16/04/2017
Chúa Nhật PHỤC SINH năm A.
(phần I)
Bài Ðọc
I: Cv 10, 34a. 37-43
"Chúng tôi đã ăn uống với Người, sau khi Người
từ cõi chết sống lại".
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô lên tiếng nói rằng:
"Như anh em biết điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa, khởi đầu từ
Galilêa, sau khi Gioan rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét.
Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu cho Người. Người đi khắp
nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên Chúa ở cùng Người.
Và chúng tôi, chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước
Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Ðấng người ta đã giết treo Người trên thập
giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải
với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước,
chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người
đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã
được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết. Mọi tiên tri đều làm
chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người, thì nhờ danh Người mà được
tha tội".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23
Ðáp: Ðây là
ngày Chúa đã lập ra, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó (c. 24).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ
bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: "Ðức từ bi của Người
muôn thuở". - Ðáp.
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt, tay hữu Chúa
đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền
công cuộc của Chúa. - Ðáp.
3) Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến
nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt
chúng ta. - Ðáp.
Bài Ðọc
II: Cl 3, 1-4
"Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức
Kitô ngự".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức
Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa.
Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì
anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa.
Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người
trong vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc: 1 Cr 5, 6b-8
"Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức
Kitô ngự".
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín
hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, anh em không biết sao?: chỉ một tí
men là đã đủ làm dậy men cả khối bột! Anh em hãy tẩy trừ men cũ để nên bột mới
anh em là bánh không men. Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Ðức Kitô, đã chịu sát tế.
Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với
Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật.
Ðó là lời Chúa.
Ca Tiếp
Liên
(Ðọc trong Chúa Nhật Phục Sinh, còn các ngày khác
trong tuần Bát nhật thì không buộc đọc)
Các Kitô hữu hãy tiến dâng
lời khen ngợi hy lễ Vượt Qua.
Chiên con đã cứu chuộc đoàn chiên mẹ:
Ðức Kitô vô tội đã hoà giải tội nhân với Chúa Cha.
Sống và chết hai bên song đấu cách diệu kỳ,
tướng lãnh sự sống đã chết đi, nhưng vẫn sống mà cai
trị.
Hỡi Maria, hãy nói cho chúng tôi nghe
bà đã thấy gì trên quãng đường đi?
Tôi đã thấy mồ Ðức Kitô đang sống
và vinh quang của Ðấng Phục Sinh,
thấy các thiên thần làm chứng,
thấy khăn liệm và y phục.
Ðức Kitô là hy vọng của tôi đã phục sinh,
Người đi trước chư vị tới xứ Galilêa.
Chúng tôi biết Ðức Kitô đã sống lại thật từ cõi chết!
Lạy Chúa, Vua chiến thắng, xin thương xót chúng con.
Alleluia:
1 Cr 5, 7b-8a
Alleluia, alleluia! - Lễ Vượt Qua của chúng ta là Ðức
Kitô đã hiến tế vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa. - Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 20, 1-9
"Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm
khi trời còn tối và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm
Simon-Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng:
"Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để
Thầy ở đâu". Phêrô và môn đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn
đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô, và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những
khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới
nơi, ông vào trong mồ và thấy những dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu
Người trước đây, khăn này không để lẫn với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một
chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin,
vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ
cõi chết.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm:
Chỉ có đức tin mới cho ta biết Chúa đã sống lại
Ðức Kitô đã sống lại, thì chúng ta phải làm gì? Dường
như các bài đọc Kinh Thánh hôm nay muốn trả lời câu hỏi ấy. Chúng ta có cần phải
ra đi kiểm chứng lại sự kiện mồ trống như hai Tông đồ trong bài Tin Mừng không?
Hay chúng ta chỉ cần tin vào lời giảng dạy của Giáo Hội như thời các tín hữu đầu
tiên? Hoặc hơn nữa chúng ta phải có một thái độ mới và một nếp sống mới như bài
thư hôm nay nói?
Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu sứ điệp của bài Tin Mừng,
của bài sách Công vụ các Tông đồ và của bài thư 1 Corinthô.
A.
Bài Tin Mừng Yoan
Rõ ràng bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe có một cái gì
giống như bài Tin Mừng trong thánh lễ ban đêm. Cả hai đều khởi đầu bằng việc
Maria ra viếng mộ Chúa. Nhưng rồi lập tức mỗi tác giả đi theo hướng riêng của
mình. Yoan có lối trình bày của ông. Ông chỉ kể tên một bà Maria Magđala, đang
khi Matthêô nói đến hai người theo thói quen gấp đôi của ông. Yoan ngược lại
thích nói đến một người để nhấn mạnh đến suy tư, thân mật và khiến độc giả chú
trọng hơn vào nhân vật trong truyện. Ông cũng thích nói đến ánh sáng và tối
tăm, nên viết: sáng Ngày thứ nhất, lúc trời hãy còn tối, Maria ra mộ. Ông có
nghĩ đến hình ảnh người phụ nữ đi tìm người yêu lúc đêm khuya ở trong sách Diệu
ca không?
Dù sao, Yoan không chú trọng đến mồ trống. Ðó là sự
kiện rõ ràng. Trọng tâm bài tường thuật của ông nhắm vào suy nghĩ về sự kiện ấy.
Người không có đức tin đã nói như Maria: "Họ đã lấy xác Thầy khỏi mộ rồi,
và chẳng biết chúng đã để Người ở đâu". Lập tức Phêrô và người môn đệ khác
đã chạy ra mộ. Phêrô chạy ra vì là Tông đồ trưởng. Người môn đệ kia cũng phải đến
vì là Tông đồ Chúa yêu. Ðàng khác chứng của hai người sẽ có giá trị. Người Tông
đồ Chúa yêu chạy nhanh hơn vì tình yêu vốn mau lẹ và vì trong Phúc Âm Yoan, người
đó luôn gần Chúa hơn hết. Phêrô quan sát cẩn thận, kiểm kê đầy đủ. Nhưng mắt
môn đệ kia tinh hơn, theo nghĩa tình yêu sớm linh cảm được sự việc. Cũng như có
lần khác, ông đã báo cho Phêrô biết: Kìa Thầy đang đi trên nước! Lần này ông
cũng sớm nhận ra: Người đã sống lại. Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô có tin không? Câu kết của bài Tin Mừng dường
như muốn khẳng định rằng họ đều đã tin. Và đồng thời câu kết ấy cũng muốn nói
lên điều này: lòng tin dựa vào chứng từ (của lời giảng hay của mồ trống) chỉ
hoàn toàn sau khi bắt nối với Lời Tiên tri. Ý của Yoan muốn nói rằng: ai cũng
nghe nói về sự kiện mồ trống, nhưng người ta sẽ chẳng tin bao lâu "chưa hiểu
Lời Kinh Thánh là Người phải sống lại từ cõi chết".
Như vậy bài Tin Mừng hôm nay khuyên mọi người muốn
tin vào việc Chúa sống lại, thì không cần sưu tra về sự kiện mồ trống hay tìm
hiểu các lần Chúa hiện ra, nhưng hãy hiểu Lời Kinh Thánh nói rằng Con Người sẽ
từ cõi chết sống lại. Và như thế, đúng như Yoan đã viết trong câu truyện về
Thôma: con thấy nên con đã tin, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin. Với
tư tưởng ấy, Yoan vừa nói cùng người đồng thời với mình đã thấy mồ trống, vừa
nhắn nhủ các thế hệ đến sau chẳng nhìn thấy gì cả. Người thấy cũng hãy tin như
Tông đồ kia; và người không thấy cũng hãy dựa vào Lời Kinh Thánh mà tin. Chỉ có
đức tin mới cho ta biết Chúa đã sống lại. Ðó là sứ điệp của bài Tin Mừng hôm
nay.
B.
Bài Sách Công Vụ Các Tông Ðồ
Còn Phêrô trong bài sách Công vụ, nói với cử tọa trong
nhà Cornêliô còn có thêm một sứ điệp nữa. Những người ngồi trước mặt ông đều
kính sợ Chúa. Hơn nữa họ đã mời ông tới đây để biết phải làm gì. Thế nên ông chỉ
cần vắn tắt giới thiệu cho họ biết Chúa Cứu thế. Và dĩ nhiên ở đây sách Công vụ
vẽ lại một vài nét của sách Tin Mừng Luca, vì theo truyền thống tác giả cả hai
sách chỉ là một. Sách Tin Mừng Luca đã nói Ðức Kitô được xức dầu và đầy quyền
năng; Người luôn luôn thi thố lòng thương xót khi chữa bệnh tật; nên ở đây sách
Công vụ cũng nói Người đã được xức dầu Thánh Thần và quyền năng, và Người đã từng
đi lại chữa lành nhiều đau khổ. Cuối cùng Người đã bị treo lên cây gỗ, nhưng
Thiên Chúa đã cho Người sống lại.
Phêrô không nói đến mồ trống; ông nại đến việc Chúa
hiện ra với các Tông đồ là những chứng nhân của việc Người phục sinh vì sau khi
sống lại Người đã từng ăn uống với họ. Tuy nhiên đó cũng vẫn chưa phải là sứ điệp
Phêrô muốn trình bày. Ðiều cốt yếu đối với ông và đối với mọi người bây giờ là
nhìn nhận nơi Ðức Kitô Phục sinh, Ðấng "đã được Thiên Chúa đặt làm Thẩm
phán trên người sống và kẻ chết". Và điều này buộc người ta phải kiểm điểm
lại đời sống, có lòng thống hối ăn năn và cầu xin ơn tha tội.
Phêrô đã đạt được điều đó nơi Cornêliô và gia quyến
ông. Khi trích lại câu truyện này, Phụng vụ cũng muốn được nhìn kết quả ấy nơi
mỗi người chúng ta. Nói cách khác, trong ngày lễ Phục sinh, Phụng vụ không chỉ
muốn chúng ta tin vào mầu nhiệm Chúa sống lại, mà còn muốn chúng ta hành động
phù hợp với niềm tin kia. Việc Chúa Phục sinh không phải chỉ là sự kiện khách
quan, tức là chỉ liên quan tới Chúa; nhưng việc ấy còn chi phối định mệnh của mọi
người; vì Ðức Kitô Phục sinh từ nay đã là Thẩm phán của người sống và kẻ chết.
Không ai đứng trước mặt Vị Thẩm phán xét xử mình mà lại không phải tự kiểm điểm.
Trong trường hợp chính Chúa là Thẩm phán, thì chúng ta chỉ còn có thái độ thống
hối ăn năn và xin ơn tha thứ.
Ðó cũng là điều mà thư Phaolô hôm nay muốn khai triển.
C.
Bài Thánh Thư
Phaolô trong thư này đang phàn nàn về câu chuyện tai
tiếng xảy ra trong giáo đoàn: có kẻ dám sống loạn luân với vợ của cha mình. Ðừng
tưởng đó chỉ là chuyện một con sâu làm rầu nồi canh; nhưng phải cẩn thận kẻo
"chỉ một tí men là đã làm dậy cả khối bột", nghĩa là tội lỗi kia có
thể lây sang làm hư hỏng cả giáo đoàn.
Việc Phaolô ví tội lỗi như một tí men, cũng dễ hiểu
thôi: chính Ðức Kitô cũng đã có lần căn dặn môn đệ phải coi chừng men Biệt
phái, là ảnh hưởng của lập trường tại hại của họ. Là vì tuy men làm cho bột dậy,
nhưng bánh có men lại chóng hư nát. Bản chất của men là làm hư hỏng những gì nó
ăn sang. Nên ví tội lỗi làm hư đời sống như men cũng thật là dễ hiểu.
Ðàng khác kiểu ví này đưa ngay Phaolô vào một vấn đề
tôn giáo và thích hợp để khuyên bảo tín hữu. Mọi người đều biết: Luật pháp cấm
dùng bánh có men khi ăn lễ Vượt qua. Thế nên các Luật sĩ căn dặn người ta: trước
khi ăn lễ Vượt qua phải thắp đèn đi soi mọi ngóc ngách trong nhà kẻo nhỡ ra còn
sót lại một chút men nào. Nếu người Dothái ăn lễ Vượt qua còn như vậy, thì huống
hồ là người Kitô hữu. Họ không đang sống dưới chế độ Vượt qua sao? Và hằng ngày
họ không cử hành mầu nhiệm Phục sinh là gì? Kìa xem người Dothái khi thấy Chiên
Vượt qua bị sát tế, là lập tức mau mau vứt men đi để làm lễ. Trong Kitô giáo
Chiên Vượt qua là Ðức Kitô đã bị sát tế rồi. Vậy mọi tín hữu phải mau mau vứt bỏ
men tội lỗi làm hư hỏng đời sống, để mừng lễ, không phải với bánh có men gian
tà và độc ác, nhưng với bánh không men tức là với lòng tinh tuyền và chân thật.
Tất cả chúng ta đang sống trong chế độ mừng lễ. Ngày
nào chúng ta cũng cử hành mầu nhiệm Phục sinh. Thánh Phaolô bảo ta phải hân
hoan, vì đó là tư cách của người mừng lễ. Phụng vụ giục ta hãy vui mừng
Allêluia! Nhưng muốn hân hoan thật phải có lòng tinh tuyền chân thật, tức là phải
vứt bỏ men tội lỗi gian tà làm hư hỏng đời sống. Ai làm cho ta được một lương
tâm như vậy, nếu không phải Vị Thẩm phán mà Thiên Chúa đã đặt lên khi cho Người
sống lại từ cõi chết? Chính việc Người Tử nạn-Phục sinh đã ban ơn tha thứ tội lỗi,
rửa các linh hồn nên sạch, khiến họ được vui mừng như các tạo vật mới. Chúng ta
hãy đi vào mầu nhiệm chết và sống lại của Người trong thánh lễ này để được tha
thứ tội lỗi, được hồi sinh và hân hoan, hầu như tạo vật mới, đem sức sống mới
vào đời, chứng tỏ Ðức Kitô đã phục sinh không những ở nơi Người, nhưng ngay nơi
chúng ta là những bánh không men của lễ Phục sinh năm nay.
(Trích
dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa
của
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Chủ Nhật Phục Sinh, Năm ABC
Bài đọc: Acts 10:34, 37-43; Col
3:1-4; Jn 20:1-9.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết.
Để hiểu niềm vui của Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta cần
so sánh hai thái độ của các tông đồ: nỗi thất vọng của các ông khi phải đối diện
với Cuộc Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu; các ông đã sợ hãi và bỏ trốn hết
vì sợ liên lụy: Chúa chết hết truyện. Nhưng nỗi thất vọng của các ông được bừng
lên thành niềm hy vọng của Ngày Phục Sinh: vì Chúa sống lại, mọi biến cố của
quá khứ cùng sống lại, được nhìn và mang ý nghĩa với Chúa Phục Sinh.
Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào các nhân chứng của
Mầu Nhiệm Phục Sinh và Tin Mừng họ làm chứng và rao giảng. Trong Bài Đọc I,
Phêrô, từ một con người chối từ Chúa 3 lần trong Cuộc Thương Khó của Ngài, giờ
can đảm làm chứng cho Chúa Giêsu trước mặt mọi người. Điều đã cải biến ông là
Tin Mừng Phục Sinh: Nếu Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, quyền lực thế gian
đã không thắng nổi quyền lực Thiên Chúa, chẳng còn gì để sợ hãi nữa. Trong Bài
Đọc II, tác giả Thư Côlossê nhắc nhở cho các tín hữu biết hậu quả của Mầu Nhiệm
Phục Sinh mang lại: Họ mang trong mình mầm sống của Đức Kitô Phục Sinh; mầm sống
này đòi hỏi họ phải luôn biết tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, đừng
chỉ bằng lòng với những giá trị của hạ giới là của thế gian này. Họ phải sống
làm sao để có ngày được cùng sống lại với Chúa Kitô phục sinh. Trong Phúc Âm,
Bà Maria Magdala ra thăm mộ Chúa từ sáng sớm khi trời còn tối; Bà không tìm thấy
xác Chúa nên vội chạy về báo cho các môn đệ biết. Phêrô và Gioan, khi biết được,
đã vội vã chạy đến mộ. Các ông thấy và các ông đã tin những gì Chúa tiên báo
trước khi Ngài chịu chết.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Tin Mừng về Chúa Giêsu.
Trình thuật của Sách Tông Đồ Công Vụ chỉ tập trung
trong những biến cố chính của cuộc đời Chúa Giêsu; một phần có lẽ vì rao giảng
cho thế hệ cùng thời với Chúa, một phần vì bản tính đơn sơ, chất phác của
Phêrô.
1.1/ Ông Phêrô làm chứng cho Chúa Giêsu.
(1) Về cuộc đời của Ngài: Ông Phêrô nhắc lại những
gì khán giả biết về Chúa Giêsu:
- Gioan Tẩy Giả là Tiền Hô của Thiên Chúa: “Quý vị
biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Judah, bắt đầu từ miền Galilee, sau
phép rửa mà ông Gioan rao giảng.” Phêrô chỉ nhắc lại cuộc đời công khai rao giảng
của Chúa.
- Phêrô muốn nhắc lại cho khán giả cuộc đời Chúa
Giêsu cách tổng quát: lai lịch, biến cố Rửa Tội tại sông Jordan, các phép lạ chứng
tỏ uy quyền của Ngài. “Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Nazareth, Thiên
Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là
Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì
Thiên Chúa ở với Người.”
(2) Về cái chết và sự sống lại của Ngài:
- Phêrô làm chứng cho sự chết của Đức Kitô trên Thập
Giá: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng
dân Do-thái và tại chính Jerusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi.”
- Phêrô làm chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô:
“Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ
tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên
Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với
Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.”
1.2/ Bổn phận của các Tông-đồ: Chúa chọn các
ông là cho một sứ vụ; giờ đây đã đến lúc các ông phải thay Ngài để rao truyền
Tin Mừng cho muôn dân. Hai bổn phận chính của các Tông-đồ:
(1) Phải rao giảng: “Người truyền cho chúng tôi phải
rao giảng cho dân.”
(2) Phải long trọng làm chứng hai điều:
- Chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán để
xét xử kẻ sống và kẻ chết.
- Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai mà các tiên tri đã
loan báo: “Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin
vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội." Lời của tiên tri
Isaiah trong các Bài ca về Người Tôi Trung của Thiên Chúa mà chúng ta nghe
trong Tuần Thánh là căn bản của lời chứng này.
2/ Bài
đọc II: Nguyên lý của đời sống mới: kết hợp với Đức Kitô phục sinh.
2.1/ Thượng giới và hạ giới: “Anh em đã được
trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức
Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc
thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới.”
- Thượng giới là Thiên Đàng nơi Đức Kitô đang sống với
Thiên Chúa; hạ giới là trần gian nơi con người chúng ta đang sinh sống. Chúa
Giêsu cũng đã đề cập đến sự cách biệt này khi tranh luận với người Do-thái:
"Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế
gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã nói với các ông là
các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết. Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng
Hữu, các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết."
- Vấn đề của con người hiện đại là đang quá chú tâm
đến hạ giới: nhà cửa sang trọng, xe cộ mắc tiền, hưởng thụ các thú vui vật chất
… Dĩ nhiên, con người cần phải chú tâm đến các vấn đề ăn, uống, ở … nhưng không
đến nỗi gạt bỏ hay không chút quan tâm đến các giá trị của thượng giới.
2.2/ Sự sống mới của Đức Kitô đang tiềm tàng nơi các
tín hữu: “Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng
với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện,
anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.”
Làm sao biết có sự sống mới này đang tiềm tàng nơi
con người? Thứ nhất, qua tấm áo trắng của Bí-tích Rửa Tội, người Kitô hữu được
“mặc lấy” toàn thể Đức Kitô: cả sự chết lẫn sự phục sinh của Ngài. Thứ đến, qua
Bí-tích Thánh Thể, người Kitô hữu được tháp nhập vào thân thể của Ngài. Vì có sự
sống mới này trong người, các Kitô hữu phải từ bỏ nếp sống cũ với các tội lỗi của
nó, để sống đời sống mới, đời sống ân sủng và nhân đức như Đức Kitô. Khi con
người sống kết hợp với Đức Kitô, họ có thể thốt lên như thánh Phaolô: “Tôi sống
nhưng không còn là tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.”
3/
Phúc Âm: Ngôi mộ trống
3.1/ Sức mạnh của tình yêu: Tác giả Sách
Diễm Ca ca tụng tình yêu: “Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng
tài nào vùi lấp. Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu,
ắt sẽ bị người đời khinh dể.”
ắt sẽ bị người đời khinh dể.”
(1) Chúa Giêsu yêu Mary Magdala: Bà là người được
Chúa Giêsu chữa cho khỏi bảy quỉ. Đối với con người, chẳng có gì là đáng yêu
trong người đàn bà này; nhưng đối với Thiên Chúa, Ngài thương con cái mình bị
ma quỉ xiềng xích. Từ lúc được lành bệnh, Bà luôn theo Chúa Giêsu, và đứng dưới
chân Thập Giá khi Ngài hấp hối.
(2) Bà Mary Magdala yêu Chúa Giêsu: Bà là người đã
khóc công khai để lấy nước mắt rửa chân, lấy tóc lau chân, và lấy dầu đắt tiền
xức chân Chúa. Ngay cả cái chết cũng không dập tắt nổi tình yêu của Bà Mary
Magdala dành cho Chúa Giêsu. Một người có thể nói Bà là người sống tình yêu với
Chúa hơn ai hết qua sự kiện Bà chỉ chờ khi bắt đầu ngày mới (3-6 giờ sáng), là
người đầu tiên lên đường ra mộ tìm Chúa. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu làm Bà vượt
qua nhiều sự sợ hãi: quân lính Rôma, người Do-thái, bóng tối, ma quỉ, lạnh lẽo,
lười biếng …
Khi đến nơi và thấy tảng đá lớn đã lăn khỏi mộ. Bà
liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói:
"Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở
đâu."
3.2/ Hai ông Phêrô và Gioan ra thăm mộ: Các môn đệ
không dám xuất hiện trước công chúng vì họ sợ sẽ bị truy tố như Thầy mình. Các
ông chắc cũng thất vọng vì Chúa Giêsu không hoàn thành ước mơ của các ông. Khi
được Mary Magdala cho biết tin ngôi mộ trống, ông Phêrô và môn đệ kia liền đi
ra mộ. Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới
mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.
(1) Ngôi mộ trống: Ông Simon Phêrô theo sau cũng đến
nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức
Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một
nơi. Hai câu hỏi được nêu ra từ trình thuật này:
- Tại sao người môn đệ chạy tới trước không vào lại
chờ cho Phêrô tới và vào trước? Phải chăng vì ông sợ? Phải chăng vì ông muốn
tôn trọng quyền bính của Phêrô? Tuy Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng ông luôn
là người đứng đầu Nhóm Mười Hai. Chính Chúa Giêsu đã đặt Phêrô vào địa vị này.
- Vì các ông không ngờ là Chúa đã sống lại, nên chỉ
còn giả thuyết là người ta đã đánh cắp xác Chúa; nhưng điều làm các ông ngạc
nhiên là tại sao lấy xác mà không lấy khăn niệm, lại còn cuộn lại cẩn thận và xếp
gọn lại một nơi!
(2) Ông đã thấy và ông đã tin: “Bấy giờ người môn đệ
kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. Thật vậy, trước
đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.”
Bản dịch của NPVCGK dịch không chính xác, phải dịch: “Ông đã thấy và đã tin; dù
chưa hiểu theo Kinh Thánh Đức Giêsu phải sống lại từ cõi chết.” Thánh sử Gioan
muốn phân biệt hai niềm tin:
- Thấy và tin: Đây là niềm tin thực nghiệm.
- Theo Kinh Thánh: Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.
Đây là niềm tin dựa vào uy thế của Sách Thánh.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Biến cố Chúa Giêsu phục sinh chứng tỏ rõ ràng cho
chúng ta một điều quan trọng: chết không hết. Chúa Giêsu đi trước để dọn đường,
và Ngài sẽ kéo mọi người chúng ta lên với Ngài. Vì thế, chúng ta không được sống
như không có đời sau.
- Chúa Giêsu đã gánh chịu mọi đau khổ để đền thay tội
lỗi của chúng ta, và Ngài đã phục sinh vinh hiển để chuẩn bị cho chúng ta cuộc
sống vĩnh cửu mai sau. Còn ai yêu thương và lo lắng cho chúng ta hơn Chúa
Giêsu? Hãy dành trọn vẹn tình yêu cho Ngài.
- Hãy làm hết sức cho có được tình yêu với Chúa
Giêsu như Mary Magdala. Một khi có được tình yêu như thế, chúng ta sẽ vượt qua
mọi trở ngại để trung thành với Thiên Chúa và làm chứng cho Thiên Chúa bằng
cách yêu thương mọi người.
Lm.
Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Ga 20,1-9
ĐỨC KI-TÔ KHÔNG LÀ KỶ NIỆM
Bấy giờ người môn đệ kia cũng đi vào. Ông đã thấy và
đã tin. (Ga 20,8)
Suy
niệm: Các phụ nữ đến
mộ Chúa Giê-su từ sáng sớm để hoàn tất việc ướp xác. Các bà cũng chẳng làm được
gì khác hơn là vớt vát lại chút gì để nhớ về một biến cố buồn thảm rồi cũng sẽ
trôi vào quên lãng của quá khứ. Các bà thực sự hoảng hốt và đau xót vì một chút
kỷ niệm là cái xác bất động của Thầy lại cũng bị lấy mất đi. Các tông đồ Phê-rô
và Gio-an cũng đến và cũng thấy ngôi mộ trống. Thánh tông đồ Gio-an khẳng định:
ông đã thấy và đã tin; không phải các ông tin xác Thầy thực sự bị đánh cắp mà
là tin Đức Giê-su đã chết nay sống lại thật. Chúa Ki-tô phục sinh còn hiện ra
nhiều lần cho nhiều người khác nhau để xác nhận rằng Ngài không là kỷ niệm; Ngài
đã sống lại và hiện nay Ngài đang sống, đang đồng hành, đang ở với những ai đặt
niềm tin vào Ngài.
Mời Bạn: Bạn nhớ, Chúa Giê-su
phục sinh cũng đồng hành với bạn, ở với bạn “mọi ngày cho đến tận
thế” đấy. Dù
bạn đi đâu, làm gì, bạn đừng quên sự hiện diện linh thiêng và thân thiết này.
Bạn đã làm gì và sẽ làm gì để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ thiết yếu này?
Chia sẻ: Đọc lại lời chứng của
những chứng nhân trực tiếp đã gặp Chúa Ki-tô phục sinh: (x. Mt 28; Mc 16; Lc
24; Ga 20-21). Điều gì đã khiến họ nhận ra và tin vào Chúa phục sinh để rồi họ
rao giảng về Ngài mạnh dạn như thế ?
Sống Lời Chúa: Chọn cho mình một
phương thế thích hợp để sống thân thiết hơn nữa với Chúa Phục sinh: siêng năng
rước lễ, viếng Mình Thánh, thường xuyên tâm sự với Chúa, v.v.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa con, lạy
Thiên Chúa của con, con tin Chúa đã chết và đã sống lại để cứu chuộc con.
(5
phút lời Chúa)
ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN (16.4.2017 – Chúa nhật Phục sinh)
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria. Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ gặp chính Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Suy niệm:
Niềm vui phục sinh khởi
sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị
ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên
trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng
đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời
còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không
chợp mắt được,
chỉ mong cho chóng sáng
để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái
tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng
dưới chân thập giá (Ga 19,25)
và tham dự cuộc mai táng
Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại
thúc đẩy bà ra mộ trước tiên,
trước cả người môn đệ
được Ðức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về
báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn
cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu
lo khắc khoải,
đó là họ đang để Người ở
đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để
lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến
chuyện Chúa phục sinh,
bà chỉ mong tìm lại xác
của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo
Phêrô và Gioan chạy đến mộ,
những bước chân hối hả
vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và
những băng vải đặt ở đó,
còn khăn che đầu thì được
cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan
tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để
lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến
thiết tha của bà Maria Macđala,
nhưng cũng cần có sự nhạy
cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám
phá ra ý nghĩa của các biến cố:
ý nghĩa của cái chết bi
đát trên núi sọ,
ý nghĩa của ngôi mộ trống
và tấm khăn xếp gọn gàng.
Chúng ta cần có lòng tin
để khỏi rơi vào sự thất
vọng hay hốt hoảng,
trước những thất bại, đổ
vỡ mất mát trong cuộc đời.
Ðời chúng ta lắm khi
giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý
nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm
điều đã mất,
trong nước mắt đau khổ
như bà Maria (Ga 20,11).
Nhưng nếu xác Ðức Giêsu
cứ nằm yên trong mồ,
để cho bà Maria đến thăm
viếng,
thì làm gì có chuyện Chúa
phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ
được Ngài,
những băng vải không ngăn
được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro
tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng
tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi
tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà
tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm
thấy xác Thầy trong mộ đâu,
nhưng bà sẽ gặp chính
Ðấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng
còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay
cao,
không bị nỗi sợ hãi của
phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết
lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của
người kitô hữu
là cái liều chín chắn và
có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu
phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê
chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông
đã hiến mình vì Đạo.
Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh
liệt
khiến con đổi cái nhìn về
cuộc đời:
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực
sự của từng thụ tạo.
Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận
tình hơn
với Chúa và với mọi
người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
16
THÁNG TƯ
Bảo
Toàn Ơn Tinh Sạch Do Phép Rửa
“Tảng
đá mà những người thợ xây loại bỏ đã hóa nên tảng đá góc tường” (Tv 118,22).
Giáo Hội nhận chính sự sống của mình từ cuộc Phục Sinh của Đức Kitô. Thực tại
này được chuyển tải trong phụng vụ, đặc biệt phụng vụ Mùa Phục Sinh.
Chẳng
hạn, chúng ta có một truyền thống về Chúa Nhật in Albis Depositis. Tên gọi ấy
bắt nguồn từ một nghi thức đã được thực hành thuở xa xưa trong Giáo Hội vào
ngày thứ bảy sau Chúa Nhật Phục Sinh. Về sau, nghi thức ấy được cử hành vào
Chúa Nhật sau Phục Sinh. Vào ngày này, những người tân tòng trả lại chiếc áo
choàng trắng mà họ đã nhận trong nghi thức Phép Rửa buổi tối Vọng Phục Sinh.
Khi lãnh Phép Rửa, họ đã bỏ lại sau lưng y phục cũ của họ để nói lên rằng linh
hồn họ đã được thanh tẩy bởi Đức Kitô. Giờ đây, họ trả lại chiếc áo choàng
trắng của Phép Rửa sau Tuần Lễ Phục Sinh để làm biểu tượng cho sự cam kết rằng
họ sẽ gìn giữ ơn tinh sạch do Phép Rửa ấy trong cuộc sống hằng ngày của họ.
Trong
nghi thức Phép Rửa của chúng ta ngày nay cũng thế, em bé được mặc áo trắng – để
nói lên rằng Phép Rửa không duy chỉ có nghĩa một sự thay đổi bên ngoài. Không,
đó là một sự chuyển hóa đụng chạm đến gốc rễ của hữu thể chúng ta. Làm mới lại
Phép Rửa của mình có nghĩa là chúng ta cởi bỏ con người cũ và mặc lấy con người
mới trong Đức Kitô.
Đức
Kitô thanh tẩy và tái sinh chúng ta. Người mặc chính Người cho chúng ta bằng
cách tháp nhập chúng ta vào thân thể Người. Và như vậy, được làm con trong Chúa
Con, chúng ta bước đi trong sự sống mới. Chúng ta sống một cuộc sống đã được
cứu độ. “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương.
Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, khiêm nhu, nhân hậu, hiền hòa, nhẫn
nại.” (Cl 3,12)
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
NGÀY 16-4
CHÚA
NHẬT PHỤC SINH
MỪNG
CHÚA SỐNG LẠI
Cv
10, 34a.37-43; Cl 3, 1-4; Ga 20, 1-9.
LỜI
SUY NIỆM: “Ông đã thấy và đã tin”
Trước
đó chính Chúa Giêsu đã ba lần loan báo về cuộc khổ nạn và chịu chết của Chúa;
nhưng rồi sau ba ngày Chúa sẽ sống lại.Nhưng tất cả các Tông Đồ đã không hiểu
và đã không tin, nhưng lại không dám hỏi lại Chúa. Hôm nay khi Gioan vào trong
mồ, “ông đã thấy và đã tin”, chính là nhờ vào ký ức của ông đã chiếu lại toàn
bộ sự việc Chúa đã làm, những lời Chúa đã nói, mà ông đã ghi sâu vào ký ức của
mình, khi được sống bên Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu. Trong việc học hỏi Giáo Lý, học hỏi Kinh Thánh. Xin cho mọi
người trong gia đình chúng con đều ghi vào trong ký ức của mình, để qua mọi
hoàn cảnh, mọi biến cố, chúng con nhận ra ý của Chúa, ơn thánh của Chúa, để tin
và vui sống.
Mạnh
Phương
16
Tháng Tư
Không Quyền Lực Nào
"Ðức
Tin không thể nào bị bóp nghẹt bởi bất cứ quyền lực nào!". Ðó là lời tuyên
bố của tổng thống Hoa Kỳ George Bush trong buổi tiễn biệt Ðức Thánh Cha Gioan
Phaolô II (19/9/1987) nhân dịp Ngài viếng thăm Hoa Kỳ. Trong bài diễn văn từ
giã Ðức Thánh Cha, phó tổng thống Hoa Kỳ nói rằng Thiên Chúa vẫn còn tiếp tục
làm việc tại Liên Xô sau hơn 60 năm tuyên truyền cho chủ thuyết vô thần.
Ông
George Bush kể lại cho Ðức Thánh Cha như sau: "Trong nghi lễ an táng tổng
bí thư Breznev tại Mascơva, một lễ nghi với nhiều lính tráng và hoa tím, nhưng
không có Ðức Tin và Lời Chúa, tôi theo dõi bà quả phụ đang tiến đến quan tài để
nói lời từ biệt... Kìa, có Chúa làm chứng cho tôi, giữa sự lạnh cóng của một
chế độ độc tài, bà Breznev chăm chú nhìn người chồng, rồi cúi nhẹ xuống và làm
dấu thánh giá trên ngực của người chết...".
Ông
Bush cũng kể lại rằng ông đã gặp Mao Trạch Ðông trước khi ông này qua đời. Chủ
tịch họ Mao đã tâm sự với ông như sau: "Tôi sắp sửa về Trời, tôi đã nhận
được lời mời gọi của Chúa".
Ðưa
ra hai sự kiện trên đây, ông Bush kết luận: Không có quyền lực nào, không có
luật pháp nào có thể quét sạch những gì đã ăn rễ sâu trong lòng người...
Lời
phát biểu trên đây của ông George Bush có lẽ phải làm cho chúng ta phấn khởi.
Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta. Chính những nơi mà
chúng ta tưởng Ngài đã bị gạt bỏ hoàn toàn, chính những lúc mà chúng ta tưởng
như Ngài không có mặt, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động. Bởi vì Thiên Chúa không thể
là Thiên Chúa nếu Ngài không yêu thương con người.
Chúng
ta tiếp nhận sự sống từ chính Chúa, như trái đất nhận lãnh ánh sáng từ mặt
trời. Thiếu ánh sáng mặt trời thì không thể có sự sống trên trái đất. Cũng thế,
không có Chúa thì không thể có sự sống... Thiên Chúa thông ban sự sống cho
chúng ta, bởi vì Ngài yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tất cả mọi người,
ngay cả những kẻ chối bỏ hoặc thù ghét Ngài.
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét