01/10/2017
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG
NIÊN – A
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
(phần II)
Phụng vụ Lời
Chúa: Chúa Nhật 26 thường niên, năm A
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
(Cv 1,12-14; Gl
4,4-7; Lc 1,26-38)
ĐỨC MARIA – MẪU GƯƠNG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”(Lc 1,38)
I. CÁC BÀI ĐỌC:
Các bài đọc hôm này đề
cao vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và là mẫu
gương của đời sống đức tin cho người Kitô hữu.
1. Bài đọc I (Cv 1,12-14):
Bài đọc I thuật lại cuộc
sống của những người môn đệ sau biến cố Đức Giêsu được rước lên trời. Trong số
đó có các tông đồ, có các người phụ nữ thường theo Đức Giêsu trên hành trình
loan báo Nước Trời của Người, có các anh em bà con của Đức Giêsu và dĩ nhiên là
với sự hiện diện của Đức Maria, thân mẫu Người.
Sau khi trở về nơi trú
ngụ ở Giêrusalem từ núi Ôliu, nơi Đức Giêsu được rước lên trời, dựa theo truyền
thống Luca, các ông đã làm hai việc đáng lưu ý nói lên nền tảng căn bản làm mẫu
mực cho đời sống cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, đó là:
- đồng tâm nhất trí với
nhau;
- chuyên cần cầu nguyện.
Điều đáng nói là trước
đây các ông ít thực hiện hai việc này, nhưng lúc này các ông lại làm khi cùng
quy tụ với những người nam và người nữ là môn đệ của Đức Giêsu, quanh Đức
Maria, mẫu mực và là thầy dạy việc cầu nguyện. Quả thật Đức Maria luôn cầu nguyện
để tìm kiếm Thánh ý Thiên Chúa và suy niệm trong lòng: từ biến cố truyền tin,
khi dâng Đức Giêsu trong Đền thờ, suốt hành trình theo Đức Giêsu đến tận đỉnh
núi Canvê. Do đó, có thể nói, các tông đồ và những người tin theo Đức Giêsu lúc
này “đồng tâm nhất trí với nhau” và “chuyên tâm cầu nguyện” theo mẫu mực của Đức
Maria. Như thế, Đức Maria có vai trò quan trọng trong việc đào tạo đức tin và củng
cố đời sống các tín hữu.
2. Bài đọc II (Gl 4,4-7):
Bài đọc 2 ngầm so sánh
hai người “đàn bà” nổi tiếng trong Kinh Thánh nhưng lại thuộc hai thái cực khác
nhau: một người thuộc thời Cựu Ước là căn nguyên của sự chết; một người thuộc
thời Tân Ước là đấng khai sinh Đức Giêsu-Nguồn sự sống.
Thật vậy, nếu Eva là
người đàn bà đã đem tội lỗi vào thế gian, thì Đức Maria, Eva mới, đã sinh ra Đấng
là nguồn ân sủng trong thế gian. Nếu Eva làm cho con người phải nô lệ tội lỗi
và vì có tội nên có Lề Luật, do đó cũng làm cho con người bị giam hãm trong Lề
Luật (x. Gl 4,23), thì Đức Maria sinh ra Đấng chuộc con người khỏi nô lệ của tội
lỗi và khỏi sự giam hãm của Lề Luật. Nếu Eva làm cho con người mất quyền làm
con cái Thiên Chúa, thì Đức Maria sinh ra Đấng đem lại cho con người phúc làm
nghĩa tử của Thiên Chúa.
Quả thật, khi đến thời
viên mãn, qua Đức Maria, Thiên Chúa đã sai Con mình tới để giải thoát con người
khỏi mọi ách nô lệ của Lề Luật và tội lỗi, cho con người nhận lại ơn làm nghĩa
tử, làm người thừa kế gia nghiệp Nước Trời. Như thế, Đức Maria cộng tác một phần
rất lớn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
3. Bài Tin Mừng (Lc
1,26-38):
Bài Tin Mừng thuật lại
biến cố truyền tin cho Đức Maria. Sứ thần Gábrien, có nghĩa là sức mạnh của
Thiên Chúa, đã đến loan tin vui cho Đức Maria với lời chào: “Mừng vui lên, hỡi
Đấng đầy ân sủng”. “Mừng vui lên” vì được Thiên Chúa viếng thăm. “Đấng đầy ân sủng”
vì có Thiên Chúa ở cùng qua việc được diễm phúc làm Mẹ Thiên Chúa. Đây cũng là
ân sủng cao quý nhất và là nguồn gốc của mọi ân sủng khác mà Đức Maria nhận được.
Thật vậy, vì được phúc làm Mẹ Thiên Chúa nên Đức Maria được tiên liệu cho hưởng
đặc ân vô nhiễm nguyên tội; vì được phúc làm Mẹ Thiên Chúa nên ngài được ơn trọn
đời đồng trinh, và vì được phúc làm Mẹ Thiên Chúa nên ngài được hưởng trước hoa
trái ơn cứu độ mà Đức Giêsu, Con lòng bà, mang lại, đó là được hồn xác lên trời.
Trước ân sủng lớn lao
của Thiên Chúa dành cho mình, Đức Maria đã có phản ứng rất tự nhiên: ngài đã
bày tỏ cảm xúc lo sợ qua tâm trạng “rất bối rối” và diễn tả việc suy nghĩ cân
nhắc qua hành vi “tự hỏi” về sứ điệp mà sứ thần vừa loan báo cho mình. Tuy
nhiên, đó không phải là sự hoài nghi như trong trường hợp của ông Dacaria khi nghe
sứ thần truyền tin (Lc 1,12.18) mà là sự biểu hiện của một đức tin trưởng thành
trước sứ mạng Thiên Chúa trao cho mình. Do đó, khi đã nhận biết Thánh ý của
Thiên Chúa trên cuộc đời và ơn gọi của ngài, Đức Maria đã hoàn toàn tuân theo:
“Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần
nói”. Như thế, Đức Maria là thầy dạy chúng ta trong đời sống đức qua ba thái độ
cụ thể: tin tưởng vào Thiên Chúa, phó thác cho Thiên Chúa, và vâng theo kế hoạch
của Người.
Biến cố truyền tin cho
Đức Maria trong bài Tin Mừng hôm nay là mầu nhiệm thứ nhất trong 5 sự vui của
chuỗi Mân Côi. Đồng thời, lời chào của Sứ thần Gábrien trong biến cố truyền tin
này làm nên nội dung phần đầu của Kinh Mân Côi “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức
Chúa Trời ở cùng Bà…”. Do đó, Kinh Mân Côi diễn tả cách tuyệt vời mầu nhiệm Con
Thiên Chúa nhập thể và vai trò cộng tác của Đức Maria trong mầu nhiệm cứu độ của
Thiên Chúa.
II. GỢI Ý MỤC VỤ
1. “Đồng tâm nhất trí
với nhau” và “chuyên cần cầu nguyện” là hai đặc tính căn bản của cộng đoàn Kitô
hữu (x. Cv 1,14; 2,42-46). Chỉ khi như thế, các môn đệ của Đức Giêsu mới có thể
liên kết với nhau như các chi thể trong một thân thể huyền nhiệm Đức Giêsu Kitô
Phục sinh. Cũng nhờ làm như thế, các môn đệ có thể lãnh nhận Chúa Thánh Thần và
dám ra đi loan báo Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, các môn đệ khi trở
về nơi trú ngụ sau khi chứng kiến Đức Giêsu lên trời, đã thấy Đức Maria hiện diện
ở đó, nghĩa là họ có thể “đồng tâm nhất trí với nhau” và “chuyên cần cầu nguyện”
khi quy tụ quanh Đức Maria. Nhóm, cộng đoàn giáo xứ, cộng đoàn tu trì của chúng
ta có thực sự là môi trường để sống hiệp nhất và là trường dạy cầu nguyện hay
không? Đức Maria có vai trò như thế nào trong đời sống cộng đoàn của chúng ta,
nhất là trong việc đào tạo đức tin và củng cố đời sống đạo?
2. Khi thời gian tới hồi
viên mãn, Thiên Chúa đã sai con mình tới, sinh làm con của một người đàn bà, để cứu độ và làm cho mọi người trở thành con
Thiên Chúa. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa diễn tiến trong lịch sử và từng
bước đúng thời đúng buổi của nó. Tuy nhiên, chương trình ấy có được thực hiện
đúng thời đúng buổi hay không cũng cần sự cộng tác của con người. Nếu Eva cũ đã
khước từ ân sủng của Thiên Chúa qua việc bất tuân lệnh truyền của Người, làm
cho con người mất phúc làm con cái Thiên Chúa và phải chết, thì Đức Maria, Eva
mới, nhờ thái độ vâng phục, đã sinh hạ Đấng Cứu thế đem lại cho con người quyền
làm nghĩa tử và được sống muôn đời. Nếu Đức Maria đã cộng tác một phần rất lớn
trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa để đem lại hoa trái cứu độ như thế,
chúng ta đã đóng góp phần mình vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa như thế
nào? Chúng ta đang là những “Eva cũ” cản trở chương trình của Thiên Chúa hay là
những “Eva mới” cộng tác vào chương trình của Thiên Chúa?
3. Đức Maria là thầy dạy
chúng ta về đời sống Kitô hữu qua ba thái độ cụ thể: tin tưởng vào Thiên Chúa,
phó thác cho Thiên Chúa, và vâng theo kế hoạch của Người mà Đức Maria đã thể hiện
qua biến cố truyền tin. Quả thật, đời sống Kitô hữu được xây dựng trên nền tảng
đức tin. Tin dẫn đến việc phó thác đời mình vào tay Thiên Chúa. Tin thúc đẩy
tìm kiếm và vâng theo Thánh ý Thiên Chúa. Dầu vậy, đức tin này không phải là đức
tin mù quáng, mà là một đức tin trưởng thành, có cân nhắc qua nhưng lý lẽ của
lý trí và cảm xúc của con tim. Tuy nhiên, đức tin không thể là một thái độ nửa
vời mà cần có một chọn lựa dứt khoát qua tiếng “xin vâng”; điều đó đưa tới một
dấn thân trọn vẹn cho Thánh ý của Thiên Chúa. Chúng ta đã thể hiện đời sống đạo
như thế nào? Có hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, phó thác cho Thiên Chúa, tìm
kiếm và vâng theo kế hoạch của Người trên cuộc đời mình hay không?
4. Bài Tin Mừng về biến
cố Truyền tin cho Đức Maria được chọn đọc trong lễ Đức Mẹ Mân Côi và cũng là là
mầu nhiệm thứ nhất trong 5 sự vui của Chuỗi Hoa hồng. Hơn thế nữa, lời chào của
Sứ thần Gábrien trong biến cố truyền tin này làm nên nội dung phần đầu của Kinh
Mân Côi, còn phần hai là lời của bà Êlisabét chúc khen Đức Maria (Lc 1,42) và lời
Giáo Hội xin ngài cầu bầu cho mỗi người tín hữu. Vì thế, Kinh Mân Côi diễn tả
cách tuyệt vời mầu nhiệm Con Thiên Chúa nhập thể và vai trò cộng tác của Đức
Maria trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa; đồng thời diễn tả tâm tình biết ơn
của Giáo Hội với Đức Maria.
Trong lịch sử Giáo Hội,
chính Thánh Đaminh đã phổ biến Kinh Mân Côi vào thế kỷ 13 để chống lại bè rối
Albigeois ở miền Nam nước Pháp. Còn đối với đời sống Kitô hữu hiện nay, Kinh
Mân Côi là lời kinh rất quan trọng, như Ðức Bênêđíctô XV nói: “Kinh Mân Môi là
một trường học của Đức Mẹ mà trong ấy các Kitô hữu có thể học để cho ánh sáng Đức
Tin tỏa sáng hơn trong lòng họ”; và trong một lần khác, ngài đã nói “Kinh Mân
Côi cần thiết hơn bao giờ hết, vì không những dâng lên Mẹ để nhờ Mẹ làm đẹp
lòng Thiên Chúa ban mọi ơn cho chúng ta, mà Kinh Mân Côi còn mang một dấu hiệu
lời kinh chung gia đình”. Chúng ta có siêng năng lần Chuỗi Mân Côi, qua đó suy
gẫm về các mầu nhiệm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, nhất là mầu nhiệm
Nhập Thể hay không? Con người thời đại chúng ta đang có khuynh hướng chia rẽ,
con người cảm thấy cô đơn. Chúng ta có ý thức rằng Chuỗi Mân Côi là một lời
kinh mang tính kết nối: qua Mẹ đến với Chúa và qua Mẹ để liên đới với nhau khi
đọc Kinh Mân Côi chung trong gia đình, thôn xóm và trong cộng đoàn giáo xứ dòng
tu hay không?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em
thân mến! Nhờ niềm tin tưởng phó thác và sự khiêm tốn vâng phục của Ðức Maria
mà Thiên Chúa đã khởi sự công cuộc cứu chuộc loài người qua mầu nhiệm Ngôi Lời
Nhập Thể. Trong ngày mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi hôm nay, chúng ta cùng chung lời ngợi
khen Chúa và tha thiết cầu xin:
1. “Các Tông đồ luôn đồng
tâm nhất trí và chuyên cần cầu nguyện cùng với Đức Maria.” Chúng ta cùng cầu
nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh luôn hiệp nhất với nhau để lời rao giảng có
thêm sức mạnh và việc phục vụ đem lại nhiều hoa trái.
2. “Maria đừng sợ, vì
đã được ơn nghĩa với Chúa.” Chúng ta cùng cầu xin cho những người đang gặp khó
khăn hay đau khổ về tinh thần lẫn thể xác biết học gương nhân đức của Mẹ, luôn
sẵn sàng đón nhận và mau mắn thực thi thánh ý Chúa trong cuộc đời.
3. “Hãy siêng năng lần
chuỗi mân côi.” Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi tín hữu luôn ý thức giá trị của
kinh mân côi, và siêng năng thực hành như một phương thế để tái khám phá đức
tin và đào sâu các mầu nhiệm cuộc đời của Đấng cứu độ trần gian.
4. “Không có việc gì
mà Chúa không làm được.” Xin cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta, biết noi
gương Đức Maria, vững lòng tin cậy nơi quyền năng của Thiên Chúa, luôn sống tín
thác và trở nên khí cụ cho dự án yêu thương của Người trong xã hội hiện tại.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa
đã muốn Con Một Chúa mặc lấy xác phàm trong cung lòng Trinh Nữ Maria. Xin nhận
lời chúng con cầu nguyện và giúp chúng con biết noi gương Mẹ luôn trung thành gắn
bó với Đức Kitô, Con Chúa. Người hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
CHÚA NHẬT XXVI
TN - A
(Ed 18,25-28;
Phl 2,1-11; Mt 21,28-32)
THI HÀNH Ý CHA
“Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt
21,31)
I. CÁC BÀI ĐỌC
1. Bài đọc I (Ed 18,25-28)
Con người có thể đổi
thay, và thường có hai xu hướng: từ tốt trở nên xấu hoặc từ xấu thành tốt. Ngôn
sứ Êdêkien trong bài đọc I hôm nay nói về người công chính rời bỏ đường ngay nẻo
chính, và sau đó, là một người gian ác từ bỏ con đường gian ác. Nhân danh Thiên
Chúa, ngôn sứ tuyên bố một luận điểm rất quan trọng, đó là: chính thái độ sống
sau cùng mới có giá trị để được ân thưởng hay bị luận phạt. Nếu một người công
chính từ bỏ đường ngay nẻo chính và làm điều bất chính, thì người ấy sẽ chết bởi
điều mình làm; còn người gian ác từ bỏ điều xấu đã làm và sống chính trực công
minh, sẽ cứu được chính mình.
2. Bài đọc II (Phl 2,1-11)
Thánh Phaolô trong bài
đọc II trích thư gởi cho các tín hữu Philiphê đã chỉ ra đâu là cách hành xử phải
có của người Kitô hữu. Người nói: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những
tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu”. Ở đây thánh Phaolô muốn nói đến tâm tình
nào? Đó là quảng đại hoàn toàn, đến độ chấp nhận cả sự sỉ nhục, trong sự vâng
phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa.
Thật vậy, Đức Giêsu,
“vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với
Thiên Chúa”. Người đã có thể chọn một cuộc sống vinh quang, danh dự, với mọi biệt
đãi đến từ cương vị làm Con Thiên Chúa của Người. Vậy mà Người lại hạ mình, từ
bỏ mọi vinh dự vốn có, trở nên kiếp sống phàm nhân hèn mọn để liên đới với
chúng ta, những con người tội lỗi.
Chính hành trình này của
Đức Giêsu, nói như thánh Phaolô, phải trở nên là hành trình của mỗi chúng ta.
Đó là con đường yêu thương thật sự. Ơn gọi Kitô giáo, thật ra, là một ơn gọi hướng
đến tình yêu thương quảng đại, ngoan ngùy trước thánh ý của Thiên Chúa và liên
đới với những con người đau khổ.
Khởi đầu bài đọc II
hôm nay thánh Phaolô có nói đến con đường mà chúng ta phải đi: đó là con đường
của đức ái, con đường của sự hiệp thông trong tinh thần cũng như của tình yêu
và sự thương cảm. Chúng ta phải từ bỏ sự ích kỷ kiêu căng của mình để sống trọn
vẹn trong đức ái và trong tinh thần hiệp nhất với nhau.
3. Bài Tin Mừng (Mt
21,28-32)
Tin Mừng Chúa Nhật hôm
nay nói về vườn nho và những người thợ đi làm vườn nho. Trong ngôn ngữ Kinh
Thánh, vườn nho biểu trưng cho Dân Thánh mà Thiên Chúa cần mẫn chăm sóc, nhưng
kết quả thu lại rất ít ỏi, do bởi sự từ chối cộng tác của họ (x. Is 5,1-2).
Bài Tin Mừng hôm nay
được chia thành hai phần: dụ ngôn ngắn về vườn nho (21,28-30) và phần áp dụng
cho người nghe (31-32). Ở đây, thính giả của Đức Giêsu là các thượng tế và kỳ mục
trong dân, là những người có thẩm quyền chính thức được công nhận lúc bấy giờ.
Chính những người này trước đó đã thẩm vấn Đức Giêsu về việc Người tự do giảng
dạy trong Đền thờ: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy?” (Mt 21,23).
Thật ra, Đức Giêsu
cũng chỉ là một người tín hữu bình thường, nhưng lại cho phép mình được giảng dạy
cho dân chúng con đường của Thiên Chúa trong khuôn viên Đền thờ, mà không có
phép của giới chức có thẩm quyền lúc bấy giờ. Người lại không học trong những
ngôi trường của họ, nên không có đủ thẩm quyền để làm điều đó. Nhưng vấn đề khó
chịu nhất, đó là đông đảo dân chúng lại kéo đến lắng nghe Người. Vì thế, khi trả
lời câu hỏi của họ, Đức Giêsu đã đưa ra một câu hỏi về phép rửa của Gioan Tẩy
Giả: đó là phép rửa bởi trời hay bởi con người? (x. Mt 21,25). Họ không biết và
không muốn trả lời câu hỏi này. Và Đức Giêsu đã kết luận đơn giản là: tôi cũng
không biết (x. Mt 21,27). Sự chống đối lại tăng lên: một phần là dân chúng kéo
đến với Người, một phần là do sự khủng hoảng với giới chức lãnh đạo tôn giáo
đang tăng dần lên. Trước thực trạng này, chắc chắn rất nguy hiểm, thế nhưng Đức
Giêsu vẫn không rút lui, mà vẫn muốn làm tăng thêm sự chống đối. Chính vì thế,
Người giới thiệu dụ ngôn hai người con này với câu hỏi trực tiếp “các ông nghĩ
sao?” (21,28).
Trả lời cho câu hỏi của
Chúa Giêsu “ai trong hai người đã làm theo ý muốn của người cha?” (21,31), họ
đáp rất chính xác rằng: “người thứ nhât”, tức là người con ban đầu nói không,
nhưng sau đó lại đi làm.
Có một câu nói của các
thầy Rábbi: “người công chính hứa ít làm nhiều; người gian ác nói nhiều và chẳng
làm bao nhiêu”. Nhưng ở đây Đức Giêsu muốn đi xa hơn nữa, đó là: sự đáp trả của
con người trước lời gọi của Thiên Chúa. Phản ứng tiêu cực đầu tiên của con người
có thể sửa sai được. Các giới chức lãnh đạo Đền thờ đã phê chuẩn hành xử của
người con thứ nhất, nhưng lại khó chấp nhận việc Chúa Giêsu áp dụng cho những
người thu thuế và gái điếm, là những người mà theo như lời Người nói, sẽ vào Nước
Thiên Chúa trước họ.
Thật ra, việc hoán cải
của những người thu thuế và gái điếm được xem là gần như không thể trong xã hội
tôn giáo lúc bấy giờ. Nhưng chính Đức Giêsu đã cho thấy điều ngược lại: những
người thu thuế và gái điếm biết thành tâm đón nhận sứ điệp Tin Mừng ơn cứu độ;
trong khi giới chức lãnh đạo tôn giáo đại diện cho người con thứ hai, là người
đã nói tiếng xin vâng đầu tiên, nhưng lại không thực hiện.
Dụ ngôn này có thể được
xem là một ‘ẩn số’ cần được giải đáp khi kết thúc với những hàm ẩn sâu xa và thực
tế cho cuộc sống, đặc biệt cho những gì được xem thấy ban đầu. Dụ ngôn này có
thể là một lời cảnh báo đối với những người thờ phượng Chúa chỉ bằng lời nói
suông, nhưng thực tế lại không thi hành ý muốn của Chúa. Nhưng đây cũng là một
lời khích lệ, một lời mời gọi cho những người biết ý thức sự yếu đuối của mình,
và kiên nhẫn đợi chờ sự thúc đẩy của Thần Khí, để đón nhận sứ điệp của Tin Mừng
cứu rỗi.
Bên cạnh đó, nơi dụ
ngôn, người cha không ép buộc hai người con của mình, mà như ta thấy cuối cùng,
họ đã làm những gì họ muốn. Và Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với ta như thế. Người
mời gọi ta và vẫn hằng kiên nhẫn gọi mời. Phần chúng ta, chúng ta có tự do chọn
lựa và đáp trả. Và ta có thể nói rằng Thiên Chúa quyền lực vô song đã phải trở
nên bất khả trước những chọn lựa và quyết định của ta. Người đặt để chúng ta
trước sự thiện và ác, giữa sự sống và cái chết, và quyết định là ở nơi ta.
II. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Chính thái độ sống
sau cùng mới có giá trị để được ân thưởng hay bị luận phạt. Từ luận điểm của
ngôn sứ Êdêkien, nhìn lại đời mình, tôi có quảng đại và bác ái trong cách đánh
giá và nhìn nhận người khác, theo cách thức mà tôi ao ước Thiên Chúa và những
người khác nhìn tôi mỗi ngày?
2. “Giữa anh em với
nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu”. Tôi đã có những
tâm tình nào đối với anh chị em tôi bên cạnh những tâm tình của Đức Giêsu Kitô
mà thánh Phaolô khuyên nhủ?
3. “Các ông nghĩ sao
[...] trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Câu hỏi của
Đức Giêsu đối với giới chức lãnh đạo tôn giáo Do Thái cũng là câu hỏi chất vấn
chính tôi hôm nay: tôi nghĩ sao về cách sống đạo của mình, trong tương quan với
Thiên Chúa và trong tương quan với anh chị em của mình?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em
thân mến! Thiên Chúa là Đấng công minh chính trực hằng mong muốn tất cả mọi người
được công chính hóa qua việc vâng nghe và thi hành thánh ý của Người. Với quyết
tâm sống theo ý Chúa, cộng đoàn chúng ta hãy thành khẩn nguyện xin:
1. Cầu cho Đức Giáo
Hoàng Phanxicô và hàng Giám mục. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh luôn bừng cháy
lòng nhiệt thành cùng sáng suốt trong việc chăm sóc và hướng dẫn đoàn chiên
Chúa đã trao phó trên hành trình tiến về quê trời.
2. Cầu cho các kitô hữu
đang bị bách hại trên thế giới. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho những anh chị em
đang chịu nhiều đau khổ vì Đức Kitô, xin cho họ được bình an và luôn kiên vững
vượt qua mọi gian nan thử thách để tuyên xưng và làm chứng cho niềm tin của mình.
3. Cầu cho những người
đang lầm đường lạc lối. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho những ai chọn lối sống
sai trái để đạt được mục tiêu đời mình, nhận biết giá trị trường tồn của chân
lý, tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa, để quyết tâm hoán cải và làm lại cuộc
đời.
4. Cầu cho mọi người
trong cộng đoàn chúng ta. Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta
luôn tỉnh thức nhận ra lời mời gọi của Chúa, và mau mắn đáp trả bằng việc tích
cực dấn thân cộng tác để mọi sinh hoạt của cộng đoàn luôn hiệp nhất và thêm
phong phú.
Chủ tế: Lạy Chúa là Cha rất nhân lành, xin khứng nhận những ước
nguyện chân thành của chúng con và xin dùng quyền lực Thánh Thần biến đổi, giúp
chúng con luôn biết vâng nghe và thực thi ý Chúa trong sự khiêm tốn và tín
thác. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
SCĐ CHÚA NHỰT XXVI
TN A
CHỦ ĐỀ :
ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA
Sợi chỉ đỏ :
- Bài đọc I : Đường lối
của Thiên Chúa là đường hướng tới sự tốt. Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác mà
theo đường công chính thì sẽ được thưởng, còn người công chính mà bỏ lẽ công
chính để làm điều gian ác thì sẽ bị phạt.
- Đáp ca : "Lạy
Chúa, xin chỉ cho tôi đường lối Chúa"
- Tin Mừng : Dụ ngôn
hai người con : Người con thứ nhất ban đầu nói "Không" nhưng sau hối
hận đi làm cho cha ; người con thứ hai ban đầu nói "vâng" nhưng sau
đó lại không làm.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúng ta sống ở trần
gian này như những lữ khách đang đi trên một con đường dài đằng đẳng. Nếu không
có Chúa dẫn đường, không biết chúng ta sẽ đi về đâu. Nhưng dù có Chúa dẫn đường
mà nếu chúng ta không theo Ngài thì chúng ta cũng vẫn lạc hướng.
Bởi vậy trong Thánh lễ
hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa chỉ cho chúng ta biết đường lối của Chúa để
chúng ta đi theo, ngõ hầu mọi người chúng ta đều đến được cùng đích hạnh phúc
vĩnh viễn của đời mình.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta mãi mê lo
cho cuộc sống trần gian hiện tại mà không nghĩ đến cuộc sống đời đời mai sau.
- Nhiều lần chúng ta
không đi đường công chính mà lại đi theo đường tội lỗi.
- Chúng ta thường nói
mình mến Chúa nhưng lại không làm theo thánh ý Ngài.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Êd 18,25-28)
Trong đoạn này, ngôn sứ
Êdêkien cố gắng bài bác hai quan niệm sống "tự mãn" và "tự
ti" :
- Tự mãn : có những người nghĩ rằng mình đã
"công chính" rồi nên tự mãn không cố gắng sống tốt hơn. Êdêkiên cảnh
cáo : "Khi người công chính từ bỏ đường công chính và phạm tội ác, nó sẽ
phải chết".
- Tự ti : có những người
khác thấy mình lỡ tội lỗi nên nản lòng ở lì mãi trong tội lỗi. Êdêkiên khuyến
khích : "Nếu kẻ gian ác bỏ đường gian ác nó đã đi và thực thi công bình
chính trực, nó sẽ được sống".
Như vậy, đường lối của
Thiên Chúa là một con đường mở rộng cho tương lai, khuyến khích cả người tốt lẫn
kẻ xấu ngày càng hướng về điều tốt hơn.
2. Đáp ca (Tv 24)
Đây là lời cầu nguyện
của một kẻ tội lỗi. Người này quyết chí bỏ đường tội lỗi, nài xin Chúa mở lòng
thương xót mà tha thứ tội lỗi xưa, và chỉ cho họ con đường mới hướng tới tương
lai tốt đẹp hơn.
3. Tin Mừng (Mt 21,28-32)
Bài đọc I cho biết một
nét của đường lối Chúa là không chấp nhất quá khứ mà khuyến khích người ta hướng
tới tương lai tốt đẹp hơn.
Bài Tin Mừng cho biết
nét thứ hai của đường lối Chúa : không chú trọng tới lời nói mà chú ý tới việc
làm. Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn về hai người con và đề cao người con thứ nhất :
- Người con thứ nhất
(đại biểu cho lương dân) tuy ban đầu nói "không" nhưng sau đó hối hận
và đi "làm" theo ý Thiên Chúa.
- Người con thứ hai (đại
biểu cho dân do thái) ngoài miệng luôn nói "vâng" nhưng thực tế thì
không "làm" theo ý Thiên Chúa.
4. Bài đọc II (Pl 2,1-11)
Thánh Phaolô dạy cho
tín hữu Philipphê một phương hướng sống :
- Đừng lấy nghĩ bản
thân mình làm chuẩn để mà tự mãn
- Cũng đừng lấy người
khác làm đối tượng so sánh để mà kiêu căng hoặc phân bì.
- Hãy nghĩ đến Đức
Giêsu Kitô như một tấm gương để chỉ lo bắt chước Ngài : Đức Giêsu Kitô chỉ biết
vâng lời Thiên Chúa mà hạ mình xuống tới mức tận cùng, nhưng nhờ đó Thiên Chúa
đã tôn vinh Ngài lên đến tột bậc.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Đường lối lạ lùng của Thiên Chúa
Những bài đọc hôm nay
trình bày đường lối hành xử của Thiên Chúa, rất khác với suy nghĩ của loài người
:
- Cảnh cáo phạt người
công chính và khuyến khích thưởng người gian ác (bài đọc I)
- Phê phán những người
"đạo đức" như biệt phái, luật sĩ, tư tế, và đề cao những người tội lỗi
như bọn thu thuế và gái điếm (bài Tin Mừng).
Không phải vì Thiên
Chúa muốn làm ngược với loài người mà vì Ngài quan tâm tới những giá trị thực :
- Giá trị thực của một
đời người không nằm ở quá khứ đạo đức hay tội lỗi của người đó, mà hệ tại hiện
tại người đó có quyết tâm sống công chính hay không.
- Giá trị thực của con
người không do những lời tốt đẹp người đó nói ra, mà do hành động của người đó.
Vì Thiên Chúa theo một
đường lối như thế cho nên Ngài đã ưu ái những người một thời nổi tiếng tội lỗi
như Giakêu, Mađalêna, tên trộm lành…
Phần chúng ta, đã biết
đường lối của Chúa là như thế thì chúng ta phải làm sao ?
- Đừng nghĩ rằng mình
đang thuộc hàng "công chính" để rồi ngủ mê trong ảo tưởng đạo đức về
mình.
- Cũng đừng cho rằng
mình thuộc hạng "thu thuế và đĩ điếm" để rồi buông xuôi cho dòng đời
lôi cuốn.
2. Thành kiến
Bài đọc I cho thấy
Thiên Chúa hành xử rất sáng suốt và hợp lý khi Ngài không có thành kiến đối với
quá khứ của con người : người có quá khứ tội lỗi nhưng biết sửa đổi thì Ngài
khen ngợi, kẻ có quá khứ đạo đức nhưng đang hướng theo con đường tội lỗi thì
Ngài vẫn trách mắng.
Thực ra, con người
không phải là một món đồ một khi đã được đúc khuôn thế nào thì mãi mãi vẫn là
thế ấy. Con người là một tác phẩm đang được thực hiện : hôm qua khác hôm nay,
và ngày mai sẽ còn khác nữa.
Thiên Chúa cho chúng
ta nhiều cơ hội để sửa đổi và hoàn chỉnh. Tại sao chúng ta không cho chính mình
những cơ hội ấy ? Tại sao chúng ta không cho người khác những cơ hội ấy ?
3. Mảnh suy tư
- Có hai tiếng người
ta thường nói nhiều nhất, đó là "Vâng" và "Không". Nhưng
giá trị của chúng không tùy vào lúc chúng vừa được nói ra, mà tùy theo sau đó
người ta có thực hiện hay không. Nói "vâng" mà không làm đâu có giá
trị bằng nói "không" mà lại làm.
- Lời hứa không tạo
nên uy tín cho con người ; lời nói tốt không thể thay thế cho những việc làm tốt.
- Con người chúng ta
có thể thay đổi từ "vâng" sang "không" và từ
"không" sang "vâng". Vì thế, cả hai người con trong dụ ngôn
này đều có thể là bài học cho chúng ta : nếu chúng ta giống người con thứ nhất
đã lỡ nói "không" với Chúa bấy lâu nay thì bây giờ chúng ta có thể
nói lại "xin vâng" ; còn nếu chúng ta giống người con thứ hai đã thưa
"xin vâng" thì đừng để cho mình bị thay đổi mà sửa lại thành
"không".
- Trong lịch sử Giáo Hội,
rất nhiều vị thánh lớn đã từng là những kẻ tội lỗi ban đầu đã nói
"không" với Chúa nhưng về sau đã sửa đổi và thưa "xin
vâng". Thánh Augustinô là một thí dụ điển hình.
4. Chuyện minh họa
a/ Cha sở bảo ông chủ
tịch Hội Đồng Giáo Xứ tìm cho đủ 10 người đến cầu nguyện bên giường một người hấp
hối.
Khi mọi người đã tụ họp
đông đủ bên giường bệnh. Có người rỉ vào tai Cha Sở :
- Thưa Cha, trong đám
này có mấy thằng chuyên môn trộm cắp.
- Càng tốt chứ sao, bởi
vì trong trường hợp Thánh Phêrô không chịu mở cửa thiên đàng thì mình nhờ họ mở
khóa dùm.
b/ Một người suốt đời
hết sức tránh tội. Hôm anh chết và lên trình diện với Thánh Phêrô thì trùng hợp
cũng có một đám các cô đĩ điếm ở đó.
Thánh Phêrô hỏi các cô
một cách ân cần, rồi mời các cô vào thiên đàng. Người nầy khó chịu quá, hỏi tại
sao, thì thánh nhân đáp :
- Nếu ngươi không chấp
nhận lòng thương xót của Chúa đối với người tội lỗi, thì hãy đi đi. Chỗ của
ngươi không phải ở đây !
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em
thân mến
Sám hối, canh tân đời
sống và đón nhận Tin Mừng là những việc làm thường xuyên trong đời sống đức tin
của người kitô hữu. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời
nguyện xin.
1- Đức Kitô đã thiết lập
Hội Thánh để đam lại ơn cứu độ cho muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa
ban nhiều ân sủng / cho Hội Thánh trên khắp hoàn cầu / để Hội Thánh được mãi
mãi là bạn tinh tuyền của Người.
2- Trong cuộc sống thường
ngày / tệ nạn xã hội làm điên đầu những kẻ có trách nhiệm / Không ít người đã
bán rẻ nhân phẩm / và danh dự của mình / vì nghèo đói cũng có / mà vì đua đòi
ăn chơi cũng có / Chúng ta hiệp lời cầu xin cách riêng cho giới trẻ / biết
tránh xa những cạm bẫy tinh vi của những kẻ buôn người / để khỏi phải chôn vùi
cuộc đời trong hố sâu tội lỗi.
3- Không ai là người
hoàn toàn vô tội trước mặt Thiên Chúa / Vì thế thái độ đúng đắn nhất là ý thức
thân phận tội lỗi yếu hèn của mình / và đừng xét đoán cũng như kết án người
khác / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu / biết luôn cố gắng sống những
gì Chúa Giêsu đã dạy.
4- Đức Giêsu nói /
"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy / Lạy Chúa / lạy Chúa / là được vào Nước
Trời cả đâu. Nhưng chỉ ai thực hành ý muốn của Cha Thầy Đấng ngự trên trời / mới
được vào mà thôi" / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng
ta / biết nỗ lực thực thi ý Chúa / tức là làm trọn mọi bổn phận trong giây phút
hiện tại.
CT : Lạy Chúa
Giêsu, chỉ nguyên danh xưng Kitô hữu không đủ để bảo đảm phần rỗi cho chúng
con, mà phải sống theo Lời Chúa trong Tin Mừng và thi hành ý Chúa mới giúp
chúng con được sống muôn đời. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể
sống như Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị…
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha :
Chúng ta đều là con của Chúa Cha trên trời. Nhưng chúng ta đừng là người con thứ
hai, miệng luôn nói "vâng vâng dạ dạ" nhưng lại không làm theo ý Cha.
Chúng ta hãy làm người con thứ nhất, biết tìm ý muốn của Cha để làm theo.
Trong tâm tình ấy,
chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng đọc kinh Lạy Cha.
VII. GIẢI TÁN
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, người cha đã nói với hai đứa con "Các con hãy đi làm vườn nho cho
Cha". Giờ đây Chúa cũng nói với chúng ta như thế. Chúng ta hãy ra đi và
làm theo ý của Chúa Cha.
Lm.Carolo HỒ BẶC XÁI
Lectio Divina:
Chúa Nhật XXVI Thường Niên (A)
Chúa Nhật, 1 Tháng 10,
2017
Dụ ngôn hai người con
Việc vâng lời bất tuân phục và việc cãi lời vâng phục
Mt 21:28-32
1. Lời nguyện mở đầu
Lạy Chúa Giêsu, xin
hãy ban Thần Khí Chúa đến giúp chúng con đọc Kinh Thánh với cùng tâm tình mà
Chúa đã đọc cho các môn đệ trên đường Emmau.
Trong ánh sáng Lời Chúa, được viết trong Kinh Thánh, Chúa đã giúp các
môn đệ khám phá ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong nỗi đau buồn về bản
án và cái chết của Chúa. Vì thế, cây thập
giá tưởng như là sự kết thúc của mọi niềm hy vọng, đã trở nên nguồn mạch của sự
sống và sự sống lại.
Xin hãy tạo trong
chúng con sự thinh lặng để chúng con có thể lắng nghe tiếng Chúa trong sự Tạo Dựng
và trong Kinh Thánh, trong các sự việc của đời sống hằng ngày và trong những
người chung quanh, nhất là những người nghèo khó và đau khổ. Nguyện xin Lời Chúa hướng dẫn chúng con, để
giống như hai môn đệ từ Emmau, chúng con cũng sẽ được hưởng sức mạnh sự phục
sinh của Chúa và làm chứng cho những người khác rằng Chúa đang sống hiện hữu giữa
chúng con như nguồn mạch của tình anh em, công lý và hòa bình. Chúng con cầu xin vì danh Chúa Giêsu, con Đức
Maria, Đấng đã mặc khải cho chúng con về Chúa Cha và đã sai Chúa Thánh Thần đến
với chúng con. Amen.
2. Bài Đọc
a) Chìa khóa để hướng
dẫn bài đọc:
Chúa Giêsu kể lại một
sự kiện rất phổ biến trong cuộc sống gia đình.
Một người con trai nói với cha:
“Vâng, con đi!” nhưng rồi không đi.
Người con khác nói: “Con không
đi!” nhưng sau đó lại đi. Chúa Giêsu đòi
hỏi những người đang nghe phải chú ý và đưa ra ý kiến. Trong bài đọc, chúng ta hãy chú ý để khám phá
ra điểm chính xác mà Chúa Giêsu muốn gợi lên sự chú ý của chúng ta.
b) Phân đoạn bài
Tin Mừng để trợ giúp cho bài đọc:
Mt 21:28-31a: Sự so sánh
Mt 21:31b-32: Ứng dụng của sự so sánh
c) Phúc Âm:
28-31a: Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và
các kỳ lão trong dân rằng: “Các ông nghĩ
sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo: ‘Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho
cha!’ Nó thưa lại rằng: ‘Con không đi.’ Nhưng sau đó nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: ‘Thưa cha, vâng con đi.’ Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha
mình?” Họ đáp: “Người con thứ nhất.”
31b-32: Chúa Giêsu bảo họ: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế
và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công
chính, và các ông không tin Ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin
Ngài. Còn các ông, sau khi xem thấy điều
đó, các ông cũng không hối hận mà tin Ngài.”
3. Giây phút thinh lặng
cầu nguyện
Để Lời Chúa được thấm
nhập và soi sáng đời sống chúng ta.
4. Một vài câu hỏi gợi
ý
Để giúp chúng ta trong
việc suy gẫm cá nhân.
a) Điểm nào của câu chuyện về hai người con tạo
được sự chú ý của bạn nhất? Tại
sao?
b) Chúa Giêsu đang nói với ai? Tại sao Người lại kể dụ ngôn ngày?
c) Điểm chính được nhấn mạnh bởi Chúa Giêsu
trong thái độ của hai người con là gì?
d) Chúa Giêsu gợi ý qua bài dụ ngôn này là loại
vâng lời nào?
e) Làm thế nào mà những người thu thế và gái điếm
lại được ưu tiên hơn cả các thượng tế và kỳ lão?
f) Và tôi, tôi đang ở đâu? Tôi đang ở trong số những gái điếm và người tội
lỗi hay là trong số các thượng tế và kỳ lão?
5. Chìa khóa của bài
đọc
Dành cho những ai muốn
đào sâu vào trong bài Tin Mừng.
a) Bối cảnh đoạn Phúc Âm mà Mátthêu đặt để những
lời này của Chúa Giêsu (Tin Mừng Mátthêu các chương 18-23):
* Bối cảnh của Tin Mừng Mátthêu trong đó bài dụ
ngôn này được tìm thấy là bối cảnh của sự căng thẳng và nguy hiểm. Sau Bài Giảng về Giáo Hội (Mt 18:1-35), Chúa
Giêsu rời xứ Galilê, vượt qua sông Giođan và bắt đầu cuộc hành trình cuối cùng
của Người tiến về Giêrusalem (Mt 19:1).
Trước đó khá lâu, Người đã nói rằng Người sắp lên đường tiến về
Giêrusalem để bị bắt, bị giết và sau đó Người sẽ sống lại (Mt 16:21;
17:22-23). Giờ đây là lúc phải đi về
thành thánh và phải đối mặt với ngục tù và cái chết (Mt 20:17-19).
* Khi Người đến Giêrusalem, Chúa Giêsu trở
thành chủ đề của cuộc xung đột. Một mặt,
người ta chào đón Chúa một cách vui mừng (Mt 21:1-11). Ngay cả trẻ em cũng hoan hô Người, với một cử
chỉ tiên tri, Người trục xuất những kẻ buôn bán khỏi đền thờ và Người chữa lành
người mù và què (Mt 21:12-15). Mặt khác,
các thượng tế và luật sĩ thì chỉ trích Người.
Họ yêu cầu Người bảo các trẻ em giữ yên lặng (Mt 212:15-16). Với tình hình căng thẳng như thế, Chúa Giêsu
phải nghỉ qua đêm bên ngoài thành phố (Mt 21:17; Ga 11:53-54). Nhưng ngày hôm sau, Người quay trở lại vào buổi
sáng sớm và, trên đường đến Đền Thờ, Người rủa cây vả, biểu tượng của
Giêrusalem, không ra trái mà chỉ toàn lá (Mt 21:18-22). Đoạn Người đi vào Đền Thờ và bắt đầu giảng dạy
cho dân chúng.
* Trong khi Người đang nói với dân chúng, các kẻ
có thẩm quyền trong dân đến chất vấn Người.
Chúa Giêsu trả lời họ từng người một (Mt 21:33 – 22:45), các thượng tế
và kỳ lão (Mt 21:23), những người Biệt Phái (Mt 21:45; 22:41), các môn đệ của
nhóm Biệt Phái và Hêrôđê (Mt 22:16), nhóm Sa-đốc (Mt 22:23), các luật sĩ (Mt
22:35). Sau cùng, Chúa Giêsu khiển trách
nặng nề và khá lâu những người kinh sư và Biệt Phái (Mt 23:1-36), tiếp theo là
lời thương tiếc cho thành Giêrusalem, thành này sẽ không được cải đổi (Mt
23:37-39). Đó là ở trong bối cảnh căng
thẳng và nguy hiểm mà Chúa Giêsu kể dụ ngôn về câu chuyện của hai người con, chủ
đề cho bài suy gẫm của chúng ta.
b) Lời bình giải về lời của Chúa Giêsu trong Tin
Mừng Mátthêu:
Mt 21:28-30: Một ví dụ được trích ra từ đời sống gia đình
* Các ông nghĩ sao? Đây là một câu hỏi khiêu khích. Chúa Giêsu đòi hỏi người nghe phải chú tâm
nghe và trả lời. Trong bối cảnh của dụ
ngôn, những người đang lắng nghe được mời gọi đưa ra ý kiến của họ là các thượng
tế và kỳ lão trong dân (Mt 21:23). Những
người này là những kẻ, vì sợ dân chúng, sẽ không trả lời cho câu hỏi về nguồn gốc
của Gioan Tẩy Giả, do từ trời hay từ đất (Mt 21:24-27). Đây là những kẻ sẽ tìm cách để bắt Chúa (Mt
21:45-46).
* Người kia có hai người con. Chúa Giêsu kể lại câu chuyện về người cha nói
với một trong hai người con của ông:
“Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Nó thưa lại rằng: “Thưa cha, vâng con đi!” nhưng nó lại không
đi. Người cha sau đó lại nói cùng câu
nói với người con thứ hai. Người con này
thưa lại rằng: “Con không đi!” nhưng sau
đó nó đi. Những người nghe cũng là các
người cha trong gia đình và đã phải biết những chuyện này từ kinh nghiệm bản
thân.
* Ai trong hai người con đã làm theo ý cha
mình? Chúa Giêsu kết thúc bài dụ ngôn
làm rõ câu hỏi ban đầu của Người. Các
thượng tế và kỳ lão đồng thanh trả lời: người con thứ hai! Câu trả lời đã đến nhanh chóng bởi vì vấn đề
có liên quan đến tình cảnh quen thuộc, phổ quát và rõ ràng, chuyện mà họ đã trải
qua kinh nghiệm trong gia đình họ và, có lẽ hầu hết, đã làm bởi họ (và bởi tất
cả chúng ta) khi họ còn niên thiếu. Như
vậy, trong thực tế, câu trả lời không chỉ là một sự phê phán về hai người con
trong bài dụ ngôn, nhưng cũng là cho chính họ.
Bằng câu trả lời, người con thứ hai, họ đang đánh giá thái độ của chính
họ. Bởi vì, trong quá khứ, họ đã thường
xuyên nói với cha họ: “Con không đi!”
nhưng rồi sau đó đã đi theo áp lực của hoàn cảnh hoặc bởi vì sự hối lỗi đã khiến
họ làm điều mà người cha sai bảo. Trong
câu trả lời, họ tỏ ra như thể mình là những đứa con vâng lời.
* Đây chính là một chức năng hay là “cái bẫy” của
bài dụ ngôn, một cách nôm na là, mang lại cho người nghe cảm giác có liên quan
đến câu chuyện, do đó, dùng kinh nghiệm riêng của chính họ làm tiêu chuẩn, họ sẽ
đi đến một sự phê phán giá trị của câu chuyện được kể trong bài dụ ngôn. Lời phê phán này sẽ sớm được dùng như một
chìa khóa để áp dụng dụ ngôn vào đời sống.
Cùng một phương pháp giảng dạy cũng có thể được tìm thấy trong bài dụ
ngôn vườn nho (Mt 21:41-46) và bài dụ ngôn người chủ nợ (Lc 7:40-46).
Mt 21:31-32: Sự ứng dụng của dụ ngôn
* Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và
gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông!
Dùng câu trả lời bởi các thượng tế và kỳ lão như một chìa khóa, Chúa Giêsu
ứng dụng bài dụ ngôn vào sự im lặng tội lỗi của người nghe trước sứ điệp của
Gioan Tẩy Giả. Câu trả lời của họ trở
thành lời kết tội cho chính họ. Dựa theo
câu nói này, những người thu thuế và gái điếm là những kẻ, ban đầu, đã nói
không với người cha nhưng sau đó lại làm theo ý của Chúa Cha, bởi vì những người
ấy đã nhận lãnh và chấp nhận sứ điệp của Gioan Tẩy Giả đến từ Thiên Chúa. Trong khi đó, các thượng tế và kỳ lão, họ là
những kẻ, thoạt đầu, đã nói vâng với người cha, nhưng đã không làm điều mà người
cha yêu cầu, bởi vì họ đã không chấp nhận sứ điệp của Gioan Tẩy Giả, thậm chí rất
nhiều người đã không chấp nhận Gioan như là người từ Thiên Chúa.
* Vì thế, bằng phương tiện của dụ ngôn, Chúa
Giêsu đảo ngược tất cả mọi thứ: những kẻ
bị coi là không tuân giữ Lề Luật và do đó bị kết án, lại chính là những người
đã vâng phục Thiên Chúa và cố gắng bước đi trên con đường công lý, trong khi những
kẻ tự coi mình là tuân giữ Lề Luật Thiên Chúa lại là những kẻ không vâng lời
Thiên Chúa.
* Lý do cho lời khiển trách nghiêm khắc này từ
Chúa Giêsu nằm trong sự thực là những chức sắc tôn giáo, các thày cả và kỳ lão,
không chịu tin rằng Gioan Tẩy Giả là người của Thiên Chúa. Các người thu thuế và gái điếm thì lại khác,
họ tin. Điều này có nghĩa là đối với
Chúa Giêsu, qua cái nhìn chiêm niệm, là khả năng nhận ra sự hiện diện tích cực
của Thiên Chúa trong những người và những việc của cuộc sống, Thiên Chúa không
hiện diện ở trong các vị thày cả hay ngay cả trong các vị lãnh đạo của họ,
nhưng Ngài lại ở trong những người bị miệt thị là kẻ tội lỗi và ô uế. Rất dễ dàng để hiểu lý do tại sao những kẻ có
thẩm quyền này đã quyết định bắt và giết Chúa Giêsu, vì trong thực tế, “khi họ
nghe những dụ ngôn này, các thượng tế và kinh sư nhận ra rằng Chúa đang nói về
họ” (Mt 21:45-46).
* Bất cứ ai muốn áp dụng dụ ngôn này hôm nay,
có thể sẽ tạo ra cùng sự giận dữ như Chúa Giêsu đã trải qua với câu kết luận của
Người. Điều tương tự cũng xảy ra ngày
hôm nay. Gái điếm, kẻ tội lỗi, kẻ dốt
nát, phụ nữ, trẻ em, thường dân, công nhân, dân thiểu số, dân da đen, các tù
nhân, những kẻ đồng tính luyến ái, những người mang bệnh AIDS, người say rượu,
ghiền ma túy, những kẻ ly dị, các tu sĩ hồi tục, những người dị giáo, các bà mẹ
độc thân, những người thất nghiệp, kẻ thất học, bệnh nhân, đó là, tất cả những
kẻ bị xem thường như không phải là một phần của quỹ đạo tôn giáo, những người
này, thường xuyên, có một cái nhìn sắc bén trong việc nhận thức về con đường
công lý hơn chúng ta là những người sống cả ngày trong nhà thờ và là một phần của
phẩm trật tôn giáo. Không phải vì một
người thuộc về hàng phẩm trật mà người ấy có một cái nhìn thuần khiết cho phép
họ có thể cảm nhận được những việc thuộc về Thiên Chúa trong cuộc sống.
Để làm sáng tỏ những Lời
của Chúa Giêsu
* Phương pháp mới về giảng dạy người ta và nói
về Thiên Chúa.
Chúa Giêsu không phải
là một học giả (Ga 7:15). Không giống
như thánh Phaolô Tông Đồ (Cv 23:3), Người đã không đi học ở Giêrusalem.
Người xuất thân từ miền
quê, từ làng Nagiarét, một làng nhỏ trong xứ Galilê. Bấy giờ, người thợ mộc từ xứ Galilê, đi đến
Giêrusalem, và không có phép của các người có thẩm quyền, bắt đầu giảng dạy dân
chúng ở quảng trường phía trước đền thờ!
Người đã nói những điều mới lạ.
Người nói một cách lạ lùng, siêu phàm!
Thiên hạ sửng sốt bởi cách giảng dạy của Người: “Một giáo lý mới mẻ! Giảng dạy như người có thẩm quyền chứ không
như các kinh sư! (Mc 1:22-27). Điều Chúa
Giêsu đã làm nhiều nhất là giảng dạy, đó là tập quán của Người. Nhiều lần các tác giả Phúc Âm nói rằng Chúa
Giêsu đã giảng dạy. Nếu họ không luôn
nói về những gì Chúa Giêsu đã dạy, đó không phải là vì họ không quan tâm đến nội
dung, nhưng bởi vì nội dung hiện diện không những chỉ qua lời giảng dạy mà cũng
còn qua cử chỉ và thái độ của Người đối với người ta. Phần nội dung không bao giờ tách biệt khỏi
con người truyền đạt nó. Sự tốt lành và
tình yêu mến trong cách cư xử của Người và sống với những người khác là một phần
của nội dung. Chúng giống như “nhân tố”,
nội dung tốt mà không có sự tốt lành thì thật là đáng tiếc.
* Sự giảng dạy qua các dụ ngôn.
Hơn hết cả, Chúa Giêsu
giảng dạy qua các dụ ngôn. Người có một
khả năng phi thường tìm thấy những sự so sánh để giải thích những điều thuộc về
Thiên Chúa, những điều không rõ ràng, bằng cách dùng những ví dụ đơn giản và rõ
ràng mà người ta biết và kinh nghiệm trong đời sống của họ, trong cuộc tranh đấu
hằng ngày để sinh tồn. Điều này bao hàm
hai điều: giữ những kinh nghiệm của đời sống và giữ những việc thuộc về Thiên
Chúa, về Vương Quốc của Thiên Chúa.
Thông thường, Chúa
Giêsu không giải thích dụ ngôn, nhưng nói:
“Ai có tai để nghe, thì hãy nghe!” hoặc “Các ngươi đã nghe. Bây giờ hãy cố gắng mà hiểu!” Ví dụ, người làm nông nghe dụ ngôn về hạt giống
nói: “Tôi biết rất rõ về hạt giống rơi
trên đất ra sao! Nhưng Chúa Giêsu nói việc
này có liên hệ tới Vương Quốc Thiên Chúa.
Người muốn nói gì?” Khi ấy chúng
ta có thể tưởng tượng ra được những cuộc đối thoại và thảo luận dai dẳng của
người ta. Ngày kia một vị giám mục hỏi cộng
đoàn: “Chúa Giêsu nói rằng chúng ta phải
nên giống như muối. Muối được dùng vào
việc gì?” Cộng đoàn đã thảo luận điều
này, và cuối cùng đã đưa ra hơn mười mục đích cho việc dùng muối! Sau đó họ đã áp dụng tất cả những điều này
vào đời sống của cộng đoàn và khám phá ra rằng trở thành muối thì khó khăn và
đòi hỏi nhiều công sức. Bài dụ ngôn đã
thành công!
Trong một số dụ ngôn
có những điều không thường xảy ra trong cuộc sống. Thí dụ, có bao giờ chúng ta đã từng nhìn thấy
người chăn chiên rời bỏ chín mươi chín con chiên để đi tìm một con chiên lạc
chưa? (Lc 15:4). Có khi nào chúng ta đã
từng nhìn thấy một người cha chào đón đứa con hoang đàng với cỗ bàn linh đình
và không một lời quở trách chưa? (Lc 15:20-24).
Có bao giờ chúng ta đã từng thấy một người Samaritan tốt lành hơn một
người tư tế hay một thày cả chưa? (Lc 10:29-37). Bằng vào cách này, dụ ngôn đưa ra nhưng ý
nghĩ. Nó mời gọi chúng ta tham gia vào
trong câu chuyện và tự ngẫm nghĩ, bắt đầu từ kinh nghiệm đời sống và sau đó đối
diện điều này với Thiên Chúa. Nó khiến
cho chúng ta khám phá ra từ kinh nghiệm rằng Thiên Chúa hiện hữu trong cuộc sống
hằng ngày của chúng ta. Dụ ngôn là một
hình thức sư phạm giảng dạy có sự tham dự.
Nó không đưa ra từng chi tiết nhỏ.
Nó không cung cấp tất cả các dữ kiện, nhưng nó lôi kéo chúng ta đi khám
phá. Dụ ngôn thay đổi quan điểm của chúng
ta; nó khiến cho chúng ta suy ngắm, những người đi sâu vào thực tế. Đây là sự mới lạ của cách giảng dạy của Chúa
Giêsu trong dụ ngôn. Nó khác với lối giảng
dạy của các luật sĩ đã dạy rằng Thiên Chúa chỉ tỏ mình trong việc tuân giữ lề
luật. Đối với Chúa Giêsu: “Triều Đại của Thiên Chúa không phải là kết
quả của việc tuân giữ lề luật. Triều Đại
của Thiên Chúa đang ở giữa các ông!” (Lc 17:21).
6. Thánh Vịnh 121
Ánh mắt chiêm niệm
khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống
Tôi ngước mắt nhìn lên
rặng núi,
ơn phù hộ tôi đến tự
nơi nao?
Ơn phù hộ tôi đến từ ĐỨC
CHÚA
là Đấng dựng nên cả đất
trời.
Xin Đấng gìn giữ bạn đừng
để bạn lỡ chân trật bước,
xin Người chớ để bạn
ngủ quên.
Đấng gìn giữ Israel,
lẽ nào chợp mắt ngủ
quên cho đành!
Chính CHÚA là Đấng
canh giữ bạn,
chính CHÚA là Đấng vẫn
chở che,
Người luôn luôn ở gần
kề.
Ngày sáu khắc, vầng ô
không tác hoạ,
đêm năm canh, vành
nguyệt chẳng hại chi.
CHÚA giữ gìn bạn khỏi
mọi điều bất hạnh,
giữ gìn cho sinh mệnh
an toàn.
CHÚA giữ gìn bạn lúc
ra vào lui tới,
từ giờ đây cho đến mãi
muôn đời.
7. Lời Nguyện Kết
Lạy Chúa Giêsu, chúng
con xin cảm tạ Chúa về Lời Chúa đã giúp chúng con hiểu rõ hơn ý muốn của Chúa
Cha. Nguyện xin Thần Khí Chúa soi sáng
các việc làm của chúng con và ban cho chúng con sức mạnh để thực hành Lời Chúa
đã mặc khải cho chúng con. Nguyện xin
cho chúng con, được trở nên giống như Đức Maria, thân mẫu Chúa, không những chỉ
lắng nghe mà còn thực hành Lời Chúa.
Chúa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Đức Chúa Cha trong sự hiệp nhất
với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Amen.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét