29/01/2017
Chúa Nhật tuần 4 thường niên
MỒNG HAI TẾT ĐINH DẬU.
KÍNH NHỚ TỔ TIÊN VÀ ÔNG BÀ CHA MẸ.
(phần 1)
Ngày
Mồng 2 Tết Âm Lịch
Thánh
Lễ Cầu Cho
Tổ
Tiên Ông Bà Cha Mẹ
Bài Ðọc
1: Hc 44,1.10-15
"Chúng
ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ."
Bài
trích sách Huấn Ca.
Giờ
đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua
các thế hệ.
Nhưng
các vị sau đây là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào
quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu
đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu
cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các
ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền
hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng
ngợi khen.
Ðó là
lời Chúa.
Bài Ðọc
2: Ep 6,1-4.18.23.24
"Hãy
tôn kính cha mẹ. Ðể ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này".
Bài trích
thư của Thánh Phaolô Tông Ðồ các gửi tín hữu thành Êphêsô.
Kẻ
làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của chúa, vì đó là điều phải đạo.
Hãy tôn kính cha mẹ. Ðó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: Ðể ngươi được
hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này. Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con
cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa
dạy.
Theo
Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu
nguyện luôn mãi. Ðể được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin
cho toàn thể các thánh. Anh em cũng hãy cầu xin cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng
nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của
Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích. Anh em
hãy cầu xin cho tôi để khi rao giảng Tin Mừng tôi nói năng mạnh dạn, như bổn phận
tôi phải nói.
Nguyện
xin Thiên Chúa là Cha, và nguyện xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ơn bình an
và lòng mến cùng với lòng tin. Xin Thiên Chúa ban ân sủng cho tất cả những ai
yêu mến Ðức Giêsu Kitô Chúa chúng ta bằng một tình yêu bất diệt.
Ðó là
lời Chúa.
Phúc
Âm: Mc 7,1-2. 5-13a
"Hãy
thảo kính cha mẹ".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu,
và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa
là không rửa trước.
Vậy
những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập
tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?"
Người
đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các
ngươi, như lời chép rằng: "Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng
chúng ở xa Ta. Chúng sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì chúng dạy những giáo lý
và những luật lệ loài người". Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa,
để nắm giữ tập tục loài người: rửa bình, rửa chén và làm nhiều điều như vậy".
Và
Người bảo: "Các ngươi đã khéo bỏ giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục của
các ngươi. Thật vậy, Môsê đã nói: "Hãy thảo kính cha mẹ", và "ai
rủa cha mẹ, người đó phải chết". Còn các ngươi thì lại bảo: "Nếu ai
nói với cha mẹ mình rằng: Những của tôi có thể giúp cha mẹ được, nay tôi muốn
nó trở thành Corban (nghĩa là của dâng cúng)", rồi các ngươi không để cho
kẻ ấy giúp gì cho cha mẹ nữa. Như thế các ngươi hủy bỏ lời Chúa bằng những tập
tục truyền lại cho nhau".
Ðó là
lời Chúa.
- - -
- - - - - - - - -
Hoặc:
Lc 1,67-75
"Ðể
tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Dacaria, cha của Gioan, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng: "Chúc
tụng Thiên Chúa của Israel, vì Chúa đã viếng thăm và cứu chuộc dân Người. Chúa
đã gầy dựng cho chúng ta một uy quyền cứu độ. trong nhà Ðavít là tôi tớ Chúa,
như Người đã phán qua miệng các thánh nhân từ ngàn xưa, là tiên tri của Chúa; để
giải phóng chúng ta khỏi quân thù, và khỏi tay những người ghen ghét chúng ta;
để tỏ lòng từ bi với tổ tiên chúng ta, và nhớ lại lời thánh ước của Người: lời
minh ước mà Người tuyên thệ, với Abraham tổ phụ chúng ta, rằng: Người cho chúng
ta không còn sợ hãi, sau khi thoát khỏi tay quân thù, được phục vụ trước tôn
nhan Người, trong thánh thiện và công chính trọn đời chúng ta".
Ðó là
lời Chúa.
SUY NIỆM
:
MỒNG
HAI TẾT
Anh chị em thân mến
Hôm nay là ngày mồng hai tết. Giáo Hội Mẹ của chúng
ta muốn chúng ta dùng ngày đầu năm đặc biệt này để nhớ đến công ơn của tổ tiên,
ông bà cha mẹ của chúng ta.
I.
Công ơn của Tổ tiên Ông Bà cha mẹ thật không sao mà kể cho hết, như trời như biển.
Công cha chẳng khác gì núi Thái - Nghĩa mẹ chẳng khác gì như nước trong nguồn.
Ngày xưa Đức Phật đã dạy các đệ tử: “Trên đời
này có hai người mà ta không thể trả hết ơn được là cha và mẹ ta. Dù có cõng
cha mẹ trên vai suốt cả trăm năm cuộc đời, hay có tán xương lóc thịt để làm thức
ăn cho cha mẹ cả trăm ngàn kiếp, cũng chưa đáp đền được công ơn sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ, vì công ơn cha mẹ to lớn lắm” (Kinh Vu Lan).
+ Có rất nhiều câu truyện cảm động về những lo lắng
của cha mẹ dành cho con cái. Nhưng câu truyện về Mạnh Tử là một trong những câu
truyện hay nhất. Thầy Mạnh Tử lúc còn nhỏ đã may mắn có được một người mẹ hết
lòng lo lắng dạy dỗ cho mình. Truyện kể rằng hồi đó nhà Thầy Mạnh Tử ở gần
nghĩa địa. Mẹ thầy Mạnh Tử thấy con bắt chước người ta đào bới rồi lăn ra khóc.
Bà liền dời nhà đến gần chợ. Tại đây bà lại thấy con bắt chước người ta sống
nghịch ngợm và gian dối. Bà cho đây không phải là chỗ thích hợp cho con của bà.
Bà lại dời nhà đi nơi khác.Lần này thì chuyển nhà của bà đến ở gần trường học. Ở
đây Mạnh Tử thấy các bạn trẻ cùng lứa tuổi đua nhau tập lễ phép và học chữ
nghĩa thì cậu cũng bắt chước. Bà mẹ thấy như vậy mừng quá và bà quyết dịnh ở lại
đây luôn.
+ Tin Mừng không nói cho chúng ta nhiều về việc
Thánh Giuse và Đức Mẹ đã lo lắng cho Chúa Giêsu như thế nào, nhưng chắc chắn
Chúa Giêsu đã được Thánh Giuse và Đức Mẹ giáo dục thật kỹ. Điều này quả không
ai còn có thể hoài nghi.
+ Lịch sử của thế giới cũng để lại cho chúng ta rất
nhiều những tấm gương thật cảm động về những người đã nên người nhờ công ơn cha
mẹ.
Chẳng hạn như nhà Bác học Thomas Edison. Như nhà Bác
học Louis Pasteur. Như Đức Thánh Giáo Hoàng Pio X. Như Thánh Gioan Don Bosco và
còn biết bao nhiêu những người như thế. Họ là những đại ân nhân của cả nhân loại.
II.
Nếu công ơn của tổ tiên Ông Bà Cha mẹ lớn lao như thế thì con cái phải làm gì để
đền đáp?
Trong bức tâm thư gửi các gia đình nhân dịp năm quốc
tế gia đình năm 1994 số 18 Đức Thánh Cha Gioan Phao-lô đã viết như sau:"Hãy
thảo kính cha mẹ bởi vì theo một nghĩa nào đó, các vị ấy đối ngươi là những người
đại diện của Chúa, những người dẵ ban tặng sự sống cho ngươi, đã đưa ngươi vào
cõi sống nhân linh, vào trong một dòng dõi, một quốc gia, một nền văn hóa. Sau
Thiên Chúa các vị ấy là những ân nhân đầu tiên của ngươi. Nếu chỉ một mình
Thiên Chúa là đấng tốt lành, nếu chỉ mình Ngài là Đấng thiện hảo, thì cha mẹ
ngươi cũng được thông phần một cách độc nhất vô nhị vào chính sự tốt lành tối
thượng ấy. Bởi đó ngươi hãy thảo kính Cha mẹ ngươi".
Nhưng bằng cách nào kính thưa anh chị em?
Có nhiều cách nhưng tôi chỉ xin được đề cập một
vài cách cụ thể này:
a- Trước hết là phải biết ơn ông bà cha mẹ tổ tiên
mình
Biết ơn là một trong những giá trị nền tảng cao quí
nhất của cuộc sống làm người và đồng thời nó cũng là biểu hiện rõ rệt nhất của
một con người biết sống với tư cách làm người của mình.
Trong Cựu Ước Thiên Chúa đã dùng cả một giới răn để
nói về vấn đề này. Đó là giới răn thứ tư. “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ ngươi”
Ngược lại vô ơn là thái độ đáng lên án. Đức Cha Bùi
Tuần trong cuốn "Nói với chính mình" có viết những lời rất nặng như
sau:"Người ta cho con chó một cái gì nó còn ngoáy ngoáy cái đuôi để tỏ
lòng biết ơn. Con người mà không có lòng biết ơn thì không bằng con chó"
Hơi nặng một chút nhưng thật là thấm thía.
Dân gian có một câu truyện đã được truyền lại từ đời
này qua đời kia như thế này. Có một đôi vợ chồng kia làm ăn khá giả nhưng lại
cư xử rất keo kiệt với những người trong gia đình. Trong nhà có một ông bố già.
Vì già- đã trên 80 tuổi - cho nên mắt đã mờ, sức đã yếu tay chân không
còn được khoẻ mạnh như hồi còn trẻ. Chính vì vậy mà mỗi khi ăn uống ông thường
đánh rơi ly chén xuống đất làm bể rất nhiều ly chén. Người con dâu thấy như vậy
nên cứ cằn nhằn hoài với chồng. Người cha tuy mắt đã mờ nhưng tai còn rất
thính. Ông rất buồn nhưng không thế làm cách nào khác hơn. Ngồi ăn mà không cầm
được nước mắt. Rồi một hôm khi chị ta xúi chồng đẽo cho cha một cái chén bằng gỗ
để tiện cho việc ăn uống của người cha.
Câu truyện tưởng như thế là xuông xẻ nhưng thật
không ngờ là một ngày kia khi hai vợ chồng có việc phải đi xa trở về. Khi vào
trong nhà thì nghe thấy có tiếng gì như những tiếng đục đẽo vọng ra từ ở một
góc nhà. Hai vợ chồng lại gần thì thấy đứa con trai cưng của mình đang cầm một
cái chén bằng gỗ đã được làm gần xong. Bà mẹ tò mò hỏi thì đứa con ngây thơ trả
lời:
- Con làm cái chén này để mai sau ba má có chén mà
dùng giống như chén ba má đẽo mà ông nội đang dùng vậy đó.
Kính thưa anh chị em. Không biết anh chị em có còn
nhớ không chứ riêng tôi, tôi rất nhớ câu ngạn ngữ đá có từ bao thế hệ như thế
này: "Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó - Vâng sóng trước đổ đâu
thì sóng sau sẽ đổ ở đó" anh chị em.
Đó là điều thứ nhất.
b - Điều thứ hai là phải hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
+ Cách hiếu thảo tốt nhất là vâng lời cha
mẹ trong những điều hợp lẽ nhất là khi còn trẻ.
Tin Mừng tóm gọn cả cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu ở
Nagiareth bằng những lời như thế này:"Ngài vâng lời và chịu lụy hai ông
bà"
Tại tiệc cưới Cana vì Đức Mẹ mà Chúa Giêsu đã làm
phép lạ.
+ Tiếp đến là hãy biết làm vui lòng cha mẹ.
Đời nhà Hán bên Trung hoa có một người nổi tiếng là
có lòng hiếu thảo với cha với mẹ. Đó là Bá Du. Hồi còn nhỏ mỗi khi làm điều gì
sai quấy mà bị mẹ đánh thì Bá Du luôn tươi cười vui vẻ nhận lỗi, không bao giờ
dám cãi. Nhưng một ngày nọ sau khi bị mẹ sửa phạt bằng roi thì Bá Du oà lên
khóc. Thấy thế bà mẹ thắc mắc hỏi:
- Bao nhiêu lần mẹ đánh con để dạy con mà con không
khóc thế thì tại sao lần này con lại khóc?
Bá Du lễ phép trả lời:
- Thưa mẹ, những lần trước mẹ đánh con đau lắm thế
nhưng con không khóc vì con thấy sức của mẹ còn mạnh. Lần này mẹ đánh con, tuy
không đau bằng những lần trước nhưng con lại khóc vì con thấy sức mẹ không còn
khoẻ như xưa…mẹ đã già yếu. Con khóc vì thương mẹ chứ không phải vì giận hờn.
+ Cuối cùng nếu có thể được thì phải lo phụng
dưỡng cho cha mẹ để cha mẹ được sống an vui khi tuổi đã xế chiều.
Dương Phủ sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng
ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.
Một hôm, ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại
sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song thân để đến thụ giáo bậc hiền triết.
Đi được nửa đường, ông gặp một Vị lão tăng. Vị lão
tăng khuyên Dương Phủ: "Gặp được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật".
Dương Phủ hỏi vặn lại: "Phật ở đâu?". Vị
lão tăng giải thích: "Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc
như thế này, đi đôi dép kiểu như thế này thì chính là Phật đấy".
Dương Phủ nghe lời quay về nhà. Đi dọc đường, ông chẳng
gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng
rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ
mình hình dáng của Đức Phật mà vị lão tăng đã mô tả. Từ đấy, Dương Phủ mới nhận
ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Thứ nhất thì tu tại gia
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là đạo con.
Một trong những hình ảnh đẹp nhất về cuộc đời của
Chúa Giêsu là cảnh Chúa Giêsu trao phó Đức Mẹ cho thánh Gioan ở dưới chân cây
Thập giá. Trước khi nắm mắt Chúa còn cẩn thẩn gửi gấm người mẹ của mình cho người
môn đệ yêu quí nhất để Gioan thay cho Chúa mà lo cho Đức Mẹ. Thật hiếm có một
việc làm nào đẹp như thế.
Xin Chúa thánh hoá tất cả mọi gia đình Việt Nam. Xin
Chúa ban cho bậc cha mẹ ý thức được trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban
cho con cái lòng hiếu thảo để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ,
nhất là trong lúc tuổi già của các ngài... Và xin cho mọi gia đình Việt Nam
luôn biết tranh đấu để bảo vệ sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình
thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.
Lm.
Giuse Đinh Tất Quý
Mồng hai Tết Nguyên đán Đinh Dậu
Kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ
Thờ cha kính mẹ
Lời Chúa: Mt 15, 1-6
Bấy giờ có mấy người
Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Ðức Giêsu và nói rằng: “Sao môn
đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”
Người trả lời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông
mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa? Quả thế, Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha
kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại
bảo: ‘Ai nói với cha mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm
dâng cho Chúa rồi, thì người ấy, không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các
ông dựa vào truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa.”
Suy niệm:
Giáo Hội dành Mồng Hai
Tết để kính nhớ tổ tiên và ông bà cha mẹ.
Người Công Giáo thường bị
coi là bỏ rơi việc thờ cúng ông bà tổ tiên,
như thế họ có thể bị coi
là bất hiếu.
Thật ra thảo kính cha mẹ
là điều răn thứ bốn Thiên Chúa đòi chúng ta phải giữ.
Cha Đắc Lộ trong cuốn
Phép Giảng Tám Ngày (1651) cho rằng
thảo kính cha mẹ gồm bốn phần,
đó là yêu mến, kính sợ, chịu lụy và giúp đỡ.
Cha còn ghi nhận một tập
tục đặc biệt vào thời đó.
Ngày Mồng Một Tết, người
dân và cả những quan lớn,
sau khi theo vua chúa đi
tế Nam Giao về,
“ai nấy về nhà mà lạy cha
mẹ ông bà ông vải.”
Vào năm 1625, các thừa
sai cho phép cúng giỗ các vị đã khuất.
Trong các gia đình, ngoài
bàn thờ kính Chúa, còn có “bàn thờ” tổ tiên
Chỉ có hai điều không
được phép,
đó là đốt vàng mã và tin
tổ tiên về ăn đồ cúng.
Thật ra, người Công Giáo
nhớ đến người quá cố
không qua những nghi lễ
giỗ chạp hàng năm,
cho bằng qua việc cầu
nguyện và dâng lễ hàng ngày.
Nhà Vua tế Trời ở đàn Nam
Giao, nhà sư thờ Phật tại Chùa,
các bậc chức sắc trong
làng xã thờ Thành Hoàng tại đình làng,
còn việc cầu nguyện, cúng
giỗ tổ tiên được cử hành tại gia đình,
nơi người sống và người
đã qua đời vẫn thông hiệp với nhau chặt chẽ.
Trong bài Tin Mừng hôm
nay Đức Giêsu bênh vực quyền lợi của cha mẹ.
Ngài đòi người ta phải
giữ điều răn thứ tư của Thiên Chúa.
Thảo kính cha mẹ hàm chứa
việc săn sóc và phụng dưỡng cha mẹ.
Cụ thể người con phải
giúp cha mẹ về mặt tài chánh.
Đức Giêsu phản đối một
truyền thống được bày đặt bởi người Pharisêu,
đó là khi một người con
lấy số tiền lẽ ra dành để nuôi cha mẹ
mà dâng cúng cho đền thờ
làm lễ phẩm
thì anh ta khỏi phải dùng
tiền đó mà nuôi cha mẹ nữa (cc. 5-6).
Đối với Đức Giêsu, làm
thế là nhân danh một truyền thống con người
mà “vi phạm điều răn của
Thiên Chúa”và “hủy bỏ lời của Thiên Chúa” (cc. 3.6).
Khi suy nghĩ về tương
quan giữa cha mẹ và con cái,
chúng
ta cần tự hỏi:
Làm sao để có sự cảm
thông giữa những thế hệ?
Làm sao để con cái biết
vâng phục và tôn kính cha mẹ?
Làm sao để cha mẹ biết
giáo dục con cái bằng khuyên răn và sửa dạy?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
sau hơn 30 năm sống dưới
mái nhà ở Nadarét,
Chúa đã thành một người
chín chắn
và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ
mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ
trong việc hình thành
nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh
Giuse
sự lao động miệt mài,
sự mau mắn thi hành Thánh
ý Thiên Chúa,
sự âm thầm chu toàn trách
nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria
sự tế nhị và phục vụ,
sự buông mình sống trong
lòng tin phó thác
và nhất là một đời sống
cầu nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con,
xin biến nó thành nơi sản
sinh những con người tốt,
biết yêu thương tha thứ,
biết cầu nguyện và phục
vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn,
nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan
và tràn đầy ơn Chúa.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
29/01/17 CHÚA NHẬT TUẦN 4 TN – A
MỒNG HAI TẾT. Kính tổ
tiên, ông bà, cha
mẹ Mt 15,1-6
HÃY THỜ CHA KÍNH MẸ
“Thiên Chúa dạy: Ngươi
hãy thờ cha kính mẹ.”(Mt 15,4)
Suy niệm: “Mẹ thương con
biển hồ lai láng, con thương mẹ kể
tháng kể ngày.” Đây không chỉ là tiếng
thở dài của một người mẹ hay lời cay đắng của bà trút lên con mà còn là bản
tường trình về tình yêu cằn cỗi, nghèo nàn của những người con đối với ông bà,
cha mẹ mình. Thời nay, sự cằn cỗi ấy dường như có cơ hội gia tăng. Báo chí
thông tin có những cụ già 80, 90 tuổi, hằng ngày phải lao động nặng nhọc để
sống hoặc nuôi người vợ liệt lào, trong khi đàn con khôn lớn của ông hiếm khi
trở lại thăm nom, phụng dưỡng. Với nhiều lý do, có những người con tự miễn
chuẩn cho mình bổn phận đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Giáo Hội tại Việt Nam
dùng ngày Mồng Hai Tết cầu nguyện đặc biệt cho tổ tiên để thực hành lời của
Chúa: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, và hâm nóng lòng hiếu thảo của người tín hữu.
Mẫu gương Chúa Giê-su đối với cha mẹ luôn cần được Ki-tô hữu khám phá để sống
theo.
Mời Bạn: Bạn
có những chương trình cho từng ngày trong
những ngày Tết này. Trong số đó, có thời gian nào bạn sẽ dành cho ông bà, cha
mẹ không? Bên cha mẹ, ông bà, bạn lắng nghe, ân cần vấn an, chuyện trò như là
người con hay như người ban phát, thi ân?
Chia sẻ: Người
ta đối xử với cha mẹ và người thân thế nào,
họ sẽ đối xử với bạn như vậy. Bạn nghĩ gì về nhận định đó?
Sống Lời Chúa: Hôm
nay, bạn bày tỏ lòng hiếu thảo của bạn
với tổ tiên, ông bà, cha mẹ qua những việc làm cụ thể.
Cầu nguyện: Lạy Cha, xin cho mẫu
gương sống của Con Cha trở thành sống
động trong lối sống của con đối với Cha và đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ của
con. Xin Cha ban ơn phúc cho các ngài, nhất là trong những ngày của tuổi già.
Chúa
Nhật 4 Quanh Năm Năm A
Bài Ðọc
I: Xp 2, 3; 3, 12-13
"Ta
sẽ để sống sót lại giữa ngươi, một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn".
Trích
sách Tiên tri Xôphônia.
Hãy
tìm Chúa, hỡi tất cả các người hiền lành trong nước, là những kẻ tuân giữ luật
Chúa; hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhường, nếu các ngươi muốn được che chở
trong ngày thịnh nộ của Chúa. Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi một dân tộc
khiêm tốn và nghèo hèn, biết tin tưởng vào thánh danh Chúa. Kẻ sống sót của Israel
sẽ không làm điều bất công, sẽ không nói dối, miệng chúng sẽ không nói lời phỉnh
gạt, vì chúng sẽ được chăn dắt và nằm ngủ không bị quấy rầy.
Ðó là
lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10.
Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần
nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5,3).
Xướng:
1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được
cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.
2)
Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng
khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những
khách kiều cư. - Ðáp.
3)
Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác
nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ
làm vua từ đời này sang đời khác. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: 1 Cr 1, 26-31
"Thiên
Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian".
Trích
thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh
em thân mến, anh em hãy xem ơn kêu gọi của anh em: Vì (trong anh em) không có mấy
người khôn ngoan theo xác thịt, không có mấy người quyền thế, không có mấy người
sang trọng. Nhưng điều mà thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để
làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn,
thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi. Thiên Chúa
đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian, những điều bị khinh chê, những điều
không không, để phá huỷ những điều hiện hữu, hầu mọi xác thịt không thể vinh
vang trước mặt Người. Chính do Người mà anh em ở trong Chúa Giêsu Kitô, Ðấng do
Thiên Chúa, đã trở nên sự khôn ngoan, sự công chính, sự thánh hoá và sự cứu rỗi
cho chúng ta, ngõ hầu, như đã chép: "Ai tự phụ, thì hãy tự phụ trong
Chúa".
Ðó là
lời Chúa.
Alleluia:
Lc 19, 38
Alleluia,
alleluia! - Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh
quang trên các tầng trời. - Alleluia.
Phúc
Âm: Mt 5, 1-12a
"Phúc
cho những ai có tinh thần nghèo khó".
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống,
các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:
"Phúc
cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho những ai
hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. Phúc cho những ai đau buồn, vì
họ sẽ được ủi an. Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no
thoả. Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. Phúc
cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Phúc cho những
ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những ai bị
bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi người
ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi
điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng
đại ở trên trời".
Ðó là
lời Chúa.
Suy Niệm:
Chúa nhật khó nghèo
Có thể
gọi tên Chúa nhật này là Chúa nhật khó nghèo, Chúa nhật mà chúng ta phải suy
nghĩ về tinh thần khó nghèo Phúc Âm. Như vậy chúng ta sẽ không bỏ rơi các mối
phúc thật khác và chúng ta sẽ thấy bài Tiên tri và bài Thánh thư sáng sủa hơn
nhiều. Vì tinh thần khó nghèo là điều kiện để được rao giảng Phúc Âm, là cơ sở
của các mối phúc thật. Người khó nghèo được Chúa đoái thương và đổ đầy ơn cứu độ.
A.
Khó Nghèo Là Cơ Sở
Có một
ngộ nhận căn bản khiến việc suy nghĩ về Bài giảng trên Núi dễ đi đến chỗ lệch lạc.
Người ta muốn tách rời từng câu, từng mối phúc thật, coi như những chân lý tuyệt
đối, biệt lập không lồng vào nhau, không thông với nhau. Người ta nghĩ đó là một
số các nhân đức, chỉ cần tập được một là được vào Nước Trời. Người ta quên bối
cảnh của Bài giảng trên Núi. Người ta không thấy rõ ý của Ðức Yêsu khi tuyên bố
các mối phúc thật.
Sách
Tin Mừng kể hôm ấy Chúa trèo lên một sườn núi. Người gọi môn đệ lại chung
quanh, rồi mở miệng dạy dỗ dân chúng. Người nói với hết mọi người. Người không
muốn để người nào dửng dưng. Người muốn mọi lời Người nói trở nên của ăn tinh
thần cho mỗi người. Rõ ràng Người không nói với người này trước, người kia sau.
Người cũng chẳng muốn kẻ nghe lời này, kẻ bỏ lời kia. Người không đề ra một số
những nhiệm vụ để mỗi người lựa chọn tùy ý hay để mọi người phải thi hành tất cả
bằng nhau. Người giảng Tin Mừng cứu độ mọi người chứ không ban bố chỉ thị. Người
vẽ ra các sắc thái của Nước Trời để người ta nhận ra Nước đó và muốn đi vào.
Sau này sẽ có lần Người kể cho người ta nghe nhiều dụ ngôn về Nước Trời: các
hình ảnh tuy khác nhau nhưng chỉ diễn tả một thực tại. Cũng vậy hôm nay trong
Bài giảng trên Núi, Người cho thấy có nhiều hạng người ở trong Nước Trời hạnh
phúc; tuy nhiên tất cả đều chung một mẫu số nào đó. Những con người khó nghèo,
hiền lành, đói khát, thương xót v.v... không phải là những con người xa lạ
nhau, không thông cảm gì với nhau, vì nếu không Nước Chúa sẽ là một cái chợ, một
nơi ô hợp. Nhưng không! Nước Trời là một gia đình, một dân Nước, một cộng đoàn
hòa hợp, một thân thể, Thân Thể Ðức Kitô. Giữa những con người hạnh phúc kia có
một cái gì thông hiệp với nhau một cách mật thiết, đến nỗi có thể nói yếu tố
khiến họ được phúc lộc quan trọng hơn các sắc thái riêng biệt của họ.
Vậy yếu
tố ấy là gì?
Chắc
chắn đó là yếu tố khiến người ta có khả năng đón nhận sự sống của Chúa, sự cứu
rỗi của Người, Tin Mừng cứu độ Người mang đến. Thế mà rõ ràng Thánh Kinh viết:
Tin Mừng được rao giảng cho người nghèo. Tinh thần khó nghèo được Chúa nhắc đến
đầu tiên trong Bài giảng trên Núi, phải chăng không phải là phúc đầu tiên trong
các mối phúc thật, mà là điều kiện đi trước để có các mối phúc thật sau? Ðó là
cơ sở để phát huy mọi nhân đức, để đón nhận ơn cứu độ dẫn đến hạnh phúc Nước Trời.
B.
Nhưng Khó Nghèo Là Gì?
Không
thiếu gì ngộ nhận. Phần đông chúng ta nghĩ ngay đến phương diện vật chất. Và thật
là kỳ cục. Suy nghĩ như vậy không thể nào đúng được mà người ta vẫn không bỏ.
Ðiều lạ hơn nữa, là suy nghĩ như thế đưa đến nhiều mâu thuẫn mà dường như người
ta vẫn cứ tỉnh bơ. Ðang khi bảo Giáo hội phải khó nghèo hơn, người ta lại hăng
say phát triển đời sống vật chất cho con người. Cũng đừng lấy lẽ phải hiểu khó
nghèo đây theo nghĩa tinh thần, nghĩa là có tinh thần khó nghèo chứ không nhất
thiết phải thực sự nghèo khó. Thôi đi những luận điệu luẩn quẩn ấy! Chân lý rõ
ràng là Bài giảng trên Núi nói về Nước Trời chứ không nói đến nước thế gian.
Vậy,
trong bình diện Nước Trời, khó nghèo là gì? Là còn thiếu ơn cứu độ của Chúa, là
muốn được ơn cứu độ ấy nhiều hơn, nhưng không có khả năng và còn bị trăm nghìn
cản trở, là thiếu thốn thật sự và chỉ còn biết trông đợi vào lượng từ bi phong
phú của Chúa, là đang đi trên đường về Nước Trời nên không dừng lại nơi một tạo
vật nào mà chỉ bắt chước Phaolô: bỏ mọi sự lại đằng sau, lao thẳng về phía trước,
theo ơn Chúa kêu gọi.
Hiểu
như vậy thì nhất thiết phải nói mọi người đều khó nghèo. Nhưng thực tế thì lại
ít ai có tinh thần khó nghèo như vậy. Cả những người nghèo về vật chất cũng thế.
Và phải nói nhiều khi cái khó nó bó cái khôn; nghèo quá còn sức lực đâu mà nhận
ra chân lý và theo đuổi được những sự tốt lành. Người Kitô hữu chắc như vậy nên
nhiệt tình chống giặc đói, giặc dốt và quyết tâm đi vào con đường phát triển.
Tuy nhiên như Chúa đã dạy, người giàu có khó vào Nước Trời vì người giàu thường
cậy của, tin vào mình và chắc chắn về tương lai. Họ suy tính toàn chuyện làm
ăn, phá lẫm cũ xây lẫm mới. Họ bảo linh hồn: bây giờ đã bảo đảm, hãy ung dung
ngồi hưởng thụ.
Vấn đề
không phải là tìm ra chỗ trung dung cho dù "đạo trung dung thật là khó vậy";
nhưng là đưa suy nghĩ lên bình diện khác, đặt con người không phải trước mặt của
cải, mà là đối diện với Thiên Chúa. Người khó nghèo đặt mình ở trước Thiên
Chúa, như người thu thuế khi vào Ðền thờ cầu nguyện. Người ấy không như người
biệt phái. Ông này ở trước mặt Chúa mà chỉ thấy mình đầy công trạng. Ông giàu
có quá. Còn người kia chỉ thấy khiếm khuyết và bất lực. Người ấy nghèo thật. Và
Chúa bảo người này ra về thì được công chính hơn, còn người biệt phái thì
không.
Vậy
được công chính hơn nghĩa là gì? Ở đây có thể đáp là được hiền lành, ưu phiền,
đói khát, thương xót, tinh sạch, hòa bình, bắt bớ, tức là được mọi tư cách khác
của các mối phúc thật. Ðiều này cũng dễ hiểu và dễ nghiệm thôi. Chắc chắn người
thu thuế kia khi ra về sẽ đổi hẳn nếp sống. Cũng như ông Zakkhê nọ, sau khi thấy
mình nghèo trước ở trước mặt Chúa và được Chúa đổ ơn dư đầy cho đã giũ bỏ lòng
tham lam ích kỷ; trở nên nhân đạo và đói khát sự công chính; đời sống từ nay
trong sạch và sẵn sàng hy sinh vì Chúa. Ðược như vậy là vì tinh thần khó nghèo,
nghe nói thì có vẻ tiêu cực, nhưng thật rất tích cực. Kinh nguyện Hòa Bình của
thánh Phanxicô đầy những công thức diễn tả chân lý ấy. Con người càng nghèo ở
trước mặt Chúa, ơn Người càng đổ đầy vào lòng họ, khiến ta thấy tinh thần khó
nghèo thật là cơ sở. Và hiểu tinh thần khó nghèo như vậy, chúng ta mới thấy bài
sách Sôphônia và Thánh thư Phaolô thật phong phú.
C. Thực
Hành Khó Nghèo
Tiên
tri Sôphônia kêu gọi người ta: Hãy tìm công chính và sự hiền lành nếu muốn được
che chở trong ngày Chúa thịnh nộ. Là vì Người sẽ chỉ để sót lại một dân khó
nghèo, thiếu thốn. Chính họ mới là những kẻ được chăn dắt, yên hàn, hạnh phúc.
Còn
thánh Phaolô thì khẳng định dân khó nghèo thiếu thốn mà Chúa hứa để sót lại đó,
chính là chúng ta, những thành phần không và chẳng ra gì, mà Chúa đã chọn để đổ
đầy sự khôn ngoan, công chính và cứu rỗi cho chúng ta.
Chúng
ta phải cảm tạ Chúa, nhưng đừng để mất những ơn đã được. Ðừng trở nên giàu có
trước mặt Chúa và cố gắng mỗi ngày càng trở nên khó nghèo. Muốn vậy, thánh
Phaolô nói, một mặt đừng tự phụ cậy dựa vào mình cũng như vào tiền của, vào khả
năng nhân đức cũng như vào ai khác; và mặt khác hãy đón nhận Ðức Kitô là sự
khôn ngoan, giàu có, thánh thiện và sự cứu rỗi của ta. Sở dĩ ta là dân nghèo của
Chúa ngày hôm nay là vì ta đã mặc lấy Ðức Kitô. Từ nay ta càng là dân nghèo có
phúc của Người nếu ta tiếp tục đón nhận Ngài.
Ngài
thật nghèo không phải chỉ vì đã sinh ra nghèo, đã sống nghèo và đã chết nghèo.
Nhưng cái nghèo đích thực của Ngài là cái nghèo ở trước mặt Thiên Chúa Cha. Khi
bị cám dỗ nơi sa mạc, Ngài không tựa vào gì khác để chiến thắng ngoài việc tựa
vào Lời Chúa. Suốt thời kỳ giảng đạo, lương thực của Ngài là ý định của Chúa
Cha. Cuối cùng khi hoàn tất sứ mạng trên Thập giá, Ngài đã hư vô hóa mình, ra
nghèo trong sự chết, để được đổ đầy sự phục sinh và được tôn làm Chúa.
Giờ
đây, trong thánh lễ, Ngài lại đến trong hình thức khó nghèo của bánh rượu, kêu
gọi chúng ta tham dự tinh thần khó nghèo của mầu nhiệm Tử nạn, để ơn cứu rỗi được
thông ban cho chúng ta. Vậy ai khó nghèo hãy đến lãnh nhận. Ai muốn lãnh nhận
hãy thú nhận thân phận khó nghèo. Và lãnh nhận rồi, hãy có tinh thần khó nghèo
để không phải tôi sống, nhưng Ðức Kitô sống trong tôi. Ðời tôi sẽ đích thực là
đời Kitô hữu. Chúa Kitô sẽ sinh động đời tôi để mọi mặt được phát triển, để đời
tôi có đủ sắc thái của các mối phúc thật, vì không ai có thể hiền lành thật mà
lại không trong sạch, thương xót, hòa bình, hy sinh v.v... Các mối phúc thật đều
thông với nhau; và yếu tố chuyển thông ấy chính làtinh thần khó nghèo.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
HÃY VUI MỪNG (29.1.2017 – Chúa nhật 4 Thường niên, Năm A)
Thời nào con người cũng lao đao đi tìm hạnh phúc.
Phúc cho ai không khép lại để tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết mở ra để sống cho Chúa và tha nhân.
Suy niệm:
Ðời sống mỗi người đều có
những chỗ khuyết, chỗ hụt,
những mất mát, yếu kém
không thể bù đắp,
nên ở đời có vẻ chẳng ai
được hạnh phúc trọn vẹn.
Ngay giữa lúc hạnh phúc
nhất, cũng có điều làm bận lòng.
Trong bài giảng đầu tiên
trên một ngọn núi,
Ðức Giêsu đã chỉ cho ta
bí quyết để có hạnh phúc.
Hạnh phúc thực sự là quà
tặng của Thiên Chúa,
nhưng con người cần sống
tích cực để đón nhận.
Ðược Nước Trời, được Ðất
Hứa, được thấy Thiên Chúa,
được Ngài ủi an, thương
xót, và làm cho no thỏa:
những điều đó có nghĩa là
sống thân tình với Ngài,
được vui hưởng hạnh phúc
viên mãn của chính Thiên Chúa.
Chỉ nơi Ngài mới có hạnh
phúc trọn vẹn, vững bền.
Con người chỉ có hạnh
phúc khi gắn bó với Nguồn cội,
với Ðấng đã, đang và sẽ
ban cho mình tất cả.
Nói cho cùng, người hạnh
phúc là người biết mở ra,
mở ra với Thiên Chúa và
mở ra với tha nhân.
Người có tâm hồn nghèo
khó là
người thật sự nghèo,
chẳng có nhiều của cải
hay chỗ đứng trong xã hội.
Khi cảm nghiệm nỗi bất
lực của mình,
họ khiêm tốn mở ra và phó
thác cho duy Thiên Chúa.
Chính lúc đó họ thấy mình
bình an, vững vàng.
Người khao khát trở nên
công chính là
người mong nên thánh.
Nên thánh là sống theo
tinh thần của cả Bài Giảng trên Núi.
Nỗi khao khát không nguôi
làm cho con người lớn lên.
Nỗi khao khát đào sâu, để
con người chứa được nhiều.
Người sầu khổ về mọi mặt sẽ được
hạnh phúc,
khi trong cơn đau, họ
biết quay về với Thiên Chúa.
Phúc cho ai thấy đau khổ
của mình có ý nghĩa:
đau khổ để đền tội, để
phục vụ, để triển nở thiêng liêng.
Ngay cả đau khổ vô lý
cũng làm ta gần Ðấng trên thập giá.
Người bị bách hại, lăng
nhục, vu khống là người có phúc.
Ngay giữa ngặt nghèo họ
vẫn cảm được niềm vui (Cv 5,41),
vì họ dám sống và dám
chết cho Thầy Giêsu.
Người hiền lành là người có lòng
nhân đối với người khác.
Họ học gương hiền lành
của Thầy Giêsu (Mt 11,29),
không lấy oán báo oán khi
mình bị xúc phạm (Mt 21,5).
Người có lòng thương
xót là
người biết mở ra để cảm thông,
đau nỗi đau người khác và
chia sẻ những gì mình có.
Người có tâm hồn trong
sạch là
người ngay thẳng, thật thà,
không giả hình, nhưng làm
với ý hướng trong sáng.
Chính sự trong sáng của
thân xác và tâm hồn
sẽ làm người ấy dễ gặp
được khuôn mặt Thiên Chúa.
Người xây dựng hoà bình là người gieo an
hoà khắp nơi,
trong gia đình, ngoài xã
hội và giữa các dân tộc.
Họ giải toả những bất
đồng, tháo gỡ những tranh chấp.
Họ coi mọi người là anh
em, con cùng một Cha.
Thời nào con người cũng
lao đao đi tìm hạnh phúc.
Phúc cho ai không khép
lại để tìm hạnh phúc cho mình,
nhưng biết mở ra để sống
cho Chúa và tha nhân.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi.
dù có phải lo âu và thống khổ,
xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,
những người - cũng như con -
đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối,
thì xin cho con biết yêu
thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy,
thì xin giúp con luôn
biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận
khổ đau và bệnh tật
như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa,
để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
Lm. An-tôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên Tháng Giêng
29 THÁNG GIÊNG
Làm Việc – Con Đường Nên Thánh
Trong đời sống, rõ ràng có
một bậc thang các giá trị. Chúng ta đề cao lao động. Đúng.
Chúng
ta đề
cao con người hơn, trong quan hệ với lao động. Điều này
thậm chí
càng đúng hơn. Nhưng con người
cần một cái gì đó
vượt quá chính mình. Con người
cần cơm bánh hằng
ngày,
vâng, nhưng
con người không
sống duy chỉ
nhờ vào
cơm bánh.
Con người luôn
luôn
được nội tâm mình thôi
thúc
kiếm tìm
một cái
gì đó khác.
Những kho báu giấu ẩn trong thâm sâu
cõi lòng con người
thật nhiều vô kể.
Lương thức, mỹ cảm, lòng quảng
đại, hoài
niệm, hy vọng,
thao thức về huyền nhiệm, cảm thức đạo đức
và luân lý,
khát
vọng công
lý, khát vọng tự do, khả
năng liên đới
và cộng
tác … –
tất cả những điều ấy tiềm ẩn trong sâu thẳm
trái
tim con người.
Càng vượt qua chính mình
hơn, con người
càng trở
thành
‘người’ hơn.
Đó chính là
chân
trời của những giá
trị tâm
linh. Những giá
trị ấy vượt ngoài
kinh nghiệm giác
quan và
tạo thành
thế giới siêu nhiên.
Như vậy, những suy tư
của tôi
hôm nay lại
trở về với cốt lõi của
Tin Mừng lao động. Khi Giáo Hội sát cánh với người lao động
và khi Giáo Hội nỗ lực thăng tiến
phẩm giá
của họ – không phân
biệt chủng tộc, niềm tin, giai cấp –
thì đấy là
Giáo
Hội đang thực
thi sứ mạng được Đức
Kitô
trao phó
cho mình.
Đức Kitô đã và vẫn đang tiếp
tục là đồng minh và là
trạng sư vĩ đại nhất của con người.
Vì loài người chúng ta và để
cứu rỗi chúng ta – như ta tuyên xưng
trong Kinh Tin Kính
– Người
đã từ
trời xuống thế để
làm một
con người ở giữa chúng
ta.
Bất cứ ai tin vào Người
sẽ tìm
thấy ánh
sáng soi dẫn
mình tại
mỗi bước quặt cuộc đời. Dưới ánh sáng Thập Giá Đức Kitô,
lao động
là một
con đường
hoàn
thiện nhân
bản và
là một
tiếng gọi siêu nhiên. Đó
là một
con đường
nên thánh.
Ngày nay, sau Công Đồng, người giáo
dân Công Giáo
chúng
ta đạt
được một bước trưởng thành hơn,
và chiều
kích tâm linh của
lao động
cũng được nhận thức nhiều hơn. Đó
là một
linh đạo
phải được
đào sâu thêm
mãi qua việc
nỗ lực xây dựng
tình huynh đệ chân
thành
đích thực,
và qua việc
nỗ lực làm thấm
nhập ơn bình an của
Đức Kitô
vào môi trường lao động.
- suy tư
366 ngày
của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch
từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
29 Tháng Giêng
Ðứng
Núi
Này
Trông
Núi
Nọ
Một tác giả nọ đã kể lại một câu
chuyện ngụ ngôn về con lừa, con rùa và một con ruồi mà tuổi thọ chỉ vỏn vẹn một ngày như sau: Nhận thấy kiếp sống của mình
quá vắn või,
con ruồi đã
than thân trách phận như sau: "Nếu tôi có được nhiều thì giờ hơn, thì có lẽ mọi sự sẽ dễ dàng hơn. Các bạn cứ nghĩ
xem: chỉ trong vòng
24 tiếng đồng hồ, tôi phải sinh ra, phải lớn lên, phải học hỏi kinh nghiệm, phải
vui hưởng cuộc sống,
phải đau
khổ, phải già rồi cuối cùng
phải chết? Tất cả chỉ diễn ra trong vòng
24 tiếng đồng hồ".
Con lừa quanh năm ngày tháng
chỉ bị đày đọa trong những việc nặng nhọc thì lại than vãn:
"Giả như tôi chỉ có 24
tiếng đồng hồ để
sinh ra, để sống thì có lẽ tôi sẽ hạnh phúc hơn, bởi vì cái gì tôi cũng nếm thử được một chút và cái gì tôi cũng chỉ phải chịu đựng
trong một khoảnh khắc".
Ðến lượt con rùa, nó phát biểu như sau: "Tôi không hiểu được các bạn. Tôi đã sống được 300 năm nhưng tôi vẫn không
thấy đủ giờ để kể hết những kinh nghiệm tôi đã trải qua. Khi được
200 tuổi, tôi chỉ ước mơ được chết cho xong. Tôi thương hại chú ruồi,
nhưng tôi lại ghen với ông bạn lừa".
Sau khi đã kể cho nhau nghe kinh nghiệm sống của mình,
xem chừng như không thấy ai thỏa mãn kiếp sống của mình.
Người thì
than phiền sống quá ngắn, người thì ngán ngẩm vì sống quá lâu. Cuối cùng, ba chú mới rủ nhau đến vấn kế con nhện, vì con nhện vốn được xem là một con vật khôn ngoan. Sau khi nghe mọi lời kể lể, con nhện mới dõng dạc
ban cho mỗi con một lời khuyên. Với con rùa, nó nói như sau: "Hỡi lão rùa già, đừng than phiền nữa. Hỏi thử có ai
được giàu
kinh nghiệm cho bằng lão chưa?".
Quay sang con ruồi, con nhện ra lệnh: "Hỡi chú ruồi, chú cũng đừng than thân trách phận nữa. Hỏi thử có ai
có nhiều trò vui
cho bằng chú không?".
Với chú lừa, thì xem
ra lời cảnh cáo của con nhện có vẻ nặng nề hơn cả: "Còn đối với ông bạn lừa, tôi không có lời khuyên nào cho ông bạn cả. Ông bạn là người bất mãn suốt đời. Ông bạn vừa muốn được sống lâu như lão rùa lại vừa muốn sống ngắn ngủi như chú ruồi. Trời nào có thể làm vừa lòng
chú".
Câu chuyện ngụ ngôn
trên đây có thể nói lên sự bất mãn thường xuyên
trong tâm hồn của con người. Thất bại hay thành công, nghèo hèn
hay sang trọng, dốt nát
hay thông
minh, bệnh tật hay khỏe khoắn. Xem chừng như không
bao giờ con người cảm thấy hoàn toàn hài lòng với chính mình, với người khác và với cuộc sống. con người dễ dàng đứng ở núi này nhìn sang núi nọ. Tựu trung, có lẽ sự bất mãn là biểu hiện của một thiếu sót lớn lao trong tâm hồn con người: đó là thiếu sót Tình Yêu. Có tình yêu,
người ta sẽ không còn bất mãn. Có tình
yêu, xem chừng người ta cũng
không màng đến thời gian. Một tác giả nào đó đã nói:
"Thời
gian qúa
chậm đối
với những kẻ chờ đợi và
sợ hãi.
Thời gian lại
quá
dài đối với những kẻ than phiền. Nhưng với những người đang
yêu, thì thời gian không còn nữa".
Phải chăng tình yêu không là liều
thuốc để chữa trị căn bệnh bất mãn
trong lòng
người? Có chấp nhận chính mình, có yêu thương chính mình, chúng ta sẽ không còn phải
than thân trách phận nữa. Có yêu thương
tha nhân,
chúng
ta sẽ thấy được
tha nhân là nguồn hạnh phúc của mình.
Có yêu đời,
chúng
ta mới đời dễ thương.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét