẻ đẹp, đầy đau khổ, bị mọi người xa lánh như người
cùi hủi, bị lên án như một tội phạm, không được bênh vực hoặc bào chữa” (xem Is
53:2-8). Đây là hình ảnh trung thực của một phần ba nhân loại ngày
nay! Những người tôi tớ này “không than van, không gào thét, sẽ không để
ai nghe tiếng giữa phố phường, sẽ không đành bẻ gãy cây lau bị dập” (Is
42:2). Bị ngược đãi nhưng không bức hại; bị đàn áp nhưng sẽ không đàn áp;
bị giày xéo dưới chân nhưng sẽ không chà đạp những người khác. Những người
này sẽ không sa vào vực thẳm bạo lực của chế độ đã đàn áp. Thái độ chịu đựng
này của Đấng Tôi Trung Thiên Chúa là cội rễ của công lý mà Thiên Chúa mong muốn
được nhìn thấy lan tràn khắp thế gian. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa đòi
hỏi chúng ta trở nên tôi tớ của Người với sứ mạng đem công lý chiếu sáng rực rỡ
trên khắp thế giới (Is 42:2-6; 49:6).
Chúa Giêsu biết
các bài thánh ca này và trong việc thi hành sứ vụ của mình, Người đã để cho những
bài thánh ca này hướng dẫn Người. Vào lúc Người chịu phép rửa trên sông
Giođan, Đức Chúa Cha đã giao phó Người với sứ mệnh của người Tôi Trung (Mc
1:11). Lúc trong hội đường tại Nazarét, Người giải thích chương trình của
mình với các dân của Người, Đức Giêsu đã công khai nhận lãnh sứ mệnh này (Lc
4:16-21). Trong thái độ của sự phục vụ này, Chúa Giêsu mặc khải gương mặt
của Thiên Chúa, lôi cuốn chúng ta và chỉ cho chúng ta thấy con đường tìm về với
Thiên Chúa.
6. Cầu Nguyện: Thánh Vịnh 72 (71)
Hy vọng
cho tất cả mọi người rằng Đấng Cứu Thế sắp đến
Tâu Thượng Đế,
xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương,
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân!
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa Ít-ra-en,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
A-men. A-men.
trao công lý Ngài vào tay Thái Tử,
để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý,
và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Núi đem lại cảnh hoà bình trăm họ,
đồi rước về nền công lý vạn dân!
Người sẽ bảo toàn quyền lợi dân cùng khổ,
ra tay cứu độ kẻ khó nghèo,
đập tan lũ cường hào ác bá.
Nguyện chúc Người tuổi thọ sánh vầng ô,
như bóng nguyệt đến muôn đời muôn kiếp!
Mong Người xuống tựa mưa sa nội cỏ,
ơn vũ lộ thấm nhuần cả đất đai.
Triều đại Người, đua nở hoa công lý
và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn.
Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ,
từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.
Dân vùng sa mạc khúm núm quy hàng,
tất cả đối phương nhục nhằn cắn cỏ.
Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Người giải thoát bần dân kêu khổ
và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương,
chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo.
Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ,
giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn,
từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.
Tân Vương vạn vạn tuế!
Thiên hạ sẽ đem vàng Ả-rập tiến dâng lên,
và cầu xin cho Người luôn mãi,
ngày lại ngày chúc phúc cho Người.
Mong cho xứ sở đầy dư gạo thóc,
đỉnh non cao sóng lúa rì rào,
trổ bông vàng đẹp tựa núi Li-băng,
thâu lượm được nhiều như cỏ dại.
Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ,
nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời.
Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành,
và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.
Chúc tụng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa Ít-ra-en,
chỉ có Ngài làm nên những công trình kỳ diệu.
Muôn muôn đời xin chúc tụng danh Chúa hiển vinh,
ước gì vinh quang Chúa chiếu toả khắp hoàn cầu!
A-men. A-men.
7. Lời nguyện kết
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của
Chúa Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng các việc làm của chúng con và
ban cho chúng con sức mạnh để thực thi Lời Chúa đã mặc khải cho chúng
con. Nguyện xin cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu
Chúa, không những chỉ lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa. Chúa là Đấng hằng
sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến
muôn thuở muôn đời. Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét