24/01/2017
Thánh Phanxicô Salêsiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh.
Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh tại Xavoa năm 1567. Sau khi làm linh mục, người tận tuỵ với công việc canh tân Hội Thánh công giáo tại quê hương. Được chọn làm giám mục Geneve, người tỏ ra là một mục tử lo lắng cho giáo sĩ và giáo dân. Người là vị sáng lập dòng các nữ tu thăm viếng cùng với chị Phanxica đờ Săngtan. Suốt cuộc đời, người trở nên mọi sự cho mọi người qua lời nói và chữ viết, cũng như khi tranh luận thần học với anh em Tin Lành, khi giúp cho giáo dân biết sống đời sống thiêng liêng, lo lắng chăm nom cả kẻ bé lẫn người lớn. Thánh nhân qua đời ở Lyon ngày 28 tháng 12 năm 1622.
Bài Ðọc I: (năm I) Dt
10, 1-10
"Lạy Chúa, nầy
tôi đến để làm theo thánh ý Chúa"
Bài trích thơ gởi tín
hữu Do thái.
Anh em thân mến, lề luật
là bóng dáng của những việc tốt lành tương lai, chớ không phải chính hình ảnh
chân chính của sự thật.
Lề luật ấy với những
hy tế được hiến dâng liên tiếp hằng năm không bao giờ có thể làm cho những kẻ đến
tham dự được hoàn hảo.
Chẳng vậy, người ta sẽ
chấm dứt việc tế lễ, vì lẽ những người làm việc phượng tự nầy, đã được tẩy sạch
một lần rồi, nên không còn ý thức mình có tội nữa.
Ngược lại, các lễ tế hằng
năm nhắc nhở người ta nhớ đến tội lỗi.
Bởi chưng máu bò dê
không thể xóa bỏ tội lỗi.
Vì thế, khi đến trong
thế gian, Chúa Giêsu phán: "Chúa đã không muốn của hy tế và của lễ hiến
dâng, nhưng đã tạo nên cho tôi một thể xác.
Chúa không nhận của lễ
toàn thiêu và của lễ đền tội.
Nên tôi nói: Lạy Chúa,
nầy tôi đến để thi hành thánh ý Chúa, như đã nói về tôi ở đoạn đầu cuốn sách.
Sách ấy bắt đầu như thế
này: Của lễ hy tế, của lễ hiến dâng, của lễ toàn thiêu và của lễ đền tội, Chúa
không muốn cũng không nhận, mặc dầu được hiến dâng theo lề luật".
Ðoạn Người nói tiếp:
"Lạy Chúa, nầy đây tôi đến để thi hành thánh ý Chúa".
Như thế đã bãi bỏ điều
trước để thiết lập điều sau, chính bởi thánh ý đó mà chúng ta được thánh hóa nhờ
việc hiến dâng Mình Chúa Giêsu Kitô một lần là đủ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv. 39,2 và
4ab, 7-8a, 7-9, 10, 11
Ðáp: Lạy Chúa, nầy tôi xin đến, để thực thi ý Chúa. (8a
và 9a)
Xướng 1) Tôi đã cậy
trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Ngài đã nghiêng mình về bên tôi, và Ngài đã
nghe tiếng tôi kêu cầu. Ngài đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng
Thiên Chúa chúng ta. - Ðáp.
2) Hy sinh và lễ vật
thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai tôi. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn
thiêu và đền tội, bấy giờ tôi đã thưa: "Nầy tôi xin đến". - Ðáp.
3) Như trong cuốn sách
đã chép về tôi: lạy Chúa, tôi sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa
ghi tận lòng tôi. - Ðáp.
4) Tôi đã loan truyền
đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực tôi đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết
rồi. - Ðáp.
5) Tôi chẳng có che đậy
đức công minh Chúa trong lòng tôi: tôi đã kể ra lòng trung thành với ơn phù trợ
Chúa, tôi đã không giấu giếm gì với Ðại Hội về ân sủng và lòng trung thành của
Chúa. - Ðáp.
Alleluia: Ga 15,15b
Alleluia, Alleluia. -
Chúa phán: "Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe
biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết". - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 3,31-35
"Ai làm theo ý
Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
Bài trích Phúc Âm theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, mẹ Chúa Giêsu
và anh em Người đến và đứng ở ngoài sai người vào mời Chúa ra.
Bấy giờ có đám đông ngồi
chung quanh Người và họ trình với Người rằng: "Kìa mẹ và anh em Thầy ở
ngoài kia đang tìm Thầy".
Người trả lời rằng:
"Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta?"
Rồi đưa mắt nhìn những
người ngồi vòng quanh, Người nói: "Ðây là mẹ Ta và anh em Ta. Vì ai làm
theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".
Ðó là Lời Chúa.
Suy Niệm: Ai là Mẹ
Ta
Khổng Tử có một người
cháu tên là Khổng Liệt và một người học trò tên là Bật Thứ Thiên, cả hai ra làm
quan cùng một thời. Một hôm Khổng Tử hỏi người cháu:
- Từ khi ra làm quan đến
giờ, ngươi đã được điều gì và mất điều gì?
Khổng Liệt trả lời:
- Từ khi làm quan, tôi
chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: không có giờ học tập vì thế trình độ vẫn
thấp, lương bổng không đủ giúp người thân, công việc bề bộn nên không có giờ
thăm viếng bạn bè.
Nghe thế, Khổng Tử rất
buồn lòng.
Một ngày nọ, Khổng Tử
cũng hỏi Bật Thứ Thiên cùng một câu như đã hỏi Khổng Liệt, Bật Thứ Thiên đáp:
- Từ khi ra làm quan,
tôi chưa mất điều gì, mà đã được ba điều: Những điều đã học nay đem ra thực
hành, vì thế việc học được rõ ràng thêm; lương bổng tuy ít nhưng cũng có thể
giúp người thân phần nào, do đó mà thân thiện hơn; công việc tuy nhiều, những
cũng bớt chút thời giờ thăm bạn bè khiến tình bạn càng thân thiết.
Câu trả lời của Bật Thứ
Thiên được Khổng Tử khen là chí lý và thực là câu trả lời của người quân tử.
Câu trả lời của Chúa
Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu
đời công khai, Chúa Giêsu đã đánh mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy,
khi Chúa đang ngồi giảng giữa một đám đông, có kẻ nói với Ngài: "Thưa Thầy,
có mẹ và anh em Thầy đang tìm Thầy". Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ,
mà Ngài còn nói: "Ai là mẹ Ta, ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý
muốn của Thiên Chúa, người ấy là mẹ Ta và là anh em Ta".
Thật ra, qua câu nói
này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người hoàn toàn tuân
theo ý Chúa. Mẹ đã hiểu rõ sứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói
của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể
hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi thánh ý Chúa.
Chúa Giêsu là Con Một
Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở nên con cái Thiên
Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được
liên kết với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình
nghĩa cha mẹ, anh chị em ruột thịt.
Ước gì Lời Chúa hôm
nay giúp chúng ta luôn biết sống theo thánh ý Chúa, để chúng ta được nối kết
trong tình nghĩa với Chúa, với Mẹ và với tất cả mọi người.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 3 TN, Năm lẻ
Bài đọc: Heb
10:1-10; Mk 3:31-35.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thi hành
thánh ý Thiên Chúa.
Có một câu truyện dẫn
chứng sự quan trọng của việc làm theo thánh ý Thiên Chúa như sau: Một vị vua
kia muốn trao tài sản cho các con; nhưng để dạy các con một bài học phải tránh
xa sự hào nhóang bên ngòai, nhà vua cho gói những thứ thật quí vào những hộp trông
có vẻ tầm thường, và những thứ tầm thường vào những hộp trông rất lộng lẫy bên
ngòai. Sau đó, vua cho gọi các con vào để lựa chọn, bắt đầu từ hòang tử lớn nhất.
Đa số các hòang tử đều chọn các hộp lộng lẫy. Đến phiên hòang tử út, chàng tần
ngần một lát, rồi nói nhỏ với cha: Con không biết cách chọn; nhờ cha chọn cho
con. Nhà vua đã chọn của quí nhất cho hòang tử út.
Các Bài Đọc hôm nay
xoay quanh chủ đề sự quan trọng của việc làm theo thánh ý Thiên Chúa. Trong Bài
Đọc I, tác-giả Thư Do-Thái tiếp tục so sánh giữa 2 lễ vật hy sinh: máu chiên bò
theo Lề Luật của Cựu Ước và Máu Đức Kitô của Tân Ước. Máu chiên bò không thể
xóa sạch tội cho con người, nên phải tái diễn mỗi năm. Máu Đức Kitô chỉ cần đổ
ra một lần là đủ xóa sạch tội cho con người, vì là máu đổ ra tự nguyện để làm
theo thánh ý Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tuyên bố: mối liên hệ giữa
con người và Thiên Chúa không đặt căn bản trên liên hệ ruột thịt, nhưng trên
căn bản làm theo thánh ý của Ngài.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Lạy Thiên Chúa! Này Con đây, Con đến để thực thi ý Ngài.
1.1/ Lề Luật và hy lễ
chiên bò: “Lề Luật chỉ là hình bóng của những
gì tốt đẹp hơn sẽ tới, chứ không phải là phản ánh chính xác những thực tại đó.
Lề Luật không bao giờ có thể làm cho những người tiến lại gần Thiên Chúa được
nên hoàn thiện, nhờ những hy lễ người ta dâng năm này qua năm khác.” Điều
tác-giả muốn nói ở đây, trong sự quan phòng của Thiên Chúa, cái hòan hảo đến
sau sẽ thay thế cho cái bất tòan đến trước. Lề Luật chỉ là hình bóng của những
gì tốt đẹp hơn mà Đức Kitô sẽ mang đến cho con người.
Tác giả lý luận: Nếu
các hy lễ mà Lề Luật đòi buộc có thể cất đi tội lỗi của con người, họ đâu cần
phải dâng đi dâng lại mỗi năm. Hay nếu máu chiên bò thực sự thanh tẩy tội lỗi
trong tâm hồn, con người đâu còn ý thức mình có tội nữa. Hơn nữa, hy lễ dâng
hàng năm nhắc nhở cho con người ý thức tội lỗi của họ. Vì vậy, con người cần có
một lễ tế hy sinh hòan hảo hơn.
1.2/ Điều đẹp lòng Thiên
Chúa: Tác giả dẫn chứng Thánh Vịnh 40:6-9 với
ít nhiều sửa đổi, “Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy
sinh và lễ tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn
thiêu và lễ đền tội.” Những thứ Thiên Chúa không thích này lại là những thứ mà
Lề Luật truyền. Thực ra, không phải chỉ tác-giả Thư Do-Thái tin những điều này,
rất nhiều tác giả khác của Cựu Ước cũng đã nói tới sự bất tòan của hy sinh và của
lễ; họ cũng nhấn mạnh đến những điều khác quan trọng hơn như: Ông Samuel nói:
"Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta
vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe
thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (I Sam 15:22). Hay như lời Tiên-tri Hosea: “Vì Ta
muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các ngươi nhận biết hơn là được của
lễ toàn thiêu” (Hos 6:6).
Tác giả nhấn mạnh đến
việc Thiên Chúa đã ban cho Chúa Giêsu một thân thể để Ngài có thể chịu đựng đau
khổ và dâng nó như một hy lễ để đền tội cho con người. Đồng thời tác giả cũng
nhấn mạnh tới việc vâng lời làm theo ý Thiên Chúa như lời Thánh Vịnh 40: “Bấy
giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa! Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như
Sách Thánh đã chép về con.” Khi con người phạm tội là họ đã bất tuân thánh ý
Thiên Chúa; làm sao họ có thể bắt những chiên bò đổ máu để xóa tội cho họ được?
Để có thể xóa đi tội bất tuân của con người, Con Thiên Chúa đã tình nguyện mang
thân xác con người và đổ máu của chính mình. Chỉ có lễ hy sinh tự nguyện và cao
đẹp này mới có thể xóa đi tội lỗi của con người, và làm cho con người được giao
hòa với Thiên Chúa mà thôi.
2/ Phúc Âm: Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị
em tôi, là mẹ tôi.
2.1/ Phải yêu mến Thiên
Chúa trên hết mọi sự: Thọat đọc trình thuật
hôm nay, một người không tránh được bất mãn với Chúa Giêsu, vì đã khinh thường
Đức Mẹ và anh em của Ngài; và đã không giữ giới răn thứ bốn. Nhưng Chúa Giêsu
có vi phạm những điều này không? Một trong những sứ vụ của Chúa Giêsu là dạy dỗ
và sửa chữa những hiểu biết sai lầm. Trong bài học hôm nay, Chúa Giêsu không đi
ra ngòai 2 giới răn quan trọng nhất: trước tiên, mến Chúa; sau đó, yêu người.
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thứ tự ưu tiên của 2 giới răn, mà con người rất
nhiều lần đã đảo lộn thứ tự ưu tiên của nó. Việc Chúa Giêsu đang rao giảng Tin
Mừng là Ngài đang làm theo thánh ý Thiên Chúa; và Ngài phải đặt nó lên trên tất
cả các việc khác. Ngài không thể hy sinh việc rao giảng để tiếp chuyện với thân
nhân. Tuy nhiên, khi nào không làm việc Thiên Chúa, Ngài vẫn yêu thương và săn
sóc Đức Mẹ; như khi Chúa Giêsu trao Đức Mẹ cho Thánh Gioan chăm sóc dưới chân
Thập Giá.
2.2/ Yêu mến Thiên Chúa
là làm theo thánh ý Ngài: Bài học thứ hai
Chúa Giêsu muốn dạy con người hôm nay: tình yêu phải biểu tỏ cụ thể bằng hành động.
Con người thường nghĩ mình có thể yêu Thiên Chúa bằng lời nói, hay bằng những
hành động bên ngòai như tham dự Thánh Lễ, đọc kinh, cầu nguyện. Những điều này
tốt, nhưng không quan trọng bằng việc tìm ra và làm theo thánh ý của Thiên
Chúa. Cuộc đời Chúa Giêsu là một mẫu mực cho con người học thế nào là yêu
thương Thiên Chúa: Ngài muốn nhập thể để thi hành Kế Họach Cứu Độ của Thiên
Chúa. Trong những năm ở trần gian, thánh ý Thiên Chúa là động lực sống của Ngài
đến nỗi Ngài thốt lên những câu phải là châm ngôn cho chúng ta như: “Của ăn của
Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta, và chu tòan các việc của Ngài” (Jn 4:34). “Điều
Ta tìm kiếm không phải ý Ta, nhưng là ý của Đấng đã sai Ta” (Jn 5:30). “Ý của
Chúa Cha là hễ ai thấy Chúa Con và tin vào Ngài, sẽ có sự sống đời đời” (Jn
6:40). Những giờ phút sau cùng trong vườn Ghetsemane, Chúa Giêsu bị giằng co giữa
đau khổ sắp đến và thánh ý Thiên Chúa, nhưng sau cùng Ngài đã thốt lên: “Lạy
Cha! Nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con, một
xin vâng ý Cha” (Mt 26:42).
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Thiên Chúa không hài
lòng về hy sinh và lễ vật chúng ta dâng, nhưng hài lòng về những cố gắng của
chúng ta tìm ra và làm theo thánh ý Ngài.
- Thánh ý của Thiên
Chúa, cách tổng quát, là lo sao cho chính bản thân chúng ta và mọi người đạt được
ơn Cứu Độ.
- Để tìm ra thánh ý của
Thiên Chúa, chúng ta phải học hỏi Kinh Thánh để hiểu biết Kế Họach Cứu Độ của
Thiên Chúa; và làm hết sức có thể để làm cho Ơn Cứu Độ lan rộng đến mọi người.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
24/01/17
THỨ BA TUẦN 2 TN
Th. Phan-xi-cô
Sa-lê-xi-ô, giám mục Mc 3,31-35
SỐNG XỨNG ĐÁNG LÀ CON
CHÚA
“Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là
anh chị em và là mẹ Ta.” (Mc 3,35)
Suy niệm: Nhiều người thời nay
thường cậy dựa vào “nhất thân nhì thế” như bàn đạp để thăng tiến trên con đường
sự nghiệp. Có lẽ những người Do Thái hâm mộ Chúa Giê-su ngày xưa cũng mang tâm
trạng “thấy kẻ sangbắt quàng làm họ,” nên mới sốt sắng “mách” với Đức Giê-su: “Mẹ và anh
chị em Thầy đang tìm Thầy ngoài kia.” Nhưng những người thân này của
Chúa mới đây còn cho rằng Ngài “mất trí”, phải chăng giờ đây
họ lại muốn tìm đến để bắt Ngài về nhà (x. Mc 3,20-21). Để sửa chữa những cái
nhìn sai lệch đó, Chúa Giê-su xác định người thân đích thực của Ngài là những
ai “thi hành ý muốn của Thiên Chúa”.
Mời Bạn: Lời
Chúa mời gọi chúng ta thoát ra khỏi quan niệm thế tục để vươn cái nhìn của mình
lên một tầm cao mới: Chúng ta xác tín mình là con cái của Chúa Cả trời đất, là hoàng tộc của Thiên Chúa cao sang và thể hiện tư cách
đó bằng cách thực thi ý muốn của Thiên Chúa, đó là sống những giá trị Tin Mừng trong cuộc sống thường nhật của mình.
Chia sẻ: Dựa
trên lời chỉ dẫn của thánh Phao-lô: “Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ
việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31),
mời bạn thảo luận để vạch ra một chương trình sống dành cho những người là anh
chị em với Chúa Giê-su.
Sống Lời Chúa: Mỗi
ngày nhắc lại điều tâm niệm: “Quê hương chúng ta ở trên trời” (Pl 3,20) và “xin
cho chúng ta biết ái mộ những sự trên trời” (Ngắm thứ Hai, Năm Sự
Mừng).
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa
đã tự hạ nên giống chúng con mọi đàng,
để nâng chúng con lên làm con cái Chúa. Xin giúp chúng con biết sống sao cho
xứng đáng với địa vị cao trọng này.
Đây là mẹ tôi (24.1.2017 – Thứ ba Tuần 3 Thường niên)
Khi thực thi ý Thiên Chúa muốn, người ta trở nên có họ với Đức Giêsu. Người kitô hữu chúng ta vui sướng được thuộc về gia đình này.
Suy niệm:
Các thân nhân của Đức
Giêsu nghĩ Ngài bị mất trí,
vì họ nghe tin Ngài và
các môn đệ làm việc nhiều đến nỗi không có giờ ăn.
Các kinh sư từ Giêrusalem
xuống
thì kết luận rằng Ngài đã
thông đồng với tướng quỷ để trừ quỷ.
Còn đám đông dân chúng
lại ngồi nghe Ngài giảng trong nhà.
Hơn ai hết, họ biết Đức
Giêsu là ai.
Chính lúc ấy mẹ và anh em
của Ngài đến và đứng ngoài.
Họ không vào được, có thể
vì đám đông ngồi chật cứng.
Nhưng họ đã nhờ người
nhắn với Đức Giêsu.
“Mẹ Thầy và anh em Thầy
đang ở ngoài, tìm gặp Thầy đó.”
Rốt cuộc chắc ai cũng
biết là Thầy có người thân đến thăm.
Người ta tưởng Ngài sẽ bỏ
dở bài giảng để ra ngay gặp họ.
Nhưng Đức Giêsu lại muốn
dùng cơ hội này
để nói với đám đông đang
ngồi nghe một điều quan trọng.
Ngài đặt cho họ một câu
hỏi tưởng như vô nghĩa:
“Ai
là mẹ tôi và là anh em tôi?”
Dĩ nhiên là những người
đang đứng ngoài kia rồi.
Nhưng không, Ngài đảo mắt
nhìn những người đang ngồi,
và nói với họ: “Đây
là mẹ tôi và anh em tôi.”
Với lời khẳng định này,
Đức Giêsu loan báo về gia đình mới của Ngài.
Có những người thân yêu
cùng máu mủ đứng ngoài kia.
Có một gia đình mới đang
ngồi trong này.
Đức Giêsu không coi
thường hay loại bỏ gia đình ruột thịt.
Nhưng Ngài cho thấy Ngài
còn có một gia đình lớn hơn nhiều,
một gia đình gồm những
người rất khác nhau về nhiều mặt,
nhưng lại có một mẫu số
chung, một điểm giống nhau,
đó là cùng muốn thi hành
ý Thiên Chúa trong cuộc sống.
Đức Giêsu đã rời bỏ gia
đình để lên đường loan báo Tin Mừng.
Và Ngài cũng đã mời gọi
các môn đệ của mình như thế.
Đức Giêsu để lại người
mẹ, Phêrô để lại người vợ,
Gioan và Giacôbê để lại
người cha.
Tương quan gia đình ruột
thịt là điều cao quý thiêng liêng.
Nhưng nó lại không được
trở nên một cản trở cho sứ vụ.
Đức Giêsu đã khai mở một
đại gia đình mới cho mọi người:
“Bất cứ ai thi hành ý
muốn của Thiên Chúa
người ấy là mẹ tôi, là
anh em và chị em tôi.”
Khi thực thi ý Thiên Chúa
muốn, người ta trở nên có họ với Đức Giêsu.
Người kitô hữu chúng ta
vui sướng được thuộc về gia đình này,
có người Mẹ là Đức Maria
suốt đời tín trung sống ý Chúa,
có Đức Giêsu là Anh
Trưởng, người Con luôn sống đẹp lòng Cha,
và có bao anh chị em khác
đã dám đặt ý Chúa lên trên mạng sống.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
những hạt cải Chúa gieo
vãi cách đây hai ngàn năm
nay đã trở thành cây cao
cho chim trời rủ nhau trú
ngụ.
Nhúm men nhỏ bé được Chúa
vùi vào khối bột,
đã làm bột dậy lên,
để trở nên tấm bánh thơm
ngon cho thế giới.
Sau hai mươi thế kỷ,
các môn đệ Chúa không còn
là nhóm Mười Hai bé nhỏ.
Hôm nay, các kitô hữu
chiếm gần một phần ba,
người công giáo chiếm hơn
một phần sáu dân số thế giới.
Chúng con được mời gọi
xây dựng Nước Chúa trên trần gian,
cho đến khi tất cả mọi
người nhận biết và tin yêu Chúa.
Xin cho chúng con đừng
mặc cảm
vì người công giáo chỉ là
thiểu số trên quê hương Việt Nam,
nhưng xin cho chúng con
mạnh dạn làm chứng cho Chúa
trong việc xây dựng một
xã hội công bằng và huynh đệ.
Hôm nay chúng con phải
tiếp tục làm việc như Chúa,
gieo hạt giống để làm nên
những cánh rừng,
trở nên chất xúc tác để
biến đổi môi trường mình sống.
Và chúng con biết rằng
sớm muộn cũng sẽ thành công
vì tin Chúa vẫn cần cù
làm việc với chúng con. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
24 THÁNG GIÊNG
Sống Để Làm Việc -
Hay Làm Việc Để Sống?
Con người được mời gọi
trân trọng phẩm giá của mình trong công việc mình làm.
Đáng tiếc, rất nhiều
hiện trạng lao động dường như đang phản nghịch lại mục tiêu quan trọng ấy. Tình
trạng làm việc quá nặng, quá căng thẳng, quá chú trọng đến tính ganh đua hay sức
sản xuất của người công nhân, và rất nhiều những khía cạnh cơ giới hóa khác … đều
đang nhất tề ‘thọc gậy bánh xe’! Nhiều khi chúng đi đến mức biến công việc
thành chủ của con người chứ không phải con người làm chủ công việc.
Nhiều người bắt đầu cảm
thấy rằng dường như mình sống để làm việc chứ không phải là làm việc để sống.
Có người đã đặt câu hỏi
với tôi: Phải đối phó thế nào với tình hình như vậy? Rõ ràng vấn đề có liên hệ
đến người lao động, đến gia đình của họ và điều kiện làm việc của họ. Tôi tin rằng
– một cách căn bản – tôi có thể chỉ ra câu trả lời cho vấn đề. Đó chính là một
tuyên bố rất hàm súc của Công Đồng Vatican II: “Điều quan trọng hệ tại ở chỗ
con người là gì chứ không phải ở chỗ con người có gì” (MV 35). Một châm ngôn đệ
nhất!
Người ta phải không ngừng
tự tra xét mình để hiểu sự thực mình là ai. Mỗi người phải lặn sâu xuống đáy
lòng mình để khám phá sự thực về hướng đích của mình trong lao động. Phải nhận
ra những giới hạn của mình và cố vượt qua chúng càng nhiều càng tốt. Phải nhận
ra những khả năng của mình và làm cho chúng sinh hoa trái phục vụ Thiên Chúa và
tha nhân. Càng nhận hiểu sự thực về mình, chúng ta sẽ càng hiểu hơn mình phải
làm gì để quân bình và hòa điệu các quyền và các bổn phận của chúng ta trong tư
cách là những con người .
Làm người – đó phải là
nền tảng để đánh giá cả những gì mình làm lẫn những gì mình có. Đó là điểm qui
chiếu mà mọi hoạt động của chúng ta phải hướng về. Đó là cơ sở để bảo đảm mối
thống nhất trong chính con người chúng ta. Mọi khía cạnh của con người phải hòa
hợp chặt chẽ với nhau. Chẳng hạn, những trách nhiệm mà người công nhân đảm nhận
ở sở làm phải giúp cho người ấy trưởng thành hơn trong đời sống gia đình cũng
như trong sự đóng góp của đương sự đối với cộng đồng.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 24-1
Thánh Phanxicô
Salêsiô, giám mục tiến sĩ Hội Thánh
Dt 10,1-10; Mc
3,31-35.
Lời suy niệm: “Ai thi hành
ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.”
Chúa Giêsu đã kín đáo
khen ngợi Đức Mẹ giữa đám đông dân chúng và các môn đệ của Người, đồng thời Người
cũng đang mời gọi mọi người cùng thi hành ý muốn của Thiên Chúa để được trở nên
người trong gia đình của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu. Xin
cho mỗi người trong chúng con ham thích đọc Lời Chúa và suy niệm Lời Chúa hằng
ngày để chúng con biết vâng nghe mà thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Mạnh Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày 24-01: Thánh
PHANXICÔ SALÊ
Giám Mục Tiến Sĩ
(1567-1622)
Một đứa trẻ giận dữ nhất
cũng phải nói rằng: thánh Phanxicô Salêciô là vị thánh hiền hoà nhất thế giới,
Ngài đã biết cách để sửa mình và do đó đưa ra phương thức tốt đẹp để nên thánh:
"Tôi chỉ nghĩ tới sự dịu hiền, dĩ nhiên, không phải chỉ có điều đó mà
thôi. Sau này các bạn hữu Ngài đã ngạc nhiên vì sự im lặng thánh nhân giữ được
trước những lăng nhục.
Ngài nói: - "Gì vậy,
bạn muốn tôi bỏ mất trong giây lát một chút dịu dàng mà tôi đã mất 20 năm để
thu thập sao ?"
Sự dịu dàng Ngài đã thực
hiện với bao nghị lực, bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa, Ngài đã có thể nói với
bạn bè sau một cảnh thô tục mà một lãnh Chúa đã làm cho Ngài rằng: - Tôi giận
sôi người lên, nhưng tôi thích chết đi còn hơn là nói lên một điều nhỏ nào có
thể làm buồn lòng Thiên Chúa.
Thật khó hiểu nổi cách
thế mà trong Ngài, một lòng nhân hậu dịu dàng như vậy đã thay thế cho bạo lực.
Đối với người dọa nạt, Ngài trả lời: - Thưa ông, nếu ông có một con mắt, tôi sẽ
nhìn ông bằng con mắt kia với lòng trìu mến.
Cả thánh Vincentê
Phaolô cũng nói: - Khi muốn chiêm ngưỡng sự dịu hiền của Thiên Chúa, tôi nhìn về
giám mục thành Ghênêva.
Chào đời ngày 21 tháng
tám năm 1567 ở lâu đài Sales, Phanxicô từ trong nôi đã gặp được đức tin và đức
ái. Ngài học được từ người mẹ đã từng dẫn Ngài đi thăm các người nghèo khó, để
yêu thương và giúp đỡ họ. Năm 1582, Ngài theo học khoa hùng biện và ôn triết tại
Paris. Vào tuổi 17 một cơn dằn vặt thiêng liêng kinh khủng ám ảnh Ngài: người
tưởng rằng: mình không còn sống trong tình trạng ơn thánh nữa, hoả ngục dành
cho Ngài và nơi khủng khiếp này không còn tình yêu Chúa nữa.
Phanxicô cầu khần: - Lạy
Chúa ít ra cuộc sống vắn vỏi này con biết dành để yêu mến Chúa.
Kiệt sức, Ngài chạy đến
xin đức Trinh nữ gìn giữ mình được trinh trong và cứu thoát cho khỏi cơn thử
thách gay go này. Ngài đọc kinh "hãy nhớ" và sau cùng tìm lại được
bình an.
Từ năm 1586 -1591,
Ngài theo học luật tại Padua và đậu bằng tiến sĩ. Trở lại gia đình gia đình,
Ngài được đón tiếp trong niềm hân hoan phấn khởi. Cha mẹ Ngài vui sướng về đám
cưới của Ngài. Nhưng Ngài đã từ khước mọi dự định của gia đình. Hạnh phúc và
danh vọng trần thế không đáng kể gì đối với Phanxicô, con người đã được tình
yêu tuyệt đối chiếm đoạt, Ngài muốn trở thành linh mục. Được phong chức vào
ngày 31 thắng 5 năm 1593, Ngài trở thành linh mục hoàn hảo, luôn có Chúa Giêsu
ngự trong mình, Ngài sống gần dân làng như một người cha hiền, có mặt trong mọi
sự. Gặp cơn dịch hạch lan tràn, ngày đêm người ta thấy Ngài đi từ bệnh nhân này
tới bệnh nhân khác, chú ý tới những thể xác lẫn tinh thần đau khổ.
Một sứ mệnh lớn lao
kêu gọi tới Phanxicô. Những người theo phái thệ phản thêm nhiều trong xứ sở,
phá hủy nhiều nhà thờ và tu viện, lòng nhiệt thành đã đưa Ngài tới với đức Cha
Granier, giám mục Ghênêva, Ngài được phép hiến mình thực hịên một nỗ lực dường
như không thể được, là đưa dân chúng Chablais trở lại khỏi ảnh hưởng phái ở
Calvinnô. Không có đe dọa hay bạo lực nào bắt Người ngừng giảng được. Nơi nào
không thể đến rao gảing, Ngài phân phát truyền đơn. Suốt ba năm dưới ảnh hưởng
của thánh nhân, 72 ngàn người theo thệ phản đã hoán cải.
Năm 1602, vua Henri IV
đã muốn thánh Phanxicô làm giám mục thành Paris nhưng Ngài đã từ khước danh dự
này và nói: - Thưa Ngài, tôi đã đính hôn với một bà Chúa nghèo, tôi không thể từ
giã bà để theo một bà khác giàu có hơn.
Nhà vua rất thán phục
sự độc lập của Ngài và tuyên bố rằng: Phanxicô vĩ đại hơn ông là kẻ làm vua nhiều.
Dầu vậy tháng 6 năm 1602, Ngài Ngài đã phải nhận tòa giám mục Annecy - Gheneva.
Các bài giảng thuyết của
Ngài sớm lừng danh, đến độ những thành phố lớn đòi được nghe tiếng Ngài. Nhưng
giám mục người Xa-voa (Savoie) thích giảng cho dân nghèo hơn. Ngài còn cho họ cả
tới áo mặc của mình. Người ta thấy Ngài không giữ lại gì cho mình. Ngài chỉ
thánh giá và nói: - Người ta có thể từ chối điều gì được, đối với một Thiên
Chúa đã tự đặt mình vào trạng huống này vì chúng ta ?
Đối với các tội nhân,
Ngài thân tình đón tiếp họ: - Các con hãy đến đây để cha ôm ẵm và đặt các con
vào lòng cha. Cha chỉ đòi các con một điều là không được thất vọng, phần còn lại
cha lãnh tất cả.
Đi tìm kiếm một linh hồn,
nếu cần Ngài vượt qua rừng trong đêm tối, bất chấp bọn cướp giật hay thú rừng độc
dữ, chân Ngài thường rớm máu vì băng giá. Một lần bọn sát nhân nhào tới, Ngài
âu yếm bảo họ: - Các bạn không cần đòi mạng tôi làm chi, bởi vì tôi đã hiến mạng
sống tôi để bảo tồn sự sống của các bạn.
Người ta có thể thấy
rõ là Ngài đã nói thực. Bao người sát nhân đã làm như bao người khác: họ trở
thành bạn hữu của Phanxicô. Và làm sao yêu Ngài, mà lại không yêu tôn giáo đã
làm cho Ngài hiến thân trọn vẹn cho mỗi tâm hồn như vậy. Ngài nói: - Một linh hồn
là một giáo phận rộng đủ cho một giám mục rồi.
Phanxicô không ngừng
rao giảng, ngồi tòa, thăm viếng bệnh nhân, giúp đỡ người cùng khổ. Giữa những
công việc bề bộn, Ngài còn viết nhiều tác phẩm được nhiều Kitô hữu mến chuộng
như quyển: "Đường trọn lành", quyển "Dẫn vào đời sống nhiệt
thành" (cuốn này đã được chuyển sang Việt ngữ với tựa đề: sống thánh giữa
đời), chứng tỏ rằng: đời nhiệm hiệp và các nhân đức cao cả nhất, đều có thể nảy
nở, ngay trong cuộc sống từ cung điện, lẫn "trong binh đội và trong các xưởng
máy", Ngài truyền "dệt nên những sợi dây nhân đức nhỏ bé". Cuốn
"khảo luận về tình yêu Thiên Chúa" của Ngài đáng cho Ngài được vinh
quang như ở giữa bầu lửa, trong khi chuẩn bị viết về tình yêu của Ngôi Lời vĩnh
cửu.
Thánh Phanxicô đã lập
nhiều tu viện và tiếp tục hứơng dẫn các tu viện ấy. Hai ngàn bức thư của Ngài vẫn
còn, Ngài trao dòng "Thăm viếng" cho thánh nữ Chantal, Đấng mà Ngài
hiệp nhất bằng một tình yêu trắng hơn tuyết, trong sáng hơn ánh mặt rời.
Thánh nhân kiệt sức
khi Ngài nhận giảng dạy tại Lyon dịp lễ Giáng sinh. Ngài ngã bệnh lúc lên đường.
Vừa tới nơi Ngài biết mình sắp chết. Người ta chỉ còn nghe thấy Ngài nói: - Lạy
Chúa là tất cả của con.
Với các bạn bè đang
khóc lóc Ngài nói: - Các bạn lại không muốn ý Chúa được thực hiện sao ?
Trọn đời thánh
Phanxicô yêu mến hoàn thành thánh ý Chúa. Bí quyết đời thánh thiện của Ngài diễn
tả như sau: - Với giá vĩnh cửu, cái gì chấm đứt với thời gian lại có thể ảnh hưởng
trên chúng ta được ? Phải ước muốn một mình Thiên Chúa thôi, một cách tuyệt đối
không thay đổi và bất khả xâm phạm.
Ngài qua đời ngày 28
tháng 12 năm 1622 và được Đức Gáio hoàng Alexandre VII tôn phong hiển thánh năm
1665.
(daminhvn.net)
24 Tháng Giêng
Hãy Triệt Hạ Thập Giá
Gibert Keith
Chesterton, một văn sĩ Công giáo người Anh, qua đời năm 1936, đã mô tả thảm họa
của vua thần trong một quyển tiểu thuyết mang tựa đề: "Bầu trời và Thập
Giá". Một giáo sư vô thần tên là Lucifer được ông cho ngồi bên cạnh một tu
sĩ tên là Michel trên một chuyến máy bay xuyên qua Anh quốc.
Khi máy bay đi qua
London, giáo sư Lucifer bỗng nhìn thấy thập giá trên tháp chuông nhà thờ chánh
tòa. Không tự chế được, ông đã thốt lên lời sỉ vả đối với Kitô Giáo. Vị tu sĩ mới
xin phép kể câu chuyện như sau: "Tôi cũng biết có một người thù ghét thập
giá như ông. Bất cứ nơi nào có thập giá, ông ta cũng tìm đủ mọi cách để triệt hạ
cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát.
Ngay cả chiếc thập giá bằng vàng trên cổ người vợ, ông cũng tìm cách giành giật
để kéo ra khỏi người bà. Oâng nói rằng thập giá là một biểu trưng của sự độc ác
dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Ngày nọ, không còn
chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ của
giáo sứ, tháo gỡ thập giá và ném xuống đất. Sự thù hận đối với thập giá không mấy
chốc đã biến thành điên loạn… Một buổi chiều mùa hè nóng bức nọ, ông đứng tựa
vào một balcon gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên chiếc
balcon gỗ biến thành một đạo binh thánh giá. Rồi trước mặt, đằng sau lưng ông,
nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm chiếc gậy trên tay để đánh đổ
tát cả những cây thập giá. Vào trong nhà, bất cứ những gì làm bằng gỗ cũng được
ông nhìn thấy với hình thù của thập giá. Không còn dùng gậy để đạp đổ nữa, người
đàn ông đành phải dùng đến lửa mới may ra tiêu diệt được thập giá. Ngọn lửa bốc
cháy thiêu chụi căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông
đáng thương trong dòng sông bên cạnh nhà.
Câu kết luận mà
văn sĩ đã đặt trên môi miệng vị tu sĩ là: "Nếu bạn bắt đầu bẻ gãy thập
giá, bạn sẽ không chóng thì chày phá hủy chính cái thế giới có thể sống được
này". Với cái chết của Ðức Kitô, thập giá trở thành biểu trưng của một sự
chiến thắng: đó là chiến thắng của Tình yeu trên hận thù. Nơi nào có thập giá,
nơi đó có người còn tin ở sức mạnh của tình yêu. Ðạp đổ thành giá có nghĩa là
nâng cao hận thù chết chóc lên cao và chối bỏ tình yêu. Một thế giới không có
tình yêu là một thế giới của chết chóc. Bất cứ một con người có lý luận bình
thường nào cũng có thể thấy được điều đó.
Ngày nay, con người vẫn
còn tiếp tục chối bỏ và chà đạp thập giá. Không cần phải leo lên tháp chuông
nhà thờ để có thể triệt hạ thập giá; hình thù của thập giá, dấu chỉ của Tình
Yêu, đã được vẽ trên mỗi một con người. Xúc phạm đến con người cách này hay
cách khác cũng đã là một triệt hạ thập giá rồi.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét