05/10/2017
Thứ năm đầu tháng, tuần 26 thường niên.
Bài Ðọc I: (Năm I) Nkm
8, 1-4a. 5-6. 7b-12
"Thầy Esdra mở
sách luật ra, chúc phúc cho dân và toàn dân đáp lại: Amen! Amen!"
Trích sách Nơkhemia.
Trong những ngày ấy,
toàn dân mọi người như một, tụ họp lại ở phố trước cửa Nước, họ xin thầy Esdra
mang ra sách Luật của Môsê mà Chúa đã truyền cho dân Israel. Vậy thầy tư tế
Esdra mang luật ra trước cộng đồng, gồm đàn ông, đàn bà và tất cả những ai có
thể hiểu luật: hôm đó là ngày đầu tháng bảy. Từ sáng đến giữa trưa, thầy đứng ở
công trường, trước cửa Nước, đọc sách trước mặt đàn ông, đàn bà và những người
hiểu luật. Tất cả dân chúng đều lắng tai nghe đọc sách luật.
Thầy thư ký Esdra đứng
trên bệ bằng cây mà đọc sách; thầy mở sách ra trước công chúng, vì thầy đứng
nơi cao hơn mọi người. Khi thầy mở sách, thì tất cả đều đứng lên. Esdra chúc tụng
Chúa là Thiên Chúa Cao Cả. Toàn dân đưa tay lên đáp lại: Amen, Amen. Họ cúi
mình và phủ phục trước Thiên Chúa, mặt họ cúi sát đất. Các thầy Lêvi khiến dân
chúng thinh lặng để nghe đọc Lề Luật: Dân chúng mỗi người đứng nơi mình. Một số
người đọc từng đoạn trong sách luật Chúa, giải thích ý nghĩa, và người ta hiểu
được điều đã đọc.
Nơkhemia là tổng trấn,
Esdra là tư tế và là thư ký, các thầy Lêvi huấn luyện dân chúng, nói với họ rằng:
"Ngày hôm nay được thánh hoá dâng cho Chúa là Thiên Chúa chúng ta: anh chị
em đừng mang tang chế, đừng than khóc". Vì lúc đó toàn dân khóc lóc khi
nghe đọc các lời trong luật.
Họ nói với dân chúng rằng:
"Hãy đi ăn thịt béo và uống rượu ngon, hãy gởi phần cho kẻ không có dọn sẵn
cho mình, vì ngày này là ngày thánh dâng cho Chúa, đừng buồn sầu; vì niềm vui của
Chúa là đồn lũy của chúng ta".
Các Thầy Lêvi khiến
toàn dân thinh lặng mà rằng: "Anh chị em hãy thinh lặng, vì hôm nay là
ngày thánh, nên chớ lo buồn". Vì thế toàn dân đi trở ra ăn uống, gởi phần
cho những người không có, và đầy hân hoan vui mừng, vì người ta hiểu rõ những lời
mình nghe giảng dạy.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 8. 9.
10. 11
Ðáp: Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can (c.
9a).
Xướng: 1) Luật pháp
Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt. - Ðáp.
2) Giới răn Chúa chính
trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt. - Ðáp.
3) Lòng tôn sợ Chúa
thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy.
- Ðáp.
4) Những điều đó đáng
chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng; ngọt hơn mật, và hơn cả mật chảy tự tàng
ong. - Ðáp.
Alleluia: 1 Pr 1, 25
Alleluia, alleluia! -
Lời Chúa tồn tại muôn đời, đó là lời Tin Mừng đã rao giảng cho anh em. -
Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 1-12
"Sự bằng an của
các con sẽ đến trên người ấy".
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa chọn thêm
bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước Người, đến các
thành và các nơi mà chính Người sẽ tới. Người bảo các ông rằng: "Lúa chín
đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của
Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các con như con chiên ở giữa sói rừng. Các
con đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường.
Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: "Bình an cho nhà này". Nếu ở
đấy có con cái sự bình an, thì sự bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng
không, sự bình an lại trở về với các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống
những thứ họ có, vì thợ đáng được trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi vào thành
nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn cho. Hãy
chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: "Nước Thiên Chúa đã đến
gần các ngươi". Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón các con, thì
hãy ra giữa các phố chợ và nói: "Cả đến bụi đất thành các ngươi dính vào
chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng các ngươi hãy
biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần". Thầy bảo các con, ngày ấy,
thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Tinh Thần
Nghèo Khó Ðích Thực
Có một nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ;
ông vua của đô thị này thường tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn
là người siêu thoát mọi của cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho
được con người khoe khoang này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua
liền đưa ông đi một vòng và cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua
hỏi một cách huênh hoang:
Nhà ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta?
Nhà hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp:
Theo nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian
này?
Nhà hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người
Hy lạp mà có lẽ không ai biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của
nhà hiền triết, nhà vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải
thích ngay về thái độ ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói:
Thưa ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi
trái tim người đó còn gắn bó với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một
cuộc hôn phối, của cải vật chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà
người góa thì đương nhiên sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi,
người đó cũng chẳng mang theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc
mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc
nhớ chúng ta về tinh thần nghèo khó đích thực. Cuộc sống nghèo khó của Chúa
Giêsu là một chọn lựa: Ngài đã chọn sinh ra trong nghèo khó; Ngài đã lớn lên
trong khó nghèo; và trong ba năm sống công khai, Ngài đã chọn lựa nếp sống
nghèo khó. Khi sai các môn đệ đi rao giảng Nước Trời, Ngài cũng đã khuyến dụ
các ông hãy sống khó nghèo. Ra đi hai tay không, người ta tiếp đón thì ở lại,
người ta không niềm nở thì ra đi, giũ bỏ lại mọi thứ bụi trần, đó là hình ảnh của
sự siêu thoát mà Chúa Giêsu luôn đòi hỏi ở những môn đệ của Ngài. Ðây không chỉ
là điều kiện của những người môn đệ, những nhà truyền giáo hay các tu sĩ: nghèo
khó là đồng phục của mọi người mang danh hiệu Kitô. Nghèo khó là bộ mặt đích thực
của các nghĩa tử của Thiên Chúa, họ phải giũ bỏ tất cả để mặc lấy phẩm giá của
những con người được tái sinh.
Trong thực tế, người
Kitô hữu phải sống thế nào mới gọi là nghèo khó? Ðó là thắc mắc mà trong xã hội
nào, ở thời đại nào, các Kitô hữu cũng có thể nêu lên. Phải chăng sống nghèo
khó, họ phải từ bỏ mọi thứ của cải trần thế? Phải chăng về lý tưởng nghèo khó,
Kitô giáo chủ trương bần cùng hóa xã hội? Thực tế, nghèo không hề mâu thuẫn với
sự phát triển hay làm giầu tài nguyên vốn có trong thiên nhiên mà Kitô giáo
luôn cổ võ và nâng đỡ. Kitô giáo vốn là sức mạnh tiên phong trong việc khai hóa
và mở mang vào thời Trung Cổ tại Âu Châu; những khám phá khoa học và tiến bộ kỹ
thuật ở khởi đầu đều phát xuất từ Kitô giáo, như vậy, phát triển hay làm giầu
không hề mâu thuẫn với Tin Mừng.
Thế nhưng, làm thế nào
để sống tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng? Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta
thấy rằng tự nó, của cải vật chất không đương nhiên đem lại hạnh phúc cho con
người, trái lại nó luôn có nguy cơ tha hóa và nô lệ hóa con người. Của cải vật
chất vốn dễ làm cho con người trở nên mù quáng đối với bản thân cũng như trong
quan hệ với tha nhân; và khi đã trở thành mù quáng, con người tôn của cải vật
chất lên làm cứu cánh và tự giam mình trong vỏ ích kỷ. Như vậy, có tinh thần
nghèo khó đích thực có nghĩa là luôn biết giữ khoảng cách đối với của cải vật
chất, biết sử dụng nó như phương thế để tìm kiếm và xây dựng những giá trị Nước
Trời, như công bằng, bác ái, liên đới. Một cách cụ thể, có tinh thần nghèo khó
đích thực là biết mưu cầu cho công ích, biết san sẻ với người túng thiếu, biết
làm ra của cải, nhưng không thuộc về của cải.
Hơn bao giờ hết, người
Kitô hữu chúng ta phải không ngừng suy nghĩ về ý nghĩa của tinh thần nghèo khó.
Túng thiếu, nghèo đói, mà vẫn tin tưởng cậy trông và giữ bàn tay thanh sạch, chứ
không bán đứng lương tâm để làm điều gian ác; may mắn hơn người khác vì được thịnh
vượng, giầu có, mà vẫn biết mở rộng trái tim và bàn tay để chia sẻ cho người
nghèo khó, đó là thể hiện của tinh thần nghèo khó đích thực. Trong một xã hội của
chụp giựt và xâu xé lẫn nhau, một cuộc sống như thế chắc chắn là một chứng tá
cao độ cho Nước Trời.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Năm Tuần 26 TN1, Năm lẻ.
Bài đọc: Neh
8:1-4a, 5-6, 7b-12; Lk 10:1-12.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhiệt thành với
việc truyền giáo cho dân chúng.
Thánh Têrêsa Hài Đồng
Giêsu mà chúng ta mừng hôm nay, được Giáo Hội đặt làm quan thầy của những người
truyền giáo; vì chị rất thương yêu và quan tâm đến linh hồn của những người
chưa nhận biết Đức Kitô. Chị ao ước được giống như thánh Phaolô, đi các nơi để
rao giảng Tin Mừng và thiết lập các giáo đoàn; nhưng vì sức khỏe và khả năng
không cho phép, chị nài xin Thiên Chúa chấp nhận tình yêu thương của chị dành
cho những nhà truyền giáo và những người chưa nhận biết Thiên Chúa. Chị xin
dâng mỗi một mũi kim khâu vá của chị để xin Thiên Chúa cứu một linh hồn.
Các Bài Đọc hôm nay
cho chúng ta thấy sự khẩn thiết của Lời Chúa trong việc dạy dỗ dân chúng biết
Thiên Chúa, và trong việc hoán cải lòng dân trở về với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc
I, thống đốc Nehemiah và tư tế Ezra, sau khi đã dựng lại Đền Thờ và xây dựng tường
thành chung quanh, đã nghĩ ngay đến việc dạy dỗ Lề Luật cho dân chúng trong
Kinh Thánh. Họ tập họp tất cả con cái Israel lại, những người có đủ trí khôn để
hiểu Lời Chúa, để học hỏi Kinh Thánh suốt từ sáng tới trưa. Hậu quả là dân
chúng nhận ra và khóc than tội lỗi của họ đã phản bội tình yêu Thiên Chúa dành
cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không chỉ sai đi Nhóm Mười Hai, mà còn sai đi
Nhóm Bảy Mươi; để họ chuẩn bị trước cho Chúa Giêsu đến gặp gỡ dân chúng. Ngài dặn
họ đừng để bất cứ điều gì ngăn cản Triều Đại của Thiên Chúa đến với con người.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Ông đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà, và tất cả các
trẻ em đã tới tuổi khôn.
1.1/ Sự quan trọng của Lời
Chúa: Là những nhà lãnh đạo khôn ngoan,
Nehemiah và Erza biết điều gì cần thiết cho dân chúng: Họ không thể sống đúng nếu
không biết đúng; để biết đúng, họ phải học hỏi sự dạy dỗ của Thiên Chúa trong
Sách Thánh (Lề Luật). Thói quen nghe Lời Chúa đã bị mất từ khi con cái Israel bị
lưu đày; giờ đây, trong ngày Lễ Khánh Thành Đền Thờ, họ phải tập luyện lại thói
quen này. Vì thế, "muôn người như một, tụ họp ở quảng trường trước cửa Nước.
Họ xin ông Ezra là kinh sư đem sách Luật Moses ra. Đó là Luật Đức Chúa đã truyền
cho Israel.
Hôm ấy là ngày mồng một
tháng thứ bảy, ông Ezra cũng là tư tế đem sách Luật ra trước mặt cộng đồng gồm
đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đứng ở quảng trường
phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ
em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe
sách Luật."
1.2/ Các thầy Lêvi giải
thích Lề Luật cho dân: Sau khi đã nghe tư tế
Ezra long trọng công bố Lời Chúa và chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và
toàn dân giơ tay lên đáp rằng: "Amen! Amen!" Rồi họ sấp mặt sát đất
mà thờ lạy Đức Chúa. Lời Chúa không phải cứ nghe là hiểu ngay. Để giúp dân
chúng hiểu thấu Lời Chúa, các thầy Lêvi liên tục giải thích Lề Luật cho dân,
trong khi dân vẫn đứng tại chỗ. Trình thuật nói rõ, vì "ông Ezra và các thầy
Lêvi đọc rõ ràng và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu
được những gì các ông đọc."
(1) Dân chúng hối hận
và khóc lóc, vì họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa: Mục đích của việc rao giảng Kinh
Thánh là giúp dân nhận ra hai điều: Thứ nhất, tình thương của Thiên Chúa dành
cho họ. Ngài luôn quan tâm đến cuộc sống của họ, nhất là trong thời gian lưu
đày. Thứ hai, giúp dân nhận ra tội lỗi của họ đã xúc phạm đến Thiên Chúa và tha
nhân; tội lỗi là lý do của việc lưu đày và mọi sự khốn khổ mà dân phải chịu. Ăn
năn thống hối là hậu quả của việc rao giảng Tin Mừng. Nếu không có ăn năn thống
hối, lời rao giảng chưa đạt được mục đích.
(2) Dân chúng vui mừng
và sẵn sàng chia cơm sẻ áo trong ngày thánh hiến Đền Thờ: Việc ăn năn thống hối
dẫn tới việc đền bù các tội lỗi dân chúng đã phạm. Hai tội chính mà con cái
Israel đã làm là quay lưng lại với Thiên Chúa và đối xử bất công với tha nhân.
Sau khi đã nhận ra tội và hòa giải với Thiên Chúa, con cái Israel cần phải hòa
giải tội bất công với nhau bằng cách san sẻ cơm bánh cho những anh chị em nghèo
đói. Ông Ezra khuyên bảo dân chúng: "Anh em hãy về ăn thịt béo, uống rượu
ngon và gửi phần cho những người không sẵn của ăn, vì hôm nay là ngày thánh hiến
cho Chúa chúng ta. Anh em đừng buồn bã, vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo
vệ anh em."
2/ Phúc Âm: Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
2.1/ Hãy làm cho Triều Đại
Thiên Chúa mau đến: Ý định muôn đời của
Thiên Chúa là làm sao cho mọi người nhận biết và tin vào Đức Kitô, để được hưởng
ơn cứu độ. Ý định này không thể hoàn tất bởi một mình Đức Kitô; nhưng là do nỗ
lực góp phần của tất cả mọi người. Chính Chúa Giêsu đã chỉ định bảy mươi hai
người khác, và sai các ông cứ từng hai người một đi trước, vào tất cả các
thành, các nơi mà chính Người sẽ đến. Nhiệm vụ của các ông cũng giống như Gioan
Tẩy Giả, là chuẩn bị tâm hồn con người sẵn sàng để tiếp rước Đức Kitô.
Trước khi sai đi, Người
dặn dò các ông những điều quan trọng: "Này Thầy sai anh em đi như chiên
con đi vào giữa bầy sói. Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép. Cũng đừng
chào hỏi ai dọc đường." Mục đích chính mà Chúa sai các môn đệ đi là để rao
giảng Tin Mừng, các ông phải loại bỏ tất cả những gì ngăn cản việc rao giảng
Tin Mừng, như các cám dỗ: tìm kiếm lợi nhuận của cải vật chất, ăn ngon mặc đẹp,
ham uy quyền danh vọng, ngay cả việc tán gẫu nhảm.
2.2/ Phản ứng của những
người nghe giảng Tin Mừng: Người loan báo
Tin Mừng là người mang bình an cho dân chúng. Chúa Giêsu dặn các môn đệ: Vào bất
cứ nhà nào, trước tiên anh em hãy nói: "Bình an cho nhà này!" Nếu ở
đó, có ai đáng hưởng bình an, thì bình an của anh em sẽ ở lại với người ấy; bằng
không thì bình an đó sẽ trở lại với anh em.
(1) Những người tiếp
nhận: Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, cả người rao giảng lẫn người nghe đều
có liên hệ hỗ tương với nhau: nhà rao giảng mang Lời Chúa và sự bình an đến cho
dân chúng; để đền bù lại, dân chúng lo sức khỏe cho nhà rao giảng bằng cách
cung cấp lương thực và những nhu cầu vật chất. Mỗi người một phần vụ giúp cho
việc loan truyền Tin Mừng. Vì lý do này mà Chúa dặn các môn đệ: ''Hãy ở lại nhà
ấy, và người ta cho ăn uống thức gì, thì anh em dùng thức đó, vì làm thợ thì
đáng được trả công. Đừng đi hết nhà nọ đến nhà kia. Vào bất cứ thành nào mà được
người ta tiếp đón, thì cứ ăn những gì người ta dọn cho anh em. Hãy chữa những
người đau yếu trong thành, và nói với họ: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần
các ông."''
(2) Những người từ chối:
''Nhưng vào bất cứ thành nào mà người ta không tiếp đón, thì anh em ra các quảng
trường mà nói: "Ngay cả bụi trong thành các ông dính chân chúng tôi, chúng
tôi cũng xin giũ trả lại các ông. Tuy nhiên các ông phải biết điều này: Triều Đại
Thiên Chúa đã đến gần." Thầy nói cho anh em hay: trong ngày ấy, thành
Sodom còn được xử khoan hồng hơn thành đó." Từ chối nhà rao giảng Tin Mừng
là phải lãnh nhận hậu quả nặng hơn hậu quả của dân thành Sodom. Theo Sáng Thế
Ký, thành Sodom đã bị lửa từ trời xuống thiêu rụi thành tro bụi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta sống đời
này không phải để vơ vét của cải để trở nên giầu có; nhưng để cứu rỗi phần linh
hồn của chúng ta và của mọi người qua việc học hỏi và rao truyền Tin Mừng.
- Của cải Thiên Chúa
ban là để cho mọi người hưởng dùng. Chúng ta đừng đối xử bất công để dành của cải;
nhưng phải sẵn lòng san sẻ cho các anh chị em đang túng thiếu.
Linh mục Anthony
Đinh Minh Tiên, OP
05/10/2017 - THỨ NĂM ĐẦU THÁNG TUẦN 26 TN
Lc 10,1-12
THIÊN ĐÀNG Ở ĐÂU?
“Triều Đại Thiên
Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 10,9)
Suy niệm: Trong tác phẩm
Nhà Giả Kim, Paulo Coelho đã kể về cậu bé chăn chiên nằm mơ thấy kho báu. Thế
là cậu bán hết đàn chiên, thu góp hành trang để đến xứ Ai Cập xa xôi. Nhờ đi
ra, cậu đã học được nhiều điều về thế giới, về bản thân, và rốt cuộc cậu tìm được
kho báu ngay đúng chỗ trước đây cậu đã nằm mơ. Song bài học lớn nhất là cậu biết
đặt niềm tin vào sức mạnh siêu nhiên-sức mạnh luôn thúc đẩy và nâng đỡ cho những
ai luôn khát khao truy tìm chân lý. Câu chuyện của Paulo Coelho có thể cho
chúng ta có một cái nhìn rõ hơn về Tin Mừng hôm nay. Các môn đệ cũng được sai
đi với hai bàn tay trắng, phải đối diện với khó khăn như chiên giữa bầy sói. Thế
nhưng, nhờ ra đi hành động cho Chân Lý, các ông đã vượt qua sợ hãi để tìm được
niềm vui. Niềm vui không phải bởi việc đã làm, nhưng vì nhận ra được giá trị của
sự từ bỏ, sức mạnh nội tại của lòng tin và trên hết là cảm nghiệm Thầy luôn kề
bên: Thiên Chúa ở cùng các ông và Bình An của Người lan tỏa nơi các ông.
Mời Bạn: Trong Tông huấn Niềm Vui
Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi Giáo Hội nói chung và từng Ki-tô hữu
nói riêng cần phải ‘ra đi’ đến những vùng ngoại biên để loan báo Tin Mừng. Bạn
nghĩ gì khi nhiều gia đình trẻ của Giáo Hội Hàn Quốc sẵn sàng đến những vùng xa
lạ và nghèo khổ để sống làm chứng cho Tin Mừng? Bạn có nghĩ và tin rằng: phải
đi ra, bạn mới được biến đổi và tìm được hạnh phúc của mình ngay ở đời này
không?
Sống Lời Chúa: “Hãy ký thác đường đời cho
Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37,5).
Cầu nguyện: Hát Kinh Hòa
Bình.
(5 Phút Lời Chúa)
Như chiên con (5.10.2017 – Thứ năm Tuần 26 Thường niên)
Được sai vào thành phố thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố. Làm sao ta có can đảm nói về Nước Trời cho những người vô tín, và những người bị cuốn vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc?
Suy niệm:
Đức Giêsu sai các môn đệ
của mình đi trước,
từng hai người một, vào
mọi thành phố và mọi nơi Ngài sẽ đến.
Sứ mạng dọn đường này
không dễ chút nào.
Đức Giêsu biết rõ những
hiểm nguy và chống đối đang chờ đợi họ.
“Thầy sai anh em đi như
chiên con vào giữa bầy sói.” (c. 3).
Chiên con trở nên hình
ảnh của người môn đệ,
yếu đuối, không có khả
năng chống cự khi gặp sự tấn công hung hãn.
Chính Đức Giêsu cũng là
Chiên Con được Thiên Chúa sai đi.
Chính Ngài cũng “như
chiên bị đem đi làm thịt,
như cừu câm nín khi bị
xén lông, Người chẳng hề mở miệng” (Is 53, 7).
Người môn đệ được sai vào
thế giới mãi mãi thấy mình mong manh,
trước thế lực tưởng như
không thể thắng nổi của sự dữ.
Nhưng người môn đệ lại
không được trang bị nhiều:
không túi tiền, không bao
bị, không giầy dép,
dù đó là những điều bình
thường thiết yếu cho một cuộc hành trình.
Chính vì thế họ buộc lòng
phải cậy dựa vào người khác.
Mà không phải ai cũng có
lòng, ai cũng vui vẻ đón nhận.
Như thế là chấp nhận liên
tục bấp bênh,
liên tục cậy dựa vào sự
quan phòng của Thiên Chúa.
Nhà của các tín hữu là
nơi hoạt động của người môn đệ.
Căn nhà là nơi các môn đệ
được trú ngụ, được chia sẻ bữa ăn.
Họ sống gần gũi như người
trong nhà, như người thợ làm việc.
Nếp sống giản dị và siêu
thoát của họ phải được bày tỏ
qua việc chấp nhận mọi đồ
ăn thức uống người ta dọn cho (cc. 7-8),
cũng như việc không đi
tìm một căn nhà khác tiện nghi hơn (c. 7).
Ngoài ra các thành phố
cũng là điểm đến của họ (cc. 8-12).
Nhưng dù là vào một căn
nhà hay vào một thành phố (cc. 5. 8),
thái độ của người môn đệ
đều rất tích cực và thân thiện.
Họ chúc bình an, chữa
bệnh, loan báo Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Họ cũng khiêm tốn chấp
nhận bị từ chối,
khi ơn bình an không được
đón nhận, lời loan báo không được lắng nghe.
Những lời dặn dò của Đức Giêsu
ngày xưa, bây giờ vẫn còn giá trị.
Chúng ta vẫn tiếp tục
được sai vào các thành phố hôm nay.
Có biết bao người cần
được chữa lành về thân xác, tinh thần,
với những thứ bệnh mới
của thời đại được coi là văn minh.
Có bao người cần được
nghe một lời đem lại cho đời họ chút hy vọng.
Được sai vào thành phố
thế kỷ 21 để rao giảng, thật là một thách đố.
Làm sao ta có can đảm nói
về Nước Trời cho những người vô tín,
và những người bị cuốn
vào cơn lốc của vật chất và khoái lạc?
Làm sao nói về Đấng Vô
Hình khi nhiều người chỉ tin vào cái hữu hình?
Người môn đệ hôm nay vẫn
phải lại gần con người để chia sẻ cuộc sống,
như xưa các môn đệ xưa đã
sống chung, ăn chung,
và làm việc như một người
thợ để phục vụ.
Giáo Hội vẫn cần xin
nhiều thợ hiền lành và can đảm để đến với thế giới.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu thương
mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của
Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập
tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống
của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm
toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa
sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng
qua chúng con,
để những người chúng con
tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang
hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết
rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói
suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng
tá,
và bằng trái tim tràn đầy
tình yêu của Chúa.
(Thánh Têrêxa Calcutta)
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
5 THÁNG MƯỜI
Tính Nhân Bản Của
Thánh Kinh
Từ khi Thiên Chúa tự
biểu lộ chính Ngài cho Abraham – nghĩa là tái lập cuộc đối thoại giữa con người
với Đấng Sáng Tạo vốn đã bị gãy đổ do tội Adam – tính nhân bản đích thực theo
Thánh Kinh không ngừng khẳng định phẩm giá độc đáo nơi mỗi con người. Mỗi người
đều được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Mỗi người đều được Chúa Kitô
cứu chuộc và mời gọi đi vào trong mối hiệp thông với Ngài.
Đó là địa vị của con
người trong thế giới này và trong bậc thang giá trị. Đành rằng văn chương và
nghệ thuật thường đề cập đến tính yếu đuối, mỏng dòn, thú nhục dục, thói đạo đức
giả và tính thô bạo của con người. Nhưng chúng ta cũng biết rằng, trên hết, con
người thật kỳ diệu với lối suy nghĩ sáng sủa, với những khám phá khoa học, với
những cảm hứng trữ tình trong thi ca, với những sáng tạo nghệ thuật trác tuyệt,
với tính cách đạo đức anh hùng, và quan trọng nhất là với những chứng tá thánh
thiện trong Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của
Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations
by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 05-10
Nkm 8,
1-4a.5-6.7b-12; L 10, 1-12.
Lời suy niệm: “Lúa chín đầy đồng
mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.”
Chúa Giêsu chính thức
sai nhóm Bảy Mươi Hai, từng hai người đi trong tư thế: Như chiên đi vào giữa bầy
sói, với một đòi hỏi phải nhận biết: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Điều
này giúp cho những người được sai đi, không thể cậy dựa vào sức riêng của mình,
nhưng phải luôn dựa vào lời cầu nguyện: “Anh em hãy xin Chủ mùa gặt sai thợ gặt
lúa về”
Lạy Chúa Giêsu. Toàn
thể nhân loại và các tạo vật đều do Thiên Chúa tạo dựng, để được sống và sống dồi
dào với Ngài trong một trật tự mà Ngài đã thiết lập. Chính Ngài đã trao vào con
tim con người biết sự thiện và sự ác, với sự khôn ngoan hiểu biết mà tôn vinh
Thiên Chúa. Xin cho mỗi một người trong chúng con luôn ý thức vai trò là con
cái của Chúa; để cùng nhau thưc hiện lời kinh Lạy Cha mà Chúa đã truyền dạy: “Ý
Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.”
Mạnh Phương
05 Tháng Mười
Sứ Ðiệp Của Một Người Tàn Tật
Hằng năm tổ chức có
tên là "Tự nguyện chịu đau khổ" hành hương đến Lộ Ðức để chia sẻ kinh
nghiệm của họ khi đối đầu với đau khổ. Năm 1982, khách hành hương đã chú ý đến
lời chia sẻ của Jacques Lebreton, một phó tế vĩnh viễn không tay, mù mắt. Chúng
ta hãy lắng nghe chứng từ của ông:
Sau trận đánh ở El
Alamem, tôi và các bạn của tôi đang lo gỡ mìn. Một anh bạn tôi cầm một quả lựu
đạn và vô tình mở chốt. Trong cơn hốt hoảng, anh trao cho tôi. Tôi cứ tự nhiên
cầm lấy quả lựu đạn. Nó đã nổ tung trong tay tôi. Tôi tối tăm mặt mũi, không
nói được nữa. Tôi cảm thấy mình đang chết. Tôi chỉ còn là một người không tay,
không mắt... Tôi toan tự tử.
Trên giường bệnh ở
nhà thương, tôi, một người đã không giữ đạo từ lâu, tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi
xin được rước lễ. Tôi đã hiểu nguyên do sự đau khổ của tôi là tội lỗi nhân loại:
đó là thù oán, kiêu căng, chiến tranh... Và tôi đã tìm lại được sự an vui và
trông cậy.
Tôi cảm thấy một
cái gì tương tự như Chúa Giêsu trong vườn Giêtsêmani. Ngài cũng không muốn chịu
đau khổ. Ngài đã van xin: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống
chén này", nhưng liền sau đó, Ngài lại thưa: "Lạy Cha, xin vâng theo
ý Cha". Sau thảm kịch Golgotha, Ngài đã sống lại. Chính nhờ mầu nhiệm chết
và sống lại mà Chúa Kitô muốn cho chúng ta cùng sống. Tôi đã đạt đến mức độ
không phải là chịu đựng mà là chấp nhận. Chịu đựng là một thất bại. Chấp nhận
là một chiến thắng. Trên giường bệnh, tôi đã khóc, khóc vì sung sướng với ý
nghĩ ấy. Ðiều mà tự nhiên tôi cũng không thể chịu được, nay nhờ ơn Chúa tôi đã
chịu được.
Như lời văn hào
Mauriac nói: "Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng để cùng hiện
diện với những người đau khổ". Tôi đã cảm nghiệm được lời Chúa phán:
"Phúc cho những kẻ khóc lóc, phúc cho những kẻ đau khổ".
Tại Evreux, tôi được
gặp một người đàn bà hoàn toàn bất toại, đến nỗi không thể nói được. Nhưng nhờ
ngón chân cái của bà, bà có thể máy động bàn chữ cái trên một miếng ván và bà
đã tặng cho tôi một bài thơ có tựa đề "Nụ cười".
Tôi liên tưởng đến
một người đàn ông khác, bị điếc lúc 14 tuổi, mù từ lúc lên 16 tuổi. Trên giường
bệnh, lúc hấp hối, người đàn ông 87 tuổi này đã thốt lên như sau: "Tôi đã
trải qua một cuộc đời tốt đẹp".
Ông Jacques
Lebreton kết luận như sau: "Tôi, một người không tay, không mắt, tôi cũng
thấy đời tươi đẹp. Cuối cùng, sự tàn tật lớn lao nhất là bị chia lìa với Thiên
Chúa. Tôi không thể nói như vậy, nếu tôi lành lặn với đôi mắt và đôi tay. Nhưng
tôi có thể nói như vậy vì tôi biết thế nào là sống xa Chúa. Và hôm nay, sau một
chặng đường dài, tôi lớn tiếng kêu lên với tất cả các người anh em của tôi rằng:
Thiên Chúa hằng sống. Ðức Kitô đã sống lại".
Ðã có khoảng 6,000 vụ
lành bệnh lạ lùng được ghi nhận tại Lộ Ðức, trong số này chỉ có 64 vụ được Giáo
Hội công nhận là phép lạ. Nhưng phép lạ cả thể nhất của Lộ Ðức cũng như của những
trung tâm Thánh Mẫu khác: chính là phép lạ của lòng tin. Và trong những phép lạ
của lòng tin ấy, kỳ diệu hơn cả vẫn là niềm tin, sự chấp nhận, tinh thần lạc
quan của chính những người đau khổ. Trong niềm đau tột cùng trong thân xác cũng
như tâm hồn, những con người ấy vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, tình
yêu cao cả của Chúa. Ðó chính là phép lạ mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện qua những
người có lòng tin. Và đó cũng là phép lạ mà chúng ta không ngừng kêu cầu Chúa
thực hiện.
Nhìn lên thập giá
Chúa, trong niềm hiệp thông với Mẹ Ngài, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho
chúng ta được tiếp tục tin yêu, được tiếp tục nhìn thấy ánh sáng phục sinh giữa
những đêm tối của khổ đau, thử thách. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho không biết
bao nhiêu người đang quằn quại trong đau đớn của thể xác, trong cô đơn của tâm
hồn. Xin cho họ được nâng đỡ, ủi an và tìm được niềm tin.
(Lẽ Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét