Vài nét về hai mục đồng được Đức Mẹ hiện ra tại La
Salette
Maximin Giraud - Melanie Calvat |
Ngày 19 tháng 9 năm 1846 Đức Mẹ đã hiện ra với hai mục đồng
tại La Salette là Mélanie Calvat 14 tuổi và Maximin Giraud 11 tuổi. Maximin
Giraud sinh năm 1935 tại Corps, là con ông Maximin Germain Giraud đến từ vùng
bên cạnh và bà Anne Marie Templier người làng Corps. Maximin chỉ được 17 tháng
khi mẹ qua đời để lại một đứa con gái 8 tuổi là Angélica. Ít lâu sau đó cha của
Maximin tái hôn. Maximin lớn lên trong hoàn cảnh éo le đó. Là một đứa trẻ hiếu
động và nghịch ngội Maximin thường la cà đây đó trong làng, quanh quẩn tại các
hàng quán hay chạy chơi với con chó và con dê cái. Bà mẹ ghẻ không cảm thấy cậu
hấp dẫn tí nào. Vào giữa tháng 9 năm 1946 một nông dân tại làng Ablandins tên
là Pierre Selme có cậu bé mục đồng bị đau. Ông đến Corps tìm bạn mình là ông
Giraud làm nghề chế và sửa xe ngựa, và xin bạn cho mình mượn chú bé Maximin vài
ngày. Ông bố trả lời: “Maximin mà làm mục đồng à? Nó lơ đễnh lắm không coi bò
được đâu!”. Hai người thảo luận với nhau rồi đồng ý và thế là ngày 14 tháng 9
chú bé Maximin đến làng Blandins. Ngày 17 ông Selme trông thấy Melanie và thuê
luôn cả bé gái này nữa. Thế là hôm sau ngày 18 tháng 9 hai trẻ mục đồng đi chăn
bò thuê cho ông Selme.
Mélanie cũng sinh tại làng Corps trong một gia đình đông
con. Cha là Pierre Calvat làm nghề đốn củi và mọi công việc người ta thuê, Mẹ
là bà Giulia Barnaud. Hai ông bà có 10 người con. Mélanie là con thứ tư. Gia
đình Calvat nghèo tới độ đôi khi hai ông bà sai các con đi ăn xin ngoài đường.
Mélanie mau chóng trở thành trẻ chăn thuê cho các nông dân quanh vùng. Từ mùa
xuân năm 1846 tới cuối mùa thu, chúng ta tìm thấy cô bé tại nhà ông Baptiste
Pra làng Ablandins một trong những vùng thuộc La Salette. Người hàng xóm
bên cạnh là ông Selme, người đã thuê chú bé Maximin một tuần để thay thế cho
chú mục đồng của ông bị bệnh không đi chăn bò được. Trước thằng bé Maximin lắm
mồm, Mélanie vốn tính nhút nhát và ít nói lại càng ít nói hơn.
** Tuy tính tình khác nhau, nhưng có thể nói cả hai đứa bé
có nhiều điểm giống nhau. Cả hai đều là người làng Corps nơi có gia đình sinh sống.
Chúng không biết nhau, vì Mélanie vắng nhà trong những thời gian rất lâu. Chúng
đều nói thổ ngữ địa phương và không biết một chữ tiếng Pháp nào. Không được đi
học, không biết giáo lý, không biết đọc biết viết. Bà mẹ của Mélanie luôn luôn
trong tình trạng tìm việc làm và vất vả lo lắng cho lũ con đông, nên chẳng có
giờ cho tình yêu thương hay có
quá ít. Vào thời Đức Mẹ hiện ra nghèo nàn là đặc tính của Maximin và Méalanie:
nghèo của cải, nghèo văn hóa và nghèo tình thương. Nhưng chúng là sáp đồng
trinh mà biến cố Đức Mẹ hiện ra sẽ ghi các dấu vĩnh viễn. Mélanie rất khác
Maximin vì sống với những người xa lạ và chỉ biết cuộc sống tại gia đình trong
các tháng mùa đông khó khăn, phải chịu đói khát và lạnh lẽo. Đó là lý do khiến
cô bé nhút nhát và ít nói, thường chỉ trả lời với tiếng “có” hay với tiếng
“không”. Ông chủ Jean Baptiste Pra làm chứng cho biết.
Ngày thứ bẩy 19 tháng 9 năm 1846 từ sáng sớm hai trẻ mục đồng
lên núi Planeau với 4 con bò cái và Maximin với con dê cái và con chó Lulù. Vào
giữa trưa chuông nhà thờ làng điểm kinh Truyền Tin. Khi đó hai trẻ mục đồng dẫn
bò đến suối nước của súc vật, là một vũng bùn có nước suối chảy qua. Sau đó
chúng dẫn bò lên một đồng cỏ bằng trên núi Gargas. Trời nóng nực, hai trẻ mục đồng
lên cao hơn tới suối nước cho người uống và dùng bữa trưa thanh đạm gồm bánh và
phó mát, rồi uống nước suối mát. Các mục đồng khác chăn đàn vật ở dưới thấp hơn
lên nhập bọn và chuyện vãn với nhau một lúc. Sau đó Maximin và Mélanie đi ngang
qua suối và xuống phía đưới có mấy đống đá gần một con suối cạn. Đó là suối
con. Mélanie đặt túi đựng bánh của mình trên đó, còn Maximin thì đặt chiếc áo
khoác nhỏ của mình với đồ ăn trưa. Trái với thói quen, hai trẻ mục đồng nằm dài
trên cỏ và ngủ thiếp đi. Nằm phơi mình dưới ánh nắng mặt trời ấm áp cuối mùa hè
thật là thú vị. Bên trên bầu trời xanh lơ không có một đám mây. Tiếng suối chảy
róc rách gia tăng thêm cái yên tĩnh và thinh lặng của núi rừng. Bất thình lình
Mélanie thức giấc, lay người Maximin và nói: “Maximin, tới mau chúng ta đi coi
bò… Không biết chúng ở đâu!”. Hai mục đồng vội vã leo lên phía núi đối diện với
Gargas. Khi đi vòng sang phiá bên kia chúng trông thấy mấy con bò đang yên hàn
nhai cỏ. Hai bé an lòng. Khi Mélanie xuống trở lại được nửa đường cô bé
kinh ngạc đến bỏ rơi chiếc gậy và nói: “Maximin tới coi ánh sáng dưới kia kìa!”
Bên cạnh con suối nhỏ trên một đống đá có một quả cầu bằng lửa. “Nó giống như
thể mặt trời đã rơi xuống đó”. Nhưng mặt trời tiếp tục chiếu sáng trên bầu trời
không mây.
** Maximin vừa chạy tới vừa hỏi: “Ở đâu, ở đâu?” Mélanie giơ
tay chỉ thung lũng nhỏ nơi hai đứa đã nằm ngủ. Maximin đến bên cạnh, lạnh ngắt
vì sợ hãi và nói với Mélanie: “Cầm lại cây gậy của chị đi! Em cầm gậy của em và
sẽ đập cho nó một cái, nếu nó làm gì chúng ta”. Ánh sáng di động và xoay trên
chính mình. Hai trẻ mục đồng không có từ để diễn tả cảm tưởng sống động giải toả
từ quả cầu lửa ấy. Có một phụ nữ hiện ra ngồi hai tay ôm đầu, khủy tay chống
trên gối trong thái độ vô cùng buồn bã. Người phụ nữ đẹp đứng lên. Hai trẻ mục
đồng không nhúc nhích. Bà nói với hai em bằng tiếng Pháp: “Các con hãy đến gần
đây, đừng sợ hãi! Ta ở đây để kể cho các con một tin lớn”. Khi đó hai trẻ mục đồng
đi xuống phiá bà. Chúng nhìn chằm chặp vào bà. Bà không ngừng khóc.
Người ta có cảm tưởng đây là một bà mẹ bị các con đánh và chạy
trốn lên núi để khóc. Bà Đẹp cao lớn và hoàn toàn sáng láng. Bà ăn mặc như các
phụ nữ trong vùng, áo dài, có thắt một tấm khăn làm việc ngang lưng, một khăn
choàng chéo và cột phía sau, một chiếc mũ của các phụ nữ nông dân. Đầu có triều
thiên hoa hồng, hoa hồng viền khăn và giấy. Trên trán có một ánh sáng rạng ngời
giống như một triều thiên. Trên vai có một vòng xích dài. Ngực đeo một dây chuyền
dài có thánh giá rực rỡ, hai bên có một cái búa và các kìm. Bà Đẹp nói với hai
trẻ mục đồng. Hai em cho biết: “Bà đã khóc trong suốt thời gian nói chuyện với
chúng tôi”. Cùng nhau hay một cách riêng rẽ hai trẻ mục đồng đều kể lại sự
việc như nhau, tuy có vài khác biệt nhỏ nhưng không hại tới ý nghĩa chính của
biến cố. cho dù người hỏi các em là các khách hành hương hay những người tò mò,
các nhân vật quan trọng hay giới giáo sĩ, những người điều tra hay các nhà
báo. Cho dù họ có tán thành, có thành kiến hoặc có ý xấu, hai em đều kể lại
những gì đã thấy đã nghe.
Văn bản sứ điệp Mélanie gủi cho ĐGH Pio IX ngày mùng 6 tháng
7 năm 1851 và văn bản sứ điệp Maximin Gỉaud gửi cho ĐGH Pio IX ngày mùng 3
tháng 7 năm 1851 bao gồm các điểm chính sau đây:
Thời điểm cơn giận của Thiên Chúa đã tới rồi. Nếu Kitô hữu
Pháp không hoán cải, người ta không sám hối và không ngừng làm việc ngày Chúa
Nhật và tiếp tục nguyền rủa danh thánh Chúa; tắt một lời nếu bộ mặt trái đất
không thay dổi, Thiên Chúa sẽ báo thù chống lại dân vô ơn và nô lệ ma quỷ.
Paris, thành phố vấy mọi thứ tội phạm này chắc chắn sẽ chết. Thành phố
Marseille sẽ bị phá hủy trong thời gian ngắn. Khi các điều này sẽ xảy ra, Trái
đất sẽ hỗn loạn hoàn toàn; thế giới sẽ phó mình cho các đam mê gian ác của nó.
Nước Pháp đã làm ung thối vũ trụ, một ngày kia nó sẽ bị phạt. Đức tin sẽ tắt tại
Pháp. Một phần ba nước Pháp sẽ không thực hành hay hầu như không thực hành tôn
giáo nữa. Nửa kia sẽ thực hành nhưng không thực hành tốt…
** Trước khi điều này đến sẽ xảy ra trong Giáo Hội nhiều nhiễu
nhương và ít lâu sau Đức Giáo Hoàng sẽ bị bách hại. ĐTC sẽ bị bách hại từ mọi
phía, người ta sẽ bắn vào ngài, người ta muốn ngài chết, nhưng chúng sẽ không
thể làm gì được ngài. Người kế vị ngài là một Giáo Hoàng không ai chờ đợi. Các
linh mục tu sĩ và các tôi tớ đích thật của Con Mẹ sẽ bị bách hại và nhiều người
sẽ chết vì niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Sẽ có một nạn đói lớn xảy ra vào thời
đó.
Sau khi mọi điều này sẽ xảy ra, nhiều người sẽ nhận biết bàn
tay của Thiên Chúa trên họ và sẽ hoán cải và sám hối các tội lỗi của mình. Tiếp
theo các quốc gia sẽ hoán cải và đức tin sẽ được thắp sáng trở lại khắp nơi. Một
vùng lớn của miền Bắc Âu châu, giờ đây là tin lành, sẽ hoán cải và theo gương
vùng này các quốc gia khác của thế giới cũng sẽ hoán cải. Ít lâu sau đó sẽ có
hoà bình lớn, nhưng nó không kéo dài. Một con quái vật sẽ đến phá phách nó. Một
vị vua lớn sẽ lên ngôi và sẽ cai trị vài năm. Tôn giáo sẽ nở hoa và lan tràn
trên toàn trái đất và sẽ có sự phì nhiêu lớn, thế giời hài lòng vì không thiếu
thốn gì, sẽ lại bắt đầu các vô trật tự và sẽ bỏ Thiên Chúa và lại ôm ấp các đam
mê tội phạm của nó.
Cũng sẽ có các thừa tác viên của Thiên Chúa và các hiền thê
của Chúa Giêsu Kitô phó mình cho các vô trật tự và đây sẽ là điều kinh khủng,
sau cùng một hoả ngục sẽ cai trị trên toàn Trái đất; khi đó Tên Phản Kitô sẽ
sinh ra từ một tôn giáo, nhưng khốn cho tôn giáo đó: nhiều người sẽ tin vào nó
bởi vì nó nói nó từ trời đến; thời gian không còn xa lắm, sẽ không qua hai lần
50 năm.”
Linh mục Livio Fanzaga viết về biến cố Đức Mẹ hiện ra như
sau: “Một cách tự phát các giọt nước mắt của Đức Bà La Salette khiến tôi so
sánh chúng với mồ hôi máu của Chúa Kitô trong vườn Giệtsêmani. Chúa Giêsu đã chết
vì tội lỗi chúng ta và vì thế Ngài đã cho thấy rõ tình yêu vô biên của Ngài –
nhưng tình yêu ấy không được hiểu biết, không được tiếp nhận lại còn bị khước từ…
Vì thế các giọt nước mắt của Đức Bà cho chúng ta thấy việc không đáp trả lại ơn
thánh, nghĩa là sự khước từ chống lại lòng thương của Thiên Chúa. Đó là các nước
mắt đớn đau Mẹ đổ ra trên chúng ta, trên các con cái Mẹ đang sống trong tội lỗi,
bởi vì Mẹ Maria không thể cưỡng bách chúng ta hoán cải, nhưng chỉ có thể diễn tả
nỗi cay đắng đối với việc khước từ món quà tình yêu”.
TMH 521
Linh Tiến Khải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét