01/02/2017
Thứ Tư tuần 4 thường niên.
Bài Ðọc I (Năm I):
Dt 12, 4-7. 11-15
"Chúa sửa dạy
ai mà Người yêu mến".
Bài trích thơ gởi tín
hữu Do thái.
Anh em thân mến, khi
chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu và anh em đã quên lời
yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: "Hỡi con, con
chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì
Chúa sửa dạy ai mà Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con".
Trong khi được sửa dạy,
anh em hãy bền chí, Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con
nào mà cha không sửa phạt.
Ngày nay, hẳn ai cũng
coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại
hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy.
Vì thế, anh em hãy
nâng đỡ những bàn tay bủn rủn và những đầu gối rụng rời.
Ðường anh em đi, anh
em hãy bạt cho thẳng, để người què khỏi bị trẹo chân, nhưng được an lành.
Anh em hãy sống hòa
thuận với hết mọi người, hãy ăn ở thánh thiện, chẳng vậy không ai được nhìn thấy
Thiên Chúa.
Anh em hãy coi chừng đừng
ai để mất ơn Chúa, đừng để một rễ cay đắng nào mọc chồi gây xáo trộn và làm cho
nhiều người bị nhiễm độc.
Ðó là Lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv. 102, 1-2,
13-14, 17-18a
Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại từ thuở nầy tới
thuở kia cho những ai kính sợ Ngài. (17)
Xướng 1) Linh hồn tôi
ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể trong người tôi, hãy chúc tụng thánh danh
Ngài. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài.
- Ðáp.
2) Cũng như người cha
yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Ngài. Ngài biết chúng tôi
được luyện bằng chất gì, Ngài nhớ rằng tro bụi là chính chúng tôi! - Ðáp.
3) Nhưng lòng yêu
thương của Chúa vẫn còn tồn tại từ thuở nọ tới thuở kia cho những ai kính sợ
Ngài, và đức công minh Chúa còn dành để cho con cháu họ, cho những ai giữ lời
minh ước của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Ga 8,12
Alleluia, Alleluia. -
Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống.
- Alleluia.
Phúc Âm: Mc 6,1-6
"Không một
tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".
Bài trích Phúc Âm theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu trở
về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người.
Ðến ngày Sabát, Người
vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người,
nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy?
Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc
con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở
với chúng ta đây sao?"
Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa Giêsu liền bảo họ:
"Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng
mình".
Ở đó Người không làm
phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì
họ cứng lòng tin.
Người đi rảo qua các
làng chung quanh mà giảng dạy.
Ðó là Lời Chúa.
Suy Niệm: Cuộc sống âm
thầm
Thánh Gioan Bosco, nhà
giáo dục giới trẻ lừng danh nhất của thế kỷ 19 đã kể lại giấc mơ năm Ngài lên 9
tuổi như sau: Ngài mơ thấy mình ở giữa một đám trẻ đang chơi đùa, nghịch ngợm,
cãi cọ và nói những lời thô tục. Muốn cho đám trẻ một bài học, cậu bé liền gọi
một số em ra và dùng nắm tay để đe dọa. Nhưng chính lúc đó, Chúa Giêsu hiện ra
gọi cậu bé lại và nói:
- Này Gioan, muốn biến
những con chó sói này thành chiên con, thì con không nên dùng sức mạnh của đôi
tay, mà hãy dùng lòng tốt.
Lúc đó, cậu bé thưa với
Chúa:
- Lạy Chúa, chắc con
không làm được đâu.
Chúa Giêsu liền chỉ
cho Gioan Bosco thấy gương mặt hiền hậu của một người mẹ đang đi bên cạnh và
nói:
- Ðây là mẹ của con và
cũng là mẹ của chúng nữa. Với mẹ, con có thể biến đổi giới trẻ cho Nước Chúa,
cho một thế giới tốt đẹp hơn.
Quả thật, về sau, cả
công cuộc giáo dục giới trẻ của Gioan Bosco đều được đặt dưới sự hướng dẫn và bảo
trợ của Mẹ Maria. Nhưng để có thể đến với Mẹ Maria, Gioan Bosco đã tiếp nhận lời
dạy bảo và gương sáng của chính người mẹ ruột của mình. Có lẽ ngài không bao giờ
quên lời căn dặn của mẹ ngài: "Mẹ đã sinh ra trong cảnh nghèo, mẹ đã sống
trong cảnh nghèo; nếu con muốn làm linh mục để nên giàu có, thì mẹ sẽ không bao
giờ đến thăm con nữa".
Mẹ Maria có lẽ đã
không bao giờ nói một lời như thế với Chúa Giêsu, khi Ngài đã sống bên cạnh Mẹ
Maria tại Nazareth trong suốt 30 năm. Tin Mừng đã không ghi lại một lời nào của
Mẹ trong giai đoạn này, nhưng chắc chắn, cũng như mọi đứa trẻ, Chúa Giêsu đã sống
và lớn lên một cách bình thường, nghĩa là Ngài đã từng uống từng lời dạy dỗ của
Mẹ. Sống kiếp người chỉ có 33 năm, thì 30 năm, Chúa Giêsu lại dành cho cuộc sống
ẩn dật âm thầm tại Nazareth. Ðây chắc chắn không phải là một giai đoạn uổng phí
trong cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã không lập gia đình, nhưng đã sống phần
lớn cuộc sống của Ngài trong gia đình, một cuộc sống âm thầm và bình thường, đến
độ những người đồng hương của Ngài phải thốt lên với giọng gần như khinh bỉ:
"Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria sao?"
Phản ứng của những người
đồng hương về những năm âm thầm của Chúa Giêsu tại Nazareth là một xác quyết rằng
Chúa Giêsu đề cao đời sống gia đình. Ngài đã không sống như một siêu nhân, Ngài
đã không làm bất cứ một việc phi thường nào, nhưng đã sống một cách bình dị
trong cảnh nghèo như mọi người. Chính vì Con Thiên Chúa đã sống một cách bình dị
những thực tại hàng ngày của cuộc sống gia đình, mà đời sống ấy mang một giá trị
và có ý nghĩa đối với con người. Tất cả những biến cố trong cuộc sống của Con
Thiên Chúa làm người đều đáng được chúng ta chiêm ngưỡng, và trong ánh sáng của
những biến cố ấy, chúng ta được mời gọi để nhìn vào cuộc sống hàng ngày của
chúng ta.
Nguyện xin Chúa thánh
hóa cuộc sống mỗi ngày của chúng ta, để chúng ta sống một cách sung mãn từng
giây phút và trở thành nhân chứng tình yêu Chúa trước mặt mọi người.
Veritas Asia
Lời
Chúa Mỗi Ngày
Thứ Tư Tuần 4 TN, Năm lẻ
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ:
Phải coi trọng những người trong gia tộc.
Con người hay bị chi phối bởi thành kiến: chủng tộc, giai cấp, nghề nghiệp,
xóm làng, gia đình … Những thành kiến này ảnh hưởng đến sự phê phán và cách đối
xử của một người với người khác. Để có thái độ khách quan, con người cần phải
vượt qua những bức tường thành kiến này mới có thể nhìn thấy những cái hay của
những người trong gia đình, cộng đòan, hay cùng quê hương xứ sở.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong những mối tương quan của con người.
Trong Bài Đọc I, tác-giả Thư Do-Thái ví mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con
người như mối liên hệ giữa cha và con. Như người cha phải sửa phạt con cái,
Thiên Chúa cũng phải sửa phạt con người. Mục đích của việc sửa phạt không phải
vì ghét bỏ, nhưng để giúp đức tin của con người ngày càng vững mạnh hơn, để họ
có thể đương đầu với những cám dỗ và thử thách của cuộc đời. Trong Phúc Âm,
Thánh Marcô tường thuật thái độ khinh thường của những người đồng hương với
Chúa Giêsu. Họ đã không vượt qua được những thành kiến về nghề nghiệp và gia
đình, để tin vào sự khôn ngoan và uy quyền của Thiên Chúa. Chúa Giêsu báo trước
cho các ngôn sứ 3 nơi mà họ bị khinh thường: gia đình, họ hàng, và quê hương.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I: Dạy dỗ và sửa phạt vì lo lắng cho tương lai của con.
1.1/
Hai kiểu mẫu giáo dục: Người tị nạn Việt-Nam chắc chắn đã nhiều lần bị giằng co giữa 2 kiểu
mẫu giáo dục con:
(1) Kiểu giáo dục Âu-Mỹ: Không được dùng bạo lực với con nít như: mắng
chửi, đe dọa, và đánh đòn. Phải dùng những cách để trẻ con nhận ra lỗi lầm của
nó như đứng ra một nơi riêng và tạm thời không cho tham gia vào những sinh họat
chung. Phải chăng những cách thức này hiệu quả cho tất cả mọi trẻ?
(2) Kiểu giáo dục Kinh Thánh và Việt-Nam: Tác-giả Thư Do-Thái khuyên: “Con
ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa
thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi
cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em
như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?”
Động từ Hy-Lạp dùng ở đọan này là “mastigo,w = đánh đòn; kỷ luật; trừng phạt.”
Một người có thể cho cả 3 nghĩa đều thích hợp ở đây. Nhưng trong các Sách Khôn
Ngoan và Sách Tiên Tri, các hình phạt của Thiên Chúa dành cho những người không
tuân theo lệnh của Ngài, không phải chỉ đơn thuần là các cách thức giúp con
người nhận ra lầm lỗi; nhiều lần các tác giả đã nói đến cây roi (Pro 10:13,
13:24, Isa 9:4), đổ máu, và ngay cả cái chết. Truyền thống Việt-Nam cũng theo
truyền thống Kinh-Thánh khi nói: “Thương cho roi cho vọt. Ghét cho ngọt cho
bùi.”
Người cha vô trách nhiệm là người cha không huấn luyện và sửa dạy con mình,
và để mặc cho chúng muốn làm gì thì làm. Một đứa trẻ vô kỷ luật sẽ không thể
thành công trên đường đời. Tương tự, cái đau khổ nhất của con người là khi
Thiên Chúa để mặc họ muốn làm gì thì làm. Một khi Thiên Chúa để mặc, ma quỉ sẽ
vào và thao túng người đó; họ sẽ trở thành nô lệ cho ma quỉ.
1.2/
Tâm lý của người bị sửa dạy: Đa số con người đều không muốn cho ai nói động
đến, sửa dạy, và sửa phạt mình. Tác giả Thư Do-Thái cũng nói lên điều này:
“Ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền.
Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình
an và công chính.” Mục đích của việc sửa dạy là nhắm tới lợi ích tương lai của
đương sự. Chẳng hạn, khẩu hiệu huấn luyện các binh lính: “Thao trường đổ mồ
hôi, chiến trường bớt đổ máu.” Tương tự trong việc huấn luyện đức tin: “Bởi
vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. Hãy
sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được
chữa lành.” Để con người có thể vượt qua mọi đau khổ của cuộc đời, đức tin con
người cần được thử luyện như vàng thử lửa.
Hơn nữa, việc sửa dạy không phải chỉ nhắm tới cá nhân đương sự mà thôi,
nhưng còn nhắm tới lợi ích của cộng đòan, và những người đương sự sẽ có trách
nhiệm nữa: “Anh em phải cố ăn ở hoà thuận với mọi người, phải gắng trở nên
thánh thiện; vì không có sự thánh thiện, thì không ai sẽ được thấy Chúa. Anh em
phải coi chừng, kẻo có ai lừng khừng mà mất ân sủng của Thiên Chúa, kẻo có ai
trở nên rễ đắng nảy mầm, gây xáo trộn và do đó làm hư hỏng nhiều người.”
2/
Phúc Âm: Chúa Giêsu bị khinh thị tại quê quán của Ngài.
2.1/
Họ nhận ra sự khôn ngoan và uy quyền của Chúa Giêsu: Khi họ nghe
những lời giảng dạy của Chúa trong hội đường, và chứng kiến các phép lạ Ngài
làm, một cách khách quan họ đã phải thốt lên: "Bởi đâu ông ta được như
thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những
phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Thay vì truy tầm căn nguyên của những điều lạ
lùng này, họ để thành kiến ảnh hưởng đến sự phê phán và cách đối xử của họ với
Chúa Giêsu. Lý do sâu xa hơn là vì kiêu ngạo, con người không muốn ai hơn mình;
nhất là những người ở địa vị thấp kém hơn mình về tuổi tác, gia thế, và hòan
cảnh xã hội.
2.2/
Họ khinh thường Chúa Giêsu vì 2 lý do:
(1) Nghề nghiệp: của Chúa Giêsu là thợ mộc. Cũng như nghề nghiệp đánh cá của các Tông-đồ,
nghề thợ mộc được coi như nghề lao động tay chân và ít học thức. Giảng dạy khôn
ngoan không thể đến từ những người làm những việc này. Nói theo kiểu Việt-Nam,
“con vua thì lại làm vua, con bác xã chùa lại quét lá đa.”
(2) Gia tộc tầm thường: “Ông ta không phải con bà Maria, và là anh em
của các ông James, Joses, Judah và Simon sao? Chị em của ông không phải là bà
con lối xóm với chúng ta sao?" Có lẽ Thánh Giuse đã qua đời lâu trước khi
biến cố này xảy ra, nên không thấy họ nhắc tới Thánh Giuse, mà chỉ đề cập đến
Đức Mẹ. Những tên được đề cập tới có lẽ là các anh chị em họ của Chúa. Họ có ý
muốn nói: một người sinh ra từ một gia tộc tầm thường như thế, không thể nào
làm được những công việc như Chúa Giêsu đã làm.
2.3/
Ba nơi ngôn sứ bị coi thường: Lẽ ra, “một người làm quan cả họ được nhờ;”
nhưng khi cả họ không được nhờ, không phải vì cá nhân người làm quan, nhưng vì
sự khinh thường của những người trong họ hàng. Chúa Giêsu trở về quê quán là để
giảng dạy và giúp đỡ những người thân thuộc lối xóm; nhưng đứng trước thái độ
khinh thường của họ, “Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ
đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không
tin.” Chúa Giêsu để lại cho các ngôn sứ một bài học thực tế, họ sẽ bị khinh
thường tại 3 nơi: (1) chính quê hương mình; (2) giữa đám bà con thân thuộc; và
(3) trong gia đình mình.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Để có thể thành công trong cuộc đời, chúng ta cần phải được sửa dạy và
chịu hình phạt. Tương tự, để đức tin của chúng ta có thể vượt qua những thử
thách trong cuộc đời, Thiên Chúa cần sửa phạt những khi chúng ta lầm lỗi.
- Thành kiến làm chúng ta mù quáng và đối xử bất công với người khác. Để
bảo tòan sự công bằng, chúng ta cần lọai bỏ thành kiến và chú trọng tới những
gì người khác làm hay đạt được. Chúng ta cần có thái độ này với những người
trong gia đình và cộng đòan.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên OP
Mc 6,1-6
ĐỨC TIN VÀ PHÉP LẠ
Chúa Giê-su đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt
tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. Người lấy làm lạ vì họ không tin.” (Mc 6,5-6)
Suy niệm: Thánh sử Mác-cô đã gây “sốc” khi nói rằng Chúa Giê-su “không
thể” làm phép lạ tại Na-da-rét, quê hương của Ngài. Ai dám nghĩ rằng
Chúa không đủ quyền năng? Bằng chứng là Chúa đã làm nhiều phép lạ đây đó. Phải
chăng Chúa không thích làm phép lạ giữa những người thân của Ngài? Không thể,
vì Ngài từng bộc lộ tình yêu của Ngài cho người thân rằng: “Bánh trên bàn cần
phải cho con cái trước đã.” Vậy, vì lý do gì? Tin Mừng đã trả lời: vì họ không
tin. Như vậy, đối với Chúa Giê-su, đức tin và phép lạ gắn chặt với nhau như
hình với bóng. Có đức tin thì sẽ thấy phép lạ. Nói cách khác, muôn vàn phép lạ
Chúa làm không nhằm khoa trương quyền năng hay nhằm biến đổi mọi sự bên ngoài,
nhưng nhằm mục đích cứu độ, nghĩa là muốn chạm đến tâm hồn con người, muốn khơi
động tâm hồn thoát khỏi tình trạng ù lì để biến đổi trái tim họ, củng cố đức
tin của họ. Mục đích của phép lạ không nhằm mục đích thay đổi lớp áo hời hợt
bên ngoài mà là thánh hoá con người từ thâm tâm, để con người yêu mến Chúa hơn.
Mời Bạn: Nhiều người muốn chứng kiến
phép lạ của Chúa, nhưng mong muốn các phép lạ ấy đừng chạm đến, đừng thay đổi
cuộc đời họ. Còn bạn, bạn muốn những việc Chúa làm trong năm mới này củng cố đức
tin và làm thay đổi cuộc đời bạn không?
Sống Lời Chúa: Trung thành suy niệm lời
Chúa hằng ngày.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Chúa cứ làm nơi con những gì Chúa muốn, vì
chỉ nhờ Chúa, con mới có sự sống đời đời.
Quê quán của Người (1.2.2017 – Thứ tư Tuần 4 Thường niên)
Cần tập nhận ra Chúa đến với mình trong cái bình thường của cuộc sống. Cần thấy Chúa nơi những người tầm thường mà ta quen gặp mỗi ngày.
Suy niệm:
Chẳng rõ Đức Giêsu đã xa gia đình, xa ngôi làng
Nadarét bao lâu rồi.
Nhưng hôm nay, Ngài lại trở về với hội đường của làng
vào ngày sabát.
Dù sao Ngài đã có danh tiếng trước đám đông, lại có
môn đệ đi theo…
Trở về với hội đường thân quen, Ngài được mời đọc sách
thánh và giảng dạy.
Nghe lời Ngài giảng, nhiều người sửng sốt ngỡ ngàng.
“Bởi đâu ông này được như thế?
Ông được khôn ngoan như vậy nghĩa là làm sao?
Ông làm được những phép lạ như thế nghĩa là gì?” (c.
2).
Những câu hỏi cho thấy người dân Nadarét nhìn nhận
sự khôn ngoan trong lời giảng và quyền năng trong việc
làm
mà họ bắt gặp nơi con người ông Giêsu, người cùng làng
với họ.
Chỉ có điều là họ nghĩ không ra nguồn gốc của những
chuyện đó.
Tại sao họ lại không coi Đức Giêsu là người của Thiên
Chúa,
và coi Thiên Chúa là nguồn gốc mọi khả năng lạ lùng
của Ngài?
Câu trả lời là vì người dân làng đã quá quen với ông
Giêsu.
Họ tự hào biết rất rõ về nghề nghiệp của ông: một bác
thợ.
Họ tự hào biết rất rõ về họ hàng ruột thịt: mẹ và anh
chị em của ông,
những người họ có thể kể tên, những người đang là bà
con lối xóm với họ.
Họ cũng biết rõ quãng đời thơ ấu và trưởng thành của
ông Giêsu.
Chính cái biết này đã ngăn cản
khiến họ không thể tin ông Giêsu là một ngôn sứ.
Hay đúng hơn chính vì họ có một hình ảnh rất cao cả về
một ngôn sứ
nên quá khứ bình thường của Đức Giêsu khiến họ không
thể tin được.
Người dân Nadarét đã không ngờ mình có người làng cao
trọng đến thế:
một ngôn sứ, một Đấng Kitô, một Thiên Chúa làm người,
ở với họ.
Và họ cũng không ngờ sự cao trọng đó lại được gói
trong lớp áo tầm thường,
không ngờ Đức Giêsu sẽ là người làm cho cả thế giới
biết đến Nadarét.
Làm thế nào chúng ta tránh được sai lầm của người
Nadarét xưa?
Cần tập nhận ra Chúa đến với mình trong cái bình
thường của cuộc sống.
Cần thấy Chúa nơi những người tầm thường mà ta quen
gặp mỗi ngày.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
dân làng Nadarét đã không tin Chúa
vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công.
Các môn đệ đã không tin Chúa
khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự.
Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa
chỉ vì Chúa sống như một con người.
Cũng có lúc chúng con
không tin Chúa
hiện diện dưới hình bánh
mong manh,
nơi một linh mục yếu
đuối,
trong một Hội thánh còn
nhiều bất toàn.
Dường như Chúa thích ẩn
mình
nơi những gì thế gian chê
bỏ,
để chúng con tập nhận ra
Ngài
bằng con mắt đức tin.
Xin thêm đức tin cho
chúng con
để khiêm tốn thấy Ngài
tỏ mình thật bình thường
giữa lòng cuộc sống.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
1 THÁNG HAI
Sức Mạnh Giấu Ẩn
Trong Sự Bất Lực
Thiên Chúa hiện diện ở
giữa mọi nền văn hóa của con người, bởi vì Ngài hiện diện nơi chính con người –
là tạo vật mà Ngài đã dựng nên theo hình ảnh Ngài. Thiên Chúa không ngừng hiện
diện nơi những ai – bằng kinh nghiệm và bằng cảm hứng của mình – đóng góp vào
việc hình thành những giá trị, những tập tục và những cơ chế làm nên di sản văn
hóa của toàn thế giới này.
Nhưng vị Vua Vinh Hiển
còn muốn đi vào trong những nền văn hóa này bằng một cách thế trọn vẹn hơn nữa.
Ngài muốn đi vào trong cung lòng của bất cứ ai sẵn sàng mở rộng để đón nhận
Ngài: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên! Cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức
Vua vinh hiển ngự vào!” Trong biến cố dâng Đức Giêsu vào đền thờ, Thiên Chúa đã
vào đền thánh của Ngài trong tư cách là “Vua Vinh Hiển”.
Nhưng – “Đức Vua vinh
hiển đó là ai?” (Tv 24, 7 – 8). Lễ Dâng Chúa Giê-su Vào Đền Thờ trao cho chúng
ta câu trả lời. Chúng ta nhìn ngắm Maria và Giu-se ẵm một hài nhi vào đền thờ
Giê-ru-sa-lem. Hôm ấy là bốn mươi ngày sau biến cố hài nhi chào đời.
Và hai người đã trình
diện hài nhi cho các tư tế trong đền thờ để chu toàn lề luật. Nhưng, với thái độ
tuân phục ấy, hai người đang chu toàn một cái gì đó còn hơn cả lề luật. Mọi sấm
ngôn thuở xưa giờ đây đang được hiện thực trọn vẹn, vì Maria và Giu-se đang
mang vào đền thờ “ánh sáng của mọi dân tộc.”
Thiên Chúa đi vào đền
thánh không phải trong tư cách của một đấng quyền lực mạnh mẽ, nhưng là trong
dáng dấp của một em bé trên đôi cánh tay mẹ mình. Vua Vinh Hiển không đến trong
uy phong lẫm liệt của nhân loại, không rình rang đình đám ồn ào. Ngài không gây
giật gân, khiếp hãi. Ngài vào đền thờ vẫn với cung cách như khi Ngài vào thế giới:
là một bé thơ. Ngài vào đền thờ trong lặng lẽ, nghèo hèn, và hiện diện với Ngài
là những kẻ nghèo hèn và những người khôn ngoan.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by
Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Thứ Tư tuần IV thường niên
Dt 12, 4-7.11-15; Mc
6, 1-6
LỜI SUY NIỆM: “Đức Giêsu ra khỏi đó và đến nơi quê quán của
Người, có các môn đệ đi theo” (Mc 6,1).
Chúa Giêsu trở về quê
quán của Chúa, không đơn thuần là trở về thăm gia đình và bà con xóm giềng của
Chúa. Bởi chuyến trở về này, Chúa về cùng với các môn đệ của Chúa và đến ngày
Sabát Chúa đã vào hội đường để giảng dạy. Như vậy Chúa trở về với tư cách là một
vị Thầy. Chúa Giêsu đã tự đặt mình vào những thử thách trong sứ vụ của mình.
Trong mọi công tác tông đồ giáo dân của mọi Ki-tô hữu, cũng khó tránh những thử
thách mà Chúa Giêsu đã phải chịu trên quê quán của Ngài. Nên trong mọi cọng tác
tại quê quán, tại giáo xứ chúng ta cần phải mềm mại biết tự uốn nắn; có tinh thần
khiêm tốn, và xem mọi công việc là của Chúa, bản thân mình chỉ cọng tác. Mọi
thành quả là ân ban của Chúa.
Mạnh Phương
01 Tháng Hai
Rừng Mắm
Trong một chuyện ngắn
mang tựa đề "Rừng Mắm", cố văn sĩ Bình Nguyên Lộc đã giải thích về
ích lời của cây mắm qua mẩu đối thoại sau đây giữa hai ông cháu:
- Cây mắm sao con
không nghe nói đến bao giờ?
- Con không nghe
nói vì cây mắm không dùng được để làm gì hết, cho đến làm củi chụm lửa cũng không
được nữa là.
- Vậy trời sinh nó
làm chi mà vô ích dữ vậy ông nội, lại sinh ra hằng hà sa số như là cỏ vậy?
Bờ biển này mỗi năm
được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước, phù sa là đất bùn mềm lũn
và không bao giờ thành đất thịt để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó
cho chắc đất. Một mai kia, cây mắm sẽ ngã rạp, giống tràm sẽ nối ngôi mắm. Rồi
sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được. Thấy thằng cháu nội
ngơ ngác chưa hiểu, Ông cụ vịn vai nó nói tiếp: "Ông với tía, má con là
cây mắm, chân giam trong bùn. Ðời con là tràm, chân vẫn còn lắm bùn chút ít,
nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Ðời cây
mắm tuy vô ích nhưng không uổng đâu con".
Mỗi lần nhìn lại thời
gian đã qua, chúng ta thường tự hỏi: "Tôi đã làm gì được cho tôi, cho quê
hương, cho Giáo Hội?". Ý nghĩ về sự vô tích sự của mình có thể tạo nên
trong tâm hồn chúng ta mỗi chua xót, đắng cay, thất vọng.
Chúng ta hãy nhìn lại
của đất phù sa và cây mắm trong câu chuyện trên đây. Cần phải có cây mắm, đất
phù sa mới trở thành đất thịt, để rồi từ đó cây tràm và các laọi câu khác mới
có thể mọc lên.
Mỗi một người sinh ra
trên cõi đời này, dù tàn tật, dù dốt nát và xấu xa đến đâu, cũng có thể là một
thứ cây mắm, cây tràm để cho đất đai trở thành màu mỡ, nhờ đó những cây ăn trái
mới có thể vươn lên.
Ước gì ý nghĩa ấy giúp
chúng ta có một cái nhìn lạc quan hơn về quá khứ, về chính bản thân của chúng
ta. Trong Tình Yêu Quan Phòng của Chúa, mỗi người đều có một chỗ đứng trong lịch
sử nhân loại và đều có một giá trị bổ túc cho những thiếu sót của người khác.
Với ý nghĩ ấy, còn tâm
tình nào xứng hợp hơn trong giây phút này cho bằng tri ân, cảm mến đối với
Thiên Chúa Tình Yêu? Cảm tạ Ngài đã tạo dựng nên chúng ta, cảm tạ ngài đã ban
chúng ta được phục vụ Ngài, cảm tạ Ngài đã cho chúng ta được hữu dụng trong
Tình Yêu Quan Phòng của ngài.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét