13/11/2016
Chúa Nhật tuần 33 thường niên năm C
Kính trọng thể CÁC THÁNH TỬ ĐẠO TẠI VIỆT NAM.
(phần II)
Phụng vụ Lời Chúa: Chúa Nhật 33 TN-C, kính trọng thể các Thánh TĐVN
CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
2 Mcb 7, 1.20-23.27b-29; Rm 8, 31b-39;
Lc 9, 23-26
Lc 9, 23-26
-----------------
THIÊN CHÚA TRÊN HẾT
“Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”
(Lc 9,24)
còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”
(Lc 9,24)
I.
CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài
đọc I:
Sách Máccabê đánh dấu một giai
đoạn đầy khó khăn trong lịch sử của dân Chúa khi mà đền thờ và nền phụng tự bị
ngoại bang xâm phạm cách nặng nề. Đoạn sách Máccabê hôm nay là một thiên hùng
ca về những người Do Thái sẵn sàng chấp nhận đau khổ và cả cái chết để trung
thành với lề luật và tôn giáo của cha ông.
Trước hết, đối với người Do
Thái, tuân giữ lề luật cách đầy đủ và nghiêm ngặt là một cách chứng tỏ sự trung
thành, là thái độ tôn thờ Thiên Chúa cách thiết thực. Một người Do Thái được
xem là đạo đức và công chính khi giữ trọn “mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa”
(x. Lc 1,6). Đối với Đức Giêsu cũng vậy, đòi hỏi đầu tiên của người muốn có sự
sống đời đời làm gia nghiệp là hiểu biết và tuân giữ lề luật (x. Lc 10,25-28).
Câu chuyện về bà mẹ và bảy người con thà chấp nhận cái chết chứ không chịu vi
phạm lề luật là cao điểm của lòng trung tín của con người nơi Thiên Chúa.
Sau nữa, qua câu chuyện bà mẹ
khuyên nhủ, động viên những người con chấp nhận cái chết, chúng ta khám phá ra
lý lẽ của tác giả sách Máccabê. Sở dĩ bà mẹ và những người con sẵn sàng chấp nhận
cái chết là vì họ xác tín rằng sự sống của họ không do họ tự tạo ra mà là do
Thiên Chúa, Đấng ban cho họ “thần khí và sự sống”. Đồng thời, họ cũng tin rằng
một khi họ “trọng luật lệ của Người hơn bản thân mình” đến nỗi dám hy sinh sự
sống để bày tỏ lòng trung thành với Thiên Chúa họ thờ, thì chính Người sẽ trả
lại cho họ thần khí và sự sống (x. 2 Mcb 7,22-23).
Cuối cùng, qua câu chuyện bà
mẹ và bảy người con, tác giả sách Máccabê cho thấy thấp thoáng bóng dáng của
quan niệm phục sinh. Thật vậy, bà mẹ tin rằng nếu các con bà “chấp nhận cái
chết” vì trung thành với lề luật của Thiên Chúa, thì “đến ngày Chúa thương
xót”, chính Người sẽ trả các con về lại cho bà (x. 2 Mcb 7,29). Như thế, việc
người công chính chịu đau khổ đã dẫn tác giả đến chỗ xác tín vào niềm tin phục
sinh của kẻ chết. Việc thưởng phạt của Thiên Chúa không chỉ nằm ở đời này như
truyền thống quan niệm. Nó còn kéo dài sau cái chết. Do vậy, những người chịu
chết vì trung thành với lề luật sẽ được sống lại cả hồn lẫn xác.
Bà mẹ và bảy anh em (2 Mcb
7,1-41) đã tự nguyện chấp nhận khổ đau và cái chết để thể hiện lòng trung thành
tuyệt đối với Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Họ được coi như là hình bóng của các vị
tử đạo trong Kitô Giáo sau này.
2. Bài
đọc II:
Đoạn thư thánh Phaolô gởi cho
các tín hữu Rôma là một bài ca tuyệt vời về tình yêu của Thiên Chúa dành cho
nhân loại qua việc trao hiến Đức Giêsu, Con Một của Ngài.
Trước hết, việc Thiên Chúa
trao ban Đức Giêsu, Con Một của Ngài cho nhân loại là bằng chứng rõ ràng nhất
của tình yêu cao cả và vô điều kiện Ngài dành cho nhân loại. Thật vậy, một khi
trao hiến chính Con Một là kho tàng quý giá nhất của mình, Thiên Chúa muốn
chứng tỏ cho nhân loại thấy rằng Ngài đã cho con người tất cả mà không đòi hỏi
bất cứ điều kiện nào. Đồng thời, khi Thiên Chúa để cho Đức Giêsu chết cho tội
lỗi nhân loại, Ngài đã thật sự tha thứ cho mọi lỗi lầm của nhân loại.
Hơn nữa, thánh Phaolô còn xác
tín rằng một khi được Thiên Chúa yêu thương hết mực như thế, con người không
còn gì phải lo lắng hay sợ hãi nữa. Ai hay điều gì có thể tách nhân loại ra
khỏi tình yêu của Thiên Chúa? Câu hỏi tu từ của thánh Phaolô như là một lời
khẳng định chắc chắn rằng dù là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt
bớ hay gươm giáo (x. Rm 8,35); dù là sự sống hay sự chết, ma vương hay quỷ lực,
hiện tại hay tương lai, trời cao hay vực thẳm, hay bất cứ một sức mạnh nào,
cũng không thể chia cắt con người khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua Đức
Giêsu (x. Rm 8,38-39). Vậy nên, những ai thật sự cảm nhận và xác tín sâu sắc về
tình yêu Thiên Chúa dành cho mình, thì dám chết để chứng tỏ sự trung thành và
sức mạnh vô song của tình yêu ấy.
Cuối
cùng, dù được Thiên Chúa yêu thương hết mực và vô điều kiện, con người không
thể tránh khỏi những sự dữ trong thế giới này. Tuy vậy, những thử thách trong
thế giới lại là cơ hội để con người chiến đấu mà chứng tỏ sự trung thành. Và
nếu con người có thể chiến thắng trong những cơn thử thách, thì đó không phải
do công sức riêng của con người, mà là nhờ sức mạnh của Thiên Chúa: “Nhưng
trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,37).
Qua và nhờ cái chết và sự sống
lại của Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy Ngài yêu thương nhân loại bằng một tình
yêu vô điều kiện và vững chắc đến nỗi không có bất cứ ai hay sức mạnh nào có
thể lung lay nổi. Các thánh tử đạo đã cảm nhận cách sâu sắc tình yêu Thiên Chúa
dành cho các ngài đến nỗi cái chết cũng không thể chia cắt tình yêu đó.
3. Bài
Tin Mừng:
Sau khi thánh Phêrô, đại diện
cho các môn đệ, tuyên tín cách hùng hồn (x. Lc 9,18-21), Chúa Giêsu liền mạc
khải cho các môn đệ biết con đường Người phải đi là con đường khổ giá (x. Lc
9,22). Và Người cũng muốn các môn đệ của mình đi con đường đó.
Trước
hết, điều kiện để theo Đức Giêsu là “ từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng
ngày mà theo” (Lc
9,23). Thật vậy, Đức Giêsu không dùng những lời lẽ hoa mỹ mà vẽ ra một viễn
cảnh huy hoàng cho cuộc sống của những người muốn theo Người. Trái lại, Người
cho thấy đó là con đường của sự từ bỏ; từ bỏ ý riêng, để thực thi ý muốn của
Thiên Chúa theo gương Đức Giêsu. Đó còn là con đường chấp nhận vác “thập giá
hàng ngày”, đón nhận mọi sự xảy đến trong niềm tin tưởng và phó thác trọn vẹn
trong tay Chúa.
Hơn
nữa, người môn đệ Chúa Kitô ý thức rằng tất cả mọi sự, ngay cả sự sống, cũng
đều phát xuất từ Thiên Chúa; và tất cả cuộc sống của người môn đệ hoàn toàn
thuộc về Chúa, như lời xác quyết của thánh Phaolô: “Chúng
ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù
chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm
14,8). Vì thế, cuộc sống của người môn đệ không phải là đi tìm mình, tìm vinh
quang cho mình, tìm sự sống cho mình, nhưng là đi tìm Chúa và làm vinh danh
Ngài; và khi người môn đệ dám bỏ mình vì Chúa, thì họ lại tìm được chính bản
thân, vì “ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ
mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Lc 9,24).
Sau
cùng, người môn đệ Đức Giêsu có trách nhiệm làm chứng cho Chúa Giêsu và lời của
Người. Việc các môn đệ làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt người khác là điều
kiện để họ được Người chứng thực trước mặt Thiên Chúa trong ngày quang lâm.
Trái lại, “ai xấu hổ vì tôi và những lời của
tôi, thì Con Người cũng sẽ xấu hổ vì kẻ ấy, khi Người ngự đến trong vinh quang
của mình …” (Lc 9,26).
Các thánh tử đạo là những
người đã trung tín đi trọn con đường mà Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ: đó là từ
bỏ ý riêng và chấp nhận mọi sự xảy đến trong đời mình với tinh thần phó thác,
đến nỗi sẵn sàng “liều mất mạng sống” để làm chứng cho Chúa Kitô, với niềm xác
tín rằng “sẽ cứu được mạng sống ấy” trong ngày Đức Kitô quang lâm.
II.
GỢI Ý ÁP DỤNG:
1/ Bà mẹ và bảy anh em đã tự
nguyện chấp nhận khổ đau và cái chết để thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với
Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Họ xác tín rằng một khi họ hết mực trung thành với lề
luật của Thiên Chúa, Đấng ban cho họ “thần khí và sự sống”, thì Ngài sẽ ban cho
họ sự sống bất diệt.Niềm tin vào sự phục sinh là sức mạnh giúp họ vượt thắng cả
cái chết. Sống trong thời hậu phục sinh, Đức Kitô Phục Sinh có là sức mạnh giúp
tôi vượt thắng những cám dỗ thường ngày để sống trung tín với Thiên Chúa và
giới răn của Ngài?
2/ Qua và nhờ cái chết và sự
sống lại của Đức Giêsu, Thiên Chúa cho thấy Ngài yêu thương nhân loại bằng một
tình yêu vô điều kiện và vững chắc đến nỗi không có bất cứ ai hay sức mạnh nào
có thể lung lay nổi. Các thánh tử đạo đã cảm nhận cách sâu sắc tình yêu Thiên
Chúa dành cho các ngài đến nỗi chấp nhận cái chết để minh chứng cho sức mạnh
của tình yêu đó. Tôi có mạnh mẽ xác tín rằng Đức Kitô đã chết vì yêu thương
tôi, đến nỗi không có gì có thể chia cắt tình yêu của Người dành cho tôi? Tình
yêu vô vị lợi của Thiên Chúa thể hiện nơi cái chết và sự sống lại của Đức Kitô
có là động lực thúc đẩy tôi yêu thương anh chị em mình hơn?
3/ Điều kiện để trở thành môn
đệ Đức Giêsu: đó là từ bỏ ý riêng và chấp nhận mọi sự xảy đến trong đời mình
với tinh thần phó thác, đến nỗi sẵn sàng “liều mất mạng sống” để làm chứng cho
Chúa Kitô, với niềm xác tín rằng “sẽ cứu được mạng sống ấy” trong ngày Đức Kitô
quang lâm. Tôi có dám chấp nhận từ bỏ ý riêng để xứng với tư cách làm môn đệ Đức
Giêsu? Là môn đệ Đức Giêsu, tôi có đang tìm cách làm vinh danh Người hay tìm
vinh danh tôi? Tôi có sẵn lòng chấp nhận thiệt thòi, ngay cả những gì thiết
thân nhất, để làm chứng cho Chúa Kitô?
III.
LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Các Thánh
Tử đạo Việt Nam là những bậc tiền nhân đã hiến dâng mạng sống mình cho Thiên
Chúa, và máu của các ngài trở nên hạt giống đức tin cho bao thế hệ con cháu.
Chúng ta cùng cảm tạ Chúa đã đoái thương nước Việt, và tin tưởng dâng lời cầu
xin cho Giáo Hội và cho đồng bào của chúng ta:
1. Cầu cho các Đức Giám mục và
hàng linh mục Việt Nam. Xin cho các ngài luôn nhiệt thành loan báo Tin Mừng
trên mọi miền đất nước, can đảm làm chứng cho sự thật, tận tình chăm sóc hướng
dẫn đoàn chiên, cùng nỗ lực xây dựng sự hiệp nhất của Dân Chúa.
2. Cầu cho những anh chị em
đang đau khổ vì nghèo đói, bệnh tật, hoặc thiên tai. Xin cho họ luôn cảm nhận
và xác tín rằng Thiên Chúa vẫn hiện diện, yêu thương và chăm sóc họ trong mọi
hoàn cảnh, qua sự đồng cảm và tương trợ của rất nhiều người xa gần.
3. Cầu cho các Kitô hữu, cách
riêng là các bạn trẻ giữa xã hội hôm nay. Xin cho họ luôn sống xứng danh là
con cháu các vị tử đạo, biết tránh xa lối sống vô cảm, luôn dấn thân quên mình
vì bổn phận và trách nhiệm, nêu cao tinh thần bác ái tốt đẹp của Kitô
giáo.
4. Cầu cho các gia đình và mọi
người trong cộng đoàn. Xin cho tất cả chúng ta luôn ý thức trân trọng di sản
đức tin được thừa hưởng từ các bậc tiền nhân, không ngừng tái khám phá sứ điệp
Tin Mừng, ra sức thực hành và hăng say loan báo sứ điệp đó cho mọi người.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa toàn năng
hằng hữu, chúng con ca ngợi tình thương và sức mạnh của Chúa đã thể hiện
nơi sự yếu đuối mỏng giòn của các Thánh Tử đạo Việt Nam. Xin nhận lời
chúng con cầu nguyện và giúp chúng con luôn sống trung thành với đức tin và
gương sáng của các bậc tiền nhân. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa
chúng con.
SCĐ LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ : SỰ ĐỔI ĐỜI CỦA CÁC
THÁNH TỬ ĐẠO.
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : "Linh
hồn những người công chính ở trong tay Chúa"
- Đáp ca : "Ai nghẹn
ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khập khởi mừng"
- Tin Mừng : "Người
sẽ sai các thiên sứ đi và Người sẽ tập họp những kẻ được người tuyển chọn từ
bốn phương"
- Bài đọc II : "Sự
điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa
thì mạnh mẽ hơn loài người".
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Sau bao nhiêu thế kỷ tin
theo Kitô giáo, cuối cùng Giáo Hội Việt Nam cũng có được 117 vị thánh của mình,
những vị thánh tử đạo dám lấy chính mạng sống để làm chứng niềm tin vững vàng
của mình.
Mừng lễ các Thánh Tử đạo
VN, chúng ta vui mừng hãnh diện. Chúng ta cũng xin Chúa ban cho chúng ta noi
gương cha ông chúng ta, can đảm làm chứng đức tin của mình trên quê hương đất
nước thân yêu và trước mặt những đồng bào ruột thịt của mình.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Nhiều lần chúng ta xấu
hổ không dám tuyên xưng niềm tin của mình.
- Nhiều lần vì ngại khổ
ngại khó, chúng ta đã không chu toàn bổn phận của một tín hữu.
- Chúng ta chưa tích cực
loan Tin Mừng cho đồng bào Việt Nam của mình.
III. GỢI Ý GIẢNG
1. Các Thánh tử đạo
Gia đình của Chúa là một
gia đình gồm những người trần mắt thịt, chứ không phải gồm những siêu nhân,
những con người siêu đẳng. Kitô hữu không phải là những siêu nhân. Các thánh
càng không phải là những siêu nhân, vì các Ngài là những con người có tính cách
người nhất trong các con người. Các thánh không phải là những người cao siêu,
các Ngài không cần cái cao siêu, họa chăng cái cao siêu cần đến các Ngài. Các
thánh không phải là những vị anh hùng kiểu các anh hùng bách chiến bách thắng.
Một người anh hùng như chúng ta ảo tưởng là họ vượt khỏi nhân tình, đấng thánh
không vượt khỏi nhân tình mà đảm nhận lấy nhân tình. Đấng thánh nỗ lực thể hiện
nhân tình một cách tốt nhất. Bạn có hiểu hai điều đó khác nhau ra sao không ?
Đấng thánh cố gắng hết sức mình để đạt đến gần giống Đức Giêsu là mẫu gương của
mình, nghĩa là gần giống với một Đấng đã hoàn toàn là người, với một sự đơn
giản hoàn hảo, điều độ làm chưng hửng các vị anh hùng, nhưng lại làm yên lòng
những phàm nhân chúng ta. Bởi vì Đức Kitô không chỉ chết vì những người anh
hùng. Ngài còn chết vì những kẻ hèn nhát nữa :Khi bạn bè Ngài quên Ngài thì kẻ
thù Ngài có quên Ngài đau. Bạn có biết rằng bọn quốc xã không ngừng đem đối lập
cơn hấp hối cực thánh của Đức Kitô trong vườn Cây Dầu với cái chết vui tươi của
các thanh niên quốc xã. Nghĩa là Đức Kitô muốn mở ra cho các thánh tử vì đạo
của Ngài con đường vinh quang của cái chết không khiếp sợ, nhưng Ngài cũng muốn
đi trước mỗi người chúng ta vào trong bóng tối đầy lo âu của sự chết. Một bàn
tay vững bàng dũng cảm có thể tìm nơi nương tựa cuối cùng ở bờ vai Ngài, nhưng
một bàn tay run rẩy chắc chắn sẽ nắm được bàn tay Chúa... (Georges Bernanos)
2. Những con người dám
chết
Lễ kính các Thánh tử đạo
là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại sao tuyên dương ?
Thưa vì người ta thường nghĩ "Không có gì quý hơn mạng sống". Khi
mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để thoát
khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá đã
kiếm cỏ, kiếm võ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn ; có
người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của
người khác, đã dành ăn với người khác ; thậm chí có người còn dám ăn thịt người
trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không
có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy nhiên có những người
đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không nghĩ rằng mạng sống
là giá trị cao quý nhất, mà còn có những giá trị không cao hơn nhiều. Thí dụ :
- Trong trận động đất ở
nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa con của mình. Vì
không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng nếu tình hình cứ
tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn đầu ngón tay
mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
- Hay như các anh hùng
liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo vệ tổ quốc quê
hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản thân.
- Và các vị thánh tử đạo
cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
3. Tất cả những người vừa
kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng các thánh Tử đạo
Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể thoát chết cách
rất dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết : chỉ cần nói với quan một câu là
"Tôi chịu bỏ đạo" thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ
cần thưa "vâng" khi quan hỏi "Có chịu bỏ đạo không ?", hay
đơn giản hơn nữa, không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để
yên cho người ta khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã
không làm như vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho
chúng ta nhiều điều suy nghĩ :
a/ Điều thứ nhất cái chết
ấy nói lên một quan niệm sống : sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng
bất cứ giá nào. Nhưng sống còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo
một lý tưởng thì chỉ sống như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn
người có lý tưởng và quý chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch
với lý tưởng ấy ; nếu bị buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản
không cho sống theo lý tưởng thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng
cao đẹp của mình.
Một trong những điều tệ
hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất là các thanh niên ở
các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác hơn là kiếm tiền, rồi
ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người ta không thể ăn hoài
được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên ấy ăn uống mãi rồi
cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra những cách hưởng thụ
khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục khác thường... kết quả
là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó cũng du nhập vào xã
hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh tử đạo là một điều hữu
ích : sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn phải là sống theo một
lý tưởng cao đẹp.
b/ Điều thứ hai chúng ta
kính phục nơi các thánh tử đạo là sự trung thực của các ngài : Trung thực là
sống đúng theo điều mình tin và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có
Thiên Chúa, có linh hồn, có đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã
tỏ ra trung thực với niềm tin ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là
các ngài thực sự tin rằng sau khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các
ngài vẫn còn sống trong cõi vinh quang hạnh phúc với Chúa.
Thực tế ngày nay, nhiều
người không còn trung thực nữa : họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ
nói, có khi họ cũng muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi...
c/ Và điều thứ ba khiến
chúng ta kính phục các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu
rằng đời này không phải là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị
vọng trong xã hội, câu lạc bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một
buổi nói chuyện và người được mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là
Cordell. Cordell có tật nơi chân nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên
nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi
hướng khác. Một người như thế có gì để nói với những nhân vật giàu sang danh
vọng trong xã hội ? Anh mở đầu như sau : "Tôi biết rằng tôi rất là khác
biệt với các bạn", rồi anh kể về cuộc đời mình, một cuộc đời nhiều thất
bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận "Các bạn có thể thành công suốt
cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà
người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn sẽ chẳng khác tôi chút nào.
Đó là lúc chúng ta đều y như nhau". Không biết cử tọa của cuộc nói chuyện
hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử đạo : các ngài khôn hơn
nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để kiếm tìm những điều họ sẽ
phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn các ngài thì dám bỏ tất cả
những gì quý nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống vĩnh cửu.
IV. LỜI NGUYỆN CHO MỌI
NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Các Thánh tử đạo Việt Nam
là những đấng hết lòng tin tưởng và yêu mến Chúa, trung thành với Giáo Hội,
sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận. Với tâm tình cảm phục và mến yêu các bậc
anh hùng tiền bối trong đời sống đức tin, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Hội Thánh luôn tha
thiết mời gọi các kitô hữu / làm chứng nhân cho Chúa trên chính quê hương đất
nước của mình / bằng cách chu toàn mọi bổn phận của người công dân tốt và người
tín hữu tốt / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết sống trọn vẹn ơn
gọi kitô hữu trên chính quê hương của mình.
2- Trên thế giới ngày nay
/ nhiều kitô hữu / đặc biệt là các kitô hữu trẻ / bị mất đức tin vì hiểu biết
giáo lý không đủ / và hầu như không biết đến quyển Kinh Thánh / Chúng ta hiệp
lời cầu xin cho hết thảy mọi tín hữu hiểu rằng / để có thể giữ vững niềm tin /
cũng như để có thể dấn thân theo Chúa đến cùng / cấn phải học hỏi sâu rộng giáo
lý của Chúa / nhất là sống theo Lời Chúa dạy trong Tin Mừng.
3- Các Thánh tử đạo Việt
Nam cũng là những con người mỏng dòn yếu đuối như chúng ta / nhưng đã can đảm
bước theo Đức Kitô trên con đường thập giá / và đã anh dũng hiến dâng mạng sống
để nói lên lòng mến Chúa của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu
biết luôn cố gắng noi gương các ngài / mà bước trọn con đường Chúa đã đi qua.
4- Không có gì tách được
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng
đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn gắn bó và tin yêu Chúa giữa muôn vàn thử
thách của cuộc đời.
CT : Lạy Chúa, Ông bà tổ
tiên chúng con đã không ngần ngại hy sinh mạng sống để tuyên xưng đức tin, để
nói lên lòng mến của các ngài đối với Chúa. Xin Chúa thương trợ giúp, để chúng
con có thể luôn hiên ngang sống đức tin đã lãnh nhận. Nhờ đó, mai sau chúng con
cùng được chung hưởng vinh quang với các ngài trên thiên quốc. Chúng con cầu
xin…
V. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha :
Hiệp cùng các Thánh Tử đạo Việt Nam là những người con ưu ái của Chúa, chúng ta
hãy dâng lên Cha trên trời lời kinh lạy Cha.
- Sau kinh Lạy Cha :
"… và được an toàn khỏi mọi biến loạn. Xin giúp chúng con biết noi gương
các Thánh tử đạo can đảm sống đức tin của mình đang khi chúng con đợi chờ ngày
hồng phúc…"
VI. GIẢI TÁN
Noi gương các Thánh tử
đạo Việt Nam, chúng ta hãy trở về cuộc sống và làm chứng đức tin của mình trước
mặt mọi người.
---
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. José Feder, Alain
Gorius et leur équipe, Célébrer le dimanche, A. Nouvelles éditions Mame, Paris,
1977.
2. Flor McCarthy, New
Sunday and Holy Day Liturgies, Year A, Dominican Publications. Dubblin 1998.
3. NN, Fiches
dominicales, Bulletin de liaison et d’animation des équipes liturgiques du
diocèse de Saint-Brieuc et Tréguier. Année A. France, 1994.
4. Số đặc biệt Giáng sinh
năm phụng vụ 1998-1999 của báo Công giáo và Dân tộc.
5. Jean - Francois
Kieffer, Mille images d’Evangile, France 2000.
Lm. Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina:
Chúa Nhật XXXIII Thường Niên (C)
Chúa Nhật, 13 Tháng 11, 2016
Bài giảng của Chúa Giêsu về ngày sau hết
Lc 21:5–19
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa, Chúa là Đấng đã tạo dựng nên trời đất và biển khơi, cùng
tất cả muôn loài trong đó; chính Chúa là Đấng đã qua Chúa Thánh Thần và dùng miệng
tổ phụ Đavít chúng con, người tôi tớ của Chúa, mà phán:
Tại sao các chư dân ồn ào náo động,
sao vạn quốc dám bày kế viển vông?
Các vua chúa thế gian cùng giàn trận,
các vương hầu khanh tướng cùng cấu kết với nhau chống nghịch lại
Thiên Chúa và chống lại các đấng đã được Người “Xức Dầu” phong vương.
… Xin Chúa hãy dơ tay của Chúa chữa lành và thực hiện
những dấu lạ điềm thiêng, nhân danh tôi tớ thánh của Người là Đức Giêsu (Cv
4:24-25, 30)”. Xin hãy đổ tràn đầy Chúa Thánh Thần xuống chúng con
như khi xưa Chúa đã ban cho các thánh Tông Đồ sau lời nguyện này, trong thời
gian thử thách, để chúng con cũng có thể rao giảng Lời Chúa một cách công khai
và làm chứng cho sự hy vọng.
2. Bài Đọc
a) Bối cảnh:
Đoạn Tin Mừng này nói về sự bắt đầu công cuộc rao giảng của Chúa
Giêsu về ngày tận thế. Đoạn 21:5-36 là một đơn vị văn học toàn bộ. Chúa
Giêsu đang ở trong thành Giêrusalem, tại cổng vào Đền Thờ, cuộc Thương Khó đã gần
kề. Các sách Tin Mừng Nhất Lãm (xem Mt 24; Mk 13) sắp đặt bài gọi là
bài giảng “thời cánh chung” ở trước câu chuyện cuộc Thương Khó, cái Chết và sự
Phục Sinh. Những sự kiện này được đọc trong ý nghĩa của lễ Vượt
Qua. Ngôn ngữ được dùng là “ngày tận thế”. Chúng ta không
nên chú ý vào từng chữ riêng rẽ, mà nên để ý về lời công bố của sự xáo trộn
hoàn toàn. Cộng đoàn của thánh Luca đã biết về các sự kiện liên quan
đến việc phá hủy thành Giêrusalem. Tác giả Phúc Âm đã phổ quát hóa lời
tiên báo và làm hiển nhiên thời kỳ trung gian của Giáo Hội trong khi chờ đợi sự
trở lại quang lâm của Chúa. Luca cũng đề cập đến ngày sau hết ở
trong các chương khác (12:35-48; 17:20; 18:18).
b) Phân đoạn bài Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Lc 21:5-7: Lời giới thiệu
Lc 21:8-9: Lời cảnh báo ban đầu
Lc 21:10-11: Các dấu chỉ
Lc 21:12-17: Các môn đệ bị thử thách
Lc 21:18-19: Sự bảo vệ và tín thác
c) Phúc Âm:
5 Khi ấy, có mấy người trầm trồ về Đền Thờ được trang hoàng bằng
đá tốt và những lễ vật quý, nên Chúa Giêsu phán rằng: 6 “Những
gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn
đá nào mà chẳng bị tàn phá.” 7 Bấy giờ các ông hỏi
Người rằng: “Thưa Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào
mà biết những sự đó sắp xảy đến?”
8 Người phán: “Các con hãy ý tứ kẻo bị người ta lừa
dối, vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: ‘Chính
ta đây và thời giờ đã gần đến.’ Các con chớ đi theo
chúng. 9 Và khi các con nghe nói có chiến tranh loạn
lạc, các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết
đời ngay đâu.”
10 Bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: “Dân này
sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ. 11 Sẽ
có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn dịch đói khát; những hiện tượng
kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể. 12 Nhưng
trước những điều đó, người ta sẽ tra tay bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các
hội đường và ngục tù, điệu các con đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy: 13 và
các con sẽ có dịp làm chứng. 14 Vậy các con hãy ghi
nhớ điều này trong lòng là chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể
nào. 15Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và sự
khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các
con. 16 Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các
con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết. 17 Các
con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy. 18 Nhưng
dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ chẳng hư mất. 19 Các
con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn các con.”
3. Giây phút thinh lặng cầu nguyện
Để Lời của Chúa có thể thấm nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi ý
- Những cảm xúc nào đang chiếm ngự
trong tôi: nỗi đau khổ, sợ hãi, tín thác, hy vọng, hay là nghi ngờ …?
- Tin Mừng trong bài giảng này là gì?
- Chúng ta có hài lòng với những gì chúng ta mong
đợi và chúng ta có thích nghi với những nhu cầu của bản thân mình không?
- Tôi phản ứng ra sao trước các thử
thách trong đời sống đức tin của tôi?
- Tôi có thể làm một sự liên kết với
những sự kiện lịch sử hiện nay không?
- Chúa Giêsu có vị trí nào trong lịch
sử ngày nay?
5. Suy gẫm
a) Chìa khóa dẫn đến bài đọc:
Hãy đừng để cho chúng ta bị dao động bởi những biến động bên
ngoài, điển hình là ngôn ngữ ngày tận thế, mà bởi những việc bên trong nội tâm
cần thiết, đó là lời báo trước và chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ với
Chúa. Ngay cả khi biết rằng ngày nay, ở các nơi khác nhau trên thế
giới tình trạng “ngày tận thế” đang được xảy ra, nó có thể trở nên một bài đọc
cho cá nhân, chắc chắn không phải là một lẩn tránh để đổi hướng sự chú ý sang
trách nhiệm cá nhân. Thánh Luca, với cương vị tác giả Phúc Âm, nhấn
mạnh rằng ngày sau hết chưa xảy đến, do đó thật là cần thiết để sống trong chờ
đợi với sự dấn thân. Chúng ta hãy tỉnh thức về những
thảm kịch của thời đại chúng ta, đừng trở thành tiên tri của sự bất
hạnh, mà là tiên tri cam đảm của một trật tự mới dựa
trên công lý và hòa bình.
b) Lời bình giải về đoạn Phúc Âm:
[5] “Khi ấy, có mấy người trầm trồ về Đền Thờ được
trang hoàng bằng đá tốt và những lễ vật quý”, nên Chúa Giêsu phán rằng:... Có
lẽ Chúa Giêsu đang ở bên trong cổng Đền Thờ, được coi là nơi mua bán các lễ vật. Thánh
Luca không xác định rõ những người nghe là ai, nó có vẻ nhắm vào tất cả mọi người,
ông đã phổ quát hóa bài giảng ngày cánh chung. Bài giảng này có thể
nói về ngày sau hết, nhưng cũng nói về ngày cánh chung của riêng mỗi người
chúng ta. Nói chung, dứt khoát có một gặp gỡ với Chúa Phục Sinh.
[6] “Những gì các con nhìn ngắm đây, sau này sẽ đến
ngày không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào mà chẳng bị tàn phá.” Chúa
Giêsu dùng những từ ngữ bất hạnh (17:22; 19:43) và lặp lại những lời nhắc nhở của
các tiên tri liên quan đến Đền Thờ (Mk 3:12; Gr 7:1-15;
26:1-19). Đây cũng là một sự nghiệm xét về tính chất hay hư nát của
con người, dù cho kỳ diệu phi thường đến bực nào. Cộng đoàn của
thánh Luca đã biết về sự phá hủy của đền thờ Giêrusalem (vào năm
70). Chúng ta hãy nghiệm xét thái độ của chúng ta về những việc kết
thúc với thời gian.
[7] Bấy giờ các ông hỏi Người rằng: “Thưa
Thầy, bao giờ những sự ấy sẽ xảy ra, và cứ dấu nào mà biết những sự đó sắp xảy
đến?” Những người nghe đang quan tâm đến các biến động bên ngoài
đặc trưng cho sự kiện này. Chúa Giêsu đã không trả lời thẳng vào câu
hỏi này. Chữ “bao giờ” không được dùng bởi thánh Luca trong mối quan
hệ với sự phá hủy của đền thờ Giêrusalem. Chúa nhấn mạnh rằng ngày tận
thế “sẽ không xảy ra ngay lập tức” (câu 9) và “nhưng trước những điều đó…” (câu
12) có những việc khác sẽ xảy ra. Người hỏi chúng ta về mối quan hệ
giữa các sự kiện lịch sử và việc thực hiện lịch sử ơn cứu độ. Thời
điểm của nhân loại và thời điểm của Thiên Chúa.
[8] Người phán: “Các con hãy ý tứ kẻo bị
người ta lừa dối, vì chưng, sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến mà tự xưng rằng: ‘Chính
ta đây và thời giờ đã gần đến.’ Các con chớ đi theo chúng.” So
với các tác giả Phúc Âm khác, thánh Luca cho biết thêm về mấu chốt của thời
gian. Cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi đang vượt qua giai đoạn ngày
Chúa tái thế sắp tới và chuẩn bị bản thân trong thời kỳ trung gian của Giáo Hội. Chúa
Giêsu khuyến cáo không nên để cho mình bị lừa gạt hoặc tệ hơn, bị thuyết phục bởi
những kẻ mạo danh. Có hai loại tiên tri giả: những kẻ giả
danh Chúa Giêsu mà tự xưng “Chính ta đây” và những kẻ khẳng định rằng thời điểm
đã gần kề, ngày đó đã được biết (10:11; 19:11).
[9] “Khi các con nghe nói có chiến tranh loạn lạc,
các con đừng sợ, vì những sự ấy phải đến trước đã, nhưng chưa phải là hết đời
ngay đâu.” Ngày nay, ngay cả trước những sự kiện chiến tranh, và
chúng ta có thể nói rằng các hành vi khủng bố, cũng chưa phải là bắt đầu ngày tận
thế. Tất cả những điều này xảy ra nhưng đó không phải dấu hiệu cho
ngày tận thế (Đn 3:28). Luca muốn cảnh báo họ về ảo ảnh ngày tận thế
sắp xảy ra với hậu quả bị vỡ mộng và từ bỏ đức tin.
[10] Và bấy giờ Người phán cùng các ông ấy rằng: “Dân
này sẽ nổi dậy chống lại dân kia, và nước này sẽ chống với nước nọ.
[11] Sẽ có những cuộc động đất lớn mọi nơi, sẽ có ôn
dịch đói khát; những hiện tượng kinh khủng từ trên trời và những điềm lạ cả thể.” Những
chữ “và bấy giờ Người phán” là một sự lặp lại của bài giảng sau những lời cảnh
báo ban đầu. Đây là ngôn ngữ khải huyền hoàn toàn, có nghĩa là sự mặc
khải (Is 19:2; 2Cr 15:6) và đồng thời là sự ẩn dấu. Những hình ảnh
truyền thống được dùng để mô tả những thay đổi nhanh chóng của lịch sử (Is
24:19-20; Dcr 14:4-5; Ed 6:11-12; v.v.). Ảo giác thảm họa giống như
một bức màn che giấu cảnh đẹp đằng sau đó: ngày Chúa tái thế trong
vinh quang (câu 27).
[12] “Nhưng trước những điều đó, người ta sẽ tra tay
bắt bớ, ức hiếp và nộp các con đến các hội đường và ngục tù, điệu các con đến
trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy.”
[13] “và các con sẽ có dịp làm chứng”. Người
Kitô hữu được mời gọi để phục tùng theo Chúa Kitô. Họ đã tra tay
hành hạ Ta, họ cũng sẽ bắt bớ anh em. Thánh Luca gợi nhớ lại cảnh
thánh Phaolô bị điệu ra trước mặt vua Agrippa và quan tổng trấn Phétô (Cv
25:23-26, 32). Kìa, thời gian của thử thách. Không nhất
thiết phải dưới hình thức ức hiếp bắt bớ. Thánh Têrêsa Hài Đồng
Giêsu đã chịu thử thách trong 18 tháng, sự vắng mặt của Thiên Chúa, khi ngài
phát hiện ra căn bệnh của mình. Một thời gian thanh luyện để chuẩn bị cho
cuộc gặp gỡ. Đây là tình trạng bình thường của người Kitô hữu, đó là
sống trong sự căng thẳng lành mạnh mà không phải là thất vọng. Người
Kitô hữu được mời gọi để làm chứng cho niềm hy vọng đã làm họ sinh động.
[14] “Vậy các con hãy ghi nhớ điều này trong lòng là
chớ lo trước các con sẽ phải thưa lại thể nào.
[15] Vì chính Thầy sẽ ban cho các con miệng lưỡi và
sự khôn ngoan, mọi kẻ thù nghịch các con không thể chống lại và bắt bẻ các con. Đã
đến lúc để chúng ta đặt niềm tin hoàn toàn vào Thiên Chúa, chỉ một mình Thiên
Chúa là quá đủ. Đó cũng là sự khôn ngoan mà thánh Stêphanô đã làm bối
rối kẻ thù của mình (Cv 6:10). Người tín hữu được bảo đảm có khả năng chống
lại sự bức hại.
[16] “Cha mẹ, anh em, bà con, bạn hữu sẽ nộp các
con, và có kẻ trong các con sẽ bị giết chết.”
[17] “Các con sẽ bị mọi người ghét bỏ vì danh Thầy.” Nguyên
lý căn bản đi theo Chúa Kitô cũng bao hàm ý nghĩa sự khắc phục các mối liên hệ
thân thích, những người mà chúng ta, theo cảm xúc, tin là an toàn
hơn. Có sự rủi ro phải tiến bước trong lẻ loi, giống như Đức Giêsu
trong cuộc Thương Khó của Người.
[18] “Nhưng dù một sợi tóc trên đầu các con cũng sẽ
chẳng hư mất.” Thánh Luca lặp lại câu trước (12:7) để nhắc nhở
chúng ta về sự bảo vệ của Thiên Chúa được đoan chắc trong cơn thử
thách. Vì người tín hữu cũng được bảo đảm cho sự chăm sóc về sự vẹn
toàn thể chất của mình.
[19] “Các con cứ bền đỗ, các con sẽ giữ được linh hồn
các con.” Sự kiên trì (câu Cv 11:23; 13:43; 14:22) thì không thể
thiếu được cho việc sinh hoa kết quả (Lc 8:15), trong những lúc thử thách hằng
ngày và trong những lúc bị bắt bớ. Điều đó có cùng ý nghĩa với “ở lại”
trong Chúa Kitô của Gioan. Vinh quang cuối cùng đã chắc chắn: Triều
đại Thiên Quốc sẽ được thiết lập bởi Con Người. Vì thế, cần phải có
sự kiên trì, thận trọng và trong lời cầu nguyện (câu 36 và 12,
35-38). Phong cách sống của người Kitô hữu phải là một dấu hiệu của
tương lai sẽ xảy đến.
6. Cầu Nguyện: Thánh Vịnh 98
Hãy hát lên chúc tụng Thiên Chúa một bài ca mới
Tung hô CHÚA, hỡi toàn thể địa cầu,
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đàn lên mừng CHÚA khúc hạc cầm dìu dặt,
nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca.
Kèn thổi vang xen tiếng tù và,
tung hô mừng CHÚA, vị Quân Vương!
Gầm vang lên, hỡi biển cả cùng muôn hải vật,
địa cầu với toàn thể dân cư!
Sông lạch ơi, vỗ tay đi nào,
đồi núi hỡi, reo mừng trước tôn nhan CHÚA.
Vì Người ngự đến xét xử trần gian,
Người xét xử địa cầu theo đường công chính,
xét xử muôn dân theo lẽ công bình.
mừng vui lên, reo hò đàn hát.
Đàn lên mừng CHÚA khúc hạc cầm dìu dặt,
nương khúc hạc cầm réo rắt giọng ca.
Kèn thổi vang xen tiếng tù và,
tung hô mừng CHÚA, vị Quân Vương!
Gầm vang lên, hỡi biển cả cùng muôn hải vật,
địa cầu với toàn thể dân cư!
Sông lạch ơi, vỗ tay đi nào,
đồi núi hỡi, reo mừng trước tôn nhan CHÚA.
Vì Người ngự đến xét xử trần gian,
Người xét xử địa cầu theo đường công chính,
xét xử muôn dân theo lẽ công bình.
7. Chiêm niệm
Lạy Thiên Chúa nhân từ, Nước Trời của Chúa là tình yêu và hòa
bình, chính Chúa đã tạo dựng trong tâm hồn chúng con sự thinh lặng cần thiết để
Chúa hiệp thông với chúng con.
Hành động hòa hoãn, ước ao mà không đam mê, nhiệt tình mà không
kích động: tất cả chỉ có thể đến từ Chúa, Đấng Khôn Ngoan Hằng Hữu, Toàn
Năng, thư thái không đổi dời, nguyên tắc và mô thức của sự bình an thực sự.
Chúa đã hứa với chúng con qua các vị tiên tri hòa bình của Chúa;
Chúa đã ban cho chúng con điều này qua Đức Giêsu Kitô; Chúa đã ban cho chúng
con sự bảo đảm với dạt dào Chúa Thánh Thần.
Xin Chúa đừng để cho sự ghen ghét của kẻ thù, những khắc khoải của
các đam mê, những ngại ngùng của lương tâm làm cho chúng con mất đi ân huệ từ
trời, đó là sự cam kết tình yêu của Chúa, chứng tích những lời hứa của Chúa, phần
thưởng của Máu Con Thiên Chúa. Amen (Thánh Têrêsa thành Avila,
38:9-10).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét