Trang

Thứ Năm, 5 tháng 10, 2017

06-10-2017 : THỨ SÁU - TUẦN XXVI THƯỜNG NIÊN

06/10/2017
Thứ sáu đầu tháng, tuần 26 thường niên

Bài Ðọc I: (Năm I) Br 1, 15-22
"Chúng ta đã phạm tội trước mặt Chúa và không tin tưởng vào Người".
Trích sách Tiên tri Barúc.
Sự công chính thuộc về Chúa là Thiên Chúa chúng ta, còn sự thẹn mặt thì thuộc về chúng ta: như ngày nay, nó thuộc về toàn cõi Giuđa: thuộc về dân cư Giêrusalem, vua chúa, quan quyền, tư tế, tiên tri và các tổ phụ chúng ta. Chúng ta phạm tội trước mặt Chúa là Thiên Chúa chúng ta, và chúng ta không tin tưởng, không cậy trông vào Người. Chúng ta không suy phục Người, không nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa chúng ta, để chúng ta bước đi trong các giới răn Người đã ban cho chúng ta. Từ ngày Chúa dẫn các tổ phụ chúng ta ra khỏi đất Ai-cập cho đến ngày nay, chúng ta chẳng tin tưởng vào Chúa là Thiên Chúa chúng ta: chúng ta vô tâm lìa xa Chúa để khỏi nghe tiếng Người. Chúng ta mắc phải nhiều tai hoạ và những lời chúc dữ mà Chúa đã báo cho Môsê tôi tớ Người, khi Người dẫn dắt tổ phụ chúng ta ra khỏi đất Ai-cập, để ban cho chúng ta đất chảy sữa và mật như ngày hôm nay. Chúng ta không nghe tiếng Chúa là Thiên Chúa chúng ta theo như mọi lời các tiên tri Chúa sai đến cùng chúng ta. Mỗi người chúng ta cứ theo lòng gian tà của mình, làm tôi các thần ngoại, thực hành các sự dữ trước mắt Chúa là Thiên Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 78, 1-2. 3-5. 8. 9
Ðáp: Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con vì vinh quang danh Chúa (c. 9bc).
Xướng: 1) Ôi Thiên Chúa, ngoại bang đã xông vào gia nghiệp Chúa, họ làm ô uế thánh điện của Ngài, họ biến Giêrusalem thành nơi đổ nát! Họ ném tử thi thần dân Chúa làm mồi nuôi chim trời, và huyết nhục tín đồ Ngài cho muông thú đồng hoang. - Ðáp.
2) Họ đổ máu chư vị đó dường như nước lã quanh Giêrusalem, mà không có kẻ chôn vùi. Chúng con đã bị bêu ra cho láng giềng phỉ nhổ, cho lân bang chế diễu nhạo cười! Tới ngày nào, lạy Chúa, Chúa còn giận mãi? Và lòng ghen hận Chúa còn như lửa nấu nung? - Ðáp.
3) Xin đừng nhớ tội tiền nhân để trị chúng con; xin kíp mở lòng từ bi đón nhận chúng con, vì chúng con lầm than quá đỗi! - Ðáp.
4) Ôi Thiên Chúa, Ðấng cứu độ chúng con, xin phù trợ chúng con vì vinh quang danh Chúa; xin giải thoát và tha tội chúng con vì danh Ngài. - Ðáp.

Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.

Phúc Âm: Lc 10, 13-16
"Ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các ngươi.
"Còn ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời? Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục.
"Ai nghe các con, tức là nghe Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể Ðấng đã sai Thầy".
Ðó là lời Chúa.


Suy Niệm: Nguy Cơ Của Những Tiện Nghi Vật Chất

Có một hiện tượng chung tại các nước đang phát triển, đó là người dân nghèo từ thôn quê đổ xô ra thành thị. Tại đô thị dễ tìm được công ăn việc làm, đời sống nhiều tiện nghi, thú tiêu khiển cũng nhiều hơn. Nhưng hiện tượng đô thị hóa nào cũng có mặt trái của nó: người dân đưa nếp sống thôn dã lên thành thị, giao thông tắc nghẽn, việc buôn bán lấn chiếm vỉa hè, trật tự công cộng không được tôn trọng, và trầm trọng hơn vẫn là đời sống luân lý đạo đức xuống cấp, nạn phạm pháp gia tăng.
Thời Cựu Ước, các Tiên tri đã không ngừng lên tiếng cảnh cáo dân chúng về cuộc sống đồi bại tại các đô thị. Chúc dữ các đô thị vốn là một đề tài quen thuộc trong lời rao giảng của các Tiên tri. Dường như có hai lý do khiến các Tiên tri lên án các đô thị: Một đàng các Tiên tri muốn nhắc nhở dân chúng về cuộc sống du mục trong sa mạc, tại đó họ đã nghe được tiếng Chúa và đã kết ước với Ngài, cuộc sống càng đơn giản, con người càng dễ kết thân với Chúa; nhưng đàng khác, nhận thấy cuộc sống đồi bại của các thành phố ngoại giáo trong vùng, các tiên tri muốn cảnh cáo dân chúng về mối nguy cơ có thể chạy theo một cuộc sống như thế. Sự đồi bại nguy hiểm nhất mà các Tiên tri không ngừng lên án một cách gắt gao, đó là việc tôn thờ ngẫu tượng và nếp sống vô luân của thị dân, điển hình nhất là của các đô thị sa đọa là Sôđôma, Gômôra, Babylon, Tyrô, Siđôn.
Trong Tin Mừng hôm nay, theo truyền thống các tiên tri Cựu Ước, Chúa Giêsu cũng nêu đích danh ba thành phố có nếp sống sa đọa nằm dọc theo bờ hồ, đó là Cozazin, Betsaiđa và Capharnaum. Những tiện nghi vật chất khiến con người dễ trở thành câm điếc trước Lời Chúa. Con người được tạo dựng không phải để sống đơn độc một mình, do đó, cô đơn vốn là điều con người sợ nhất, thành ra đi vào quan hệ với người khác là một trong những nhu cầu cơ bản nhất của con người. Cuộc sống đô thị với nếp sống ồn ào náo nhiệt của nó dễ tạo cho con người cái cảm tưởng rằng ở đó họ dễ đi vào quan hệ với người đồng loại.
Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, cuộc sống càng xô bồ, con người càng dễ rơi vào cô đơn. Kinh Thánh không ngừng nhắc nhở con người rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể mang lại bí quyết cho sự thông hiệp đích thực của con người, nghĩa là giúp cho con người ra khỏi nỗi cô đơn của mình; bí quyết đó chính là Lời của Ngài. Thật thế, khi con người sống kết hiệp với Chúa, thì dù có sống một mình, nó cũng sẽ không cảm thấy cô đơn; lại nữa, khi sống kết hiệp với Chúa, con người sẽ cảm thấy được thúc đẩy để đến với anh em của mình. Con người không thể kết hiệp với Chúa mà có thể khước từ người anh em của mình, và ngược lại, bất cứ một quan hệ chân thành nào với người anh em, cũng luôn gia tăng sự kết hiệp con người với Thiên Chúa.
Dù muốn hay không, những thay đổi trong cuộc sống do kinh tế thị trường mang lại không thể không ảnh hưởng đến cuộc sống đức tin của người Kitô hữu. Thật ra, cuộc sống đức tin không phải là một sinh hoạt phụ trong cuộc sống chúng ta; đức tin phải là chiều kích bao trùm toàn bộ cuộc sống của chúng ta: chúng ta là Kitô hữu trong mọi nơi, mọi lúc, mọi sinh hoạt, mọi hoàn cảnh. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đề cao cảnh giác trước nguy cơ có thể tách biệt niềm tin với những sinh hoạt hàng ngày và dần dà đẩy niềm tin ra bên lề cuộc sống. Niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là Thánh Lễ Chúa Nhật, một vài sinh hoạt trong khuôn viên giáo đường, một số kinh kệ trong gia đình, chứ không ăn nhập gì đến cuộc sống mỗi ngày; niềm tin ấy có lẽ chỉ còn là một món đồ trang điểm cho cuộc sống và cần thiết cho một số dịp nào đó trong năm, chứ không liên hệ gì đến đòi hỏi công bằng bác ái, liên đới mà chúng ta phải thực thi hằng ngày.
Nguyện cho Lời Chúa luôn là động lực thúc đẩy và hướng dẫn chúng ta trong mọi sinh hoạt và quan hệ hằng ngày của chúng ta, để trong khi mưu cầu cho cuộc sống, chúng ta luôn tìm gặp Chúa trong tha nhân và trong mọi biến cố.
Veritas Asia


Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Sáu Tuần 26 TN1
Bài đọcBar 1:15-22; Mt 18:1-5, 10.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Các thiên thần sẽ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường.
Nhìn lại sự quan phòng của Thiên Chúa, con người không thể kêu trách Ngài được điều gì; vì Ngài đã làm mọi sự để con người có thể sống bình an và hạnh phúc. Ngài đã ban hành Lề Luật để con người biết sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Khi con người bất tuân Lề Luật, Ngài sai ngôn-sứ đến để khiển trách và kêu gọi con người quay về nẻo chính đường ngay; trước khi sửa phạt con người. Hơn nữa, Thiên Chúa còn ban cho mỗi tín hữu một thiên thần bản mệnh để cùng đồng hành, săn sóc, và bảo vệ con người.
Các Bài Đọc hôm nay chú trọng đặc biệt đến sự quan phòng của Thiên Chúa và sự cứng lòng trong tội lỗi của con người. Trong Bài Đọc I, tiên-tri Baruc phải thú nhận những gì Thiên Chúa sửa phạt con cái Israel là xứng đáng với tội lỗi của họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy dỗ các môn đệ phải tránh khuynh hướng muốn được quyền cao chức trọng theo kiểu loài người, nhưng phải biết khiêm nhường như trẻ nhỏ và phục vụ những người cô thân cô thế. Hơn nữa, người môn đệ phải tuyệt đối tránh đối xử bất công với những hạng người này, vì thiên thần của họ hằng bảo vệ họ trước ngai của Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Chúng tôi đã không vâng nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi.
Tiên-tri Baruch là một kinh-sư, người đồng thời với tiên-tri Jeremiah. Nhiều người còn cho ông là thư ký của Jeremiah. Cả hai sống trong một giai đoạn rất khó khăn của vương quốc Judah, khi cả nước bị rơi vào tay vua Babylon, Đền Thờ bị phá hủy, và rất nhiều người cùng với vua quan bị lưu đày qua Babylon. Trình thuật của ông hôm nay là một lời thú tội, sau khi đã cẩn thận xét mình về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con cái Israel.
1.1/ Tình thương Thiên Chúa và sự dạy dỗ của Ngài: Khi nhìn lại quá khứ, Baruch nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho con cái Israel quá cao vời: Ngài đã đưa ra khỏi đất nô lệ Ai-cập, dẫn đưa họ vào miền Đất Hứa tràn đầy sữa và mật mà Ngài đã hứa với các tổ-phụ. Ngài đã thân hành ban cho dân Thập Giới qua trung gian Moses, để dân chúng biết sống đúng mối liên hệ vơi Thiên Chúa và với tha nhân. Khi vua quan và dân chúng đi trật đường, Ngài đã gởi các tiên-tri tới để sửa dạy; không phải chỉ một người hay một lần, mà rất nhiều người và nhiều lần. Họ không những không chịu nghe, mà còn xỉ nhục và đánh đập các tiên-tri nữa.
1.2/ Tội lỗi và hình phạt: Trong khi Thiên Chúa thương yêu, dạy bảo, và tìm mọi cách để làm cho con cái Israel ăn năn trở về; họ vẫn cứng lòng và ngoan cố trong tội.
(1) Tội lỗi con người: Tiên-tri Baruch thú nhận: ''Tất cả chúng tôi đã phạm tội trước nhan Đức Chúa.'' Một số tội ông liệt kê ra như sau:
+ Tội không vâng phục: Chúng tôi đã không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa, không vâng giữ các mệnh lệnh Đức Chúa đã đề ra.
+ Tội cứng lòng không chịu nghe lời các ngôn sứ sửa dạy: Chúng tôi đã không tuân giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi.
+ Hai tội chính của con cái Israel được nhắc đi nhắc lại trong sách các tiên-tri: (1) Bỏ Thiên Chúa để chạy theo các thần ngoại bang; và (2) sống bất công với tha nhân.
(2) Hình phạt: Thiên Chúa, qua ông Moses, đã báo trước hình phạt xảy ra nếu không chịu giữ các điều răn là phải chết. Giờ đây, khi toàn dân phải hổ ngươi bẽ mặt trong chốn lưu đày là xứng đáng với tội lỗi của mình; họ không được than trách Thiên Chúa.
2/ Phúc Âm: Các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy.
2.1/ Phục vụ trẻ nhỏ là điều kiện vào Nước Trời: Mong ước được nổi tiếng nhất, được trở thành người quan trọng nhất, là ước mơ của nhiều người trong thế gian. Mong ước này cũng xảy ra nơi các môn đệ của Chúa Giêsu, khi các ông lại gần hỏi Ngài rằng: "Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?"
Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: "Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy.'' Qua câu rả lời của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra hai điều quan trọng:
(1) Phải khiêm nhường, tự hạ, mới được vào Nước Trời: Trẻ thơ không mong được quyền cao chức trọng, chúng bằng lòng với sự yêu thương, chăm sóc, và bảo vệ của cha mẹ chúng. Người môn đệ của Đức Kitô cũng thế, tại sao cần phải có quyền cao chức trọng khi đã được Thiên Chúa yêu thương, dạy dỗ, và quan phòng cho mọi sự! Mong ước được nổi tiếng chẳng những không giúp gì cho người môn đệ, mà còn làm cho người môn đệ dần dần xa Chúa. Mọi người chúng ta đã quá rõ lý do sự sa ngã của Lucifer và của cặp vợ chồng đầu tiên rồi.
(2) Phải phục vụ trẻ nhỏ vì danh Chúa: Một tính xấu nữa nơi con người là muốn được phục vụ, chứ không muốn phải phục vụ người khác. Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài phải khử trừ thói xấu này bằng cách xả thân phục vụ trẻ nhỏ, và những người cô thân cô thế vì danh Đức Kitô. Những người này không có gì để trả lại cho các môn đệ; đó chính là động lực mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ phục vụ: để Thiên Chúa trả công cho anh em.
2.2/ Mỗi người tín hữu đều có một thiên thần bản mệnh: Niềm tin vào thiên thần bản mệnh được Giáo Hội dựa trên những gì Chúa Giêsu tuyên bố hôm nay: "Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này; quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.''
(1) Mọi người đều được Thiên Chúa bảo vệ: Thiên Chúa dùng các thiên thần để giúp Ngài trong việc điều khiển thế giới và con người. Mỗi tín hữu, không cần biết nhỏ bé và tầm thường đến đâu, đều có một thiên thần để bảo ban, dạy dỗ, và phù hộ trong cuộc đời. Mỗi tín hữu phải biết lắng nghe tiếng thiên thần của mình, để có thể tránh hậu quả tai hại xảy ra trong cuộc đời.
(2) Động đến họ là động đến Thiên Chúa: Nhiều người có khuynh hướng ức hiếp kẻ cô thân cô thế, vì nghĩ họ không có đủ khôn ngoan và sức mạnh chống lại mình. Những lời của Chúa Giêsu tuyên bố hôm nay là lời cảnh cáo cho những ai suy nghĩ như thế. Cho dẫu họ có thể ức hiếp người cô thân cô thế ở đời này, nhưng họ sẽ không thoát nổi lời tố cáo của thiên thần bản mệnh trước tòa án của Thiên Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta hãy vâng nghe những lời chỉ dạy của Thiên Chúa qua Thập Giới và hướng dẫn của Giáo Hội; để có thể tránh tội lỗi và hình phạt gây ra bởi tội.
- Chúng ta hãy luôn ý thức sự hiện diện và lắng nghe tiếng của thiên thần bản mệnh, để tránh được chước cám dỗ của ma quỉ và nhưng nguy hiểm của cuộc đời.
- Chúng ta hãy bằng lòng với sự yêu thương, dạy dỗ, và bảo vệ của Thiên Chúa. Mơ ước được quyền cao chức trọng chẳng sinh lợi ích gì cho phần rỗi linh hồn của chúng ta.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

06/10/2017 - THỨ SÁU ĐẦU THÁNG TUẦN 26 TN
Th. Bru-nô, linh mục
Lc 10,13-16
KHỐN CHO KHO-RA-DIN

“Khốn cho ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đôn thì từ lâu họ đã mặc áo vải thô, ngồi trên tro tỏ lòng sám hối rồi.” (Lc 10,13)
Suy niệm: Trong Kinh Thánh Cựu Ước, thành Tia và Xi-đôn là đối tượng của những lời rủa xả nặng nề nhất của các tiên tri (x. Gr 47; Is 23; Ed 26). Những đô thị này là nơi phát sinh những sa đọa luân lý, óc tự mãn và tôn thờ ngẫu tượng. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su nói rằng: trong cuộc phán xét, Tia và Xi-đôn còn được xử khoan hồng hơn Kho-ra-din, Bết-xai-đa và Ca-phác-na-um, vì các thành này là ba điểm truyền giáo mà Chúa Giê-su hằng lui tới và đã chứng kiến rất nhiều phép lạ Chúa làm. Thế nhưng các thành này không sám hối. Chúa Giê-su đã dùng từ rất nặng để quở trách: Khốn cho ngươi.
Mời Bạn: Đôi khi đọc Tin Mừng có những đoạn Chúa lên án gay gắt, và chúng ta thường tránh né Lời Chúa. Chẳng hạn hôm nay, Chúa nói: Khốn cho ngươi. Tránh né Lời Chúa thì Lời Ngài không thể hoán cải đời sống chúng ta được. Vì thế, chúng ta hãy đón nhận Lời Chúa để được ơn hoán cải.
Chia sẻ: Một ai đó nói với bạn: Khốn cho ngươi, bạn phản ứng thế nào?
Sống Lời Chúa: Hoán cải một tật xấu nào đó.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa đến loan báo niềm vui cho chúng con. Niềm vui mà thế gian không thể ban tặng được. Thế nhưng, nhiều khi chúng con đã khước từ Lời của Chúa, đến nỗi Chúa phải nặng lời: Khốn cho con. Chúng con xin lỗi Chúa và xin Chúa ban sức giúp chúng con hoán cải mỗi ngày. Amen.
(5 Phút Lời Chúa)

Khn cho ngươi (6.10.2017 Th sáu Tun 26 Thường niên)
Có th nhiu người b đánh đng khi nghe li Đc Giêsu ging và b thu hút bi các phép l Ngài làm. Nhưng đi vi Đc Giêsu, như thế vn chưa đ.


Suy nim:
Tin Mừng hôm nay kể lại một kinh nghiệm không vui của Đức Giêsu,
Kinh nghiệm của một người tận tụy với công việc tông đồ
nhưng sau thời gian dài chờ đợi, kết quả lại không như ý.
Đức Giêsu là người vùng Galilê, hẳn Ngài yêu vùng đất này.
Ngài thường lui tới những thành phố quanh Hồ Galilê.
Khoradin, Bếtsaiđa, Caphácnaum nằm trong số đó.
Ngài đã rao giảng nhiều về sám hối (7, 36-50; 13, 1-5; 19, 1-10),
và Ngài cũng làm bao phép lạ kèm theo để gọi mời hoán cải.
Có thể nhiều người bị đánh động khi nghe lời Ngài giảng
và bị thu hút bởi các phép lạ Ngài làm.
Nhưng đối với Đức Giêsu, như thế vẫn chưa đủ.
Tất cả vẫn chỉ là hời hợt của cảm xúc bên ngoài.
Điều Ngài đòi hỏi là biến đổi tận căn bên trong cuộc sống.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtsaiđa!
Đức Giêsu đau đớn thốt lên như thế khi phải so sánh hai thành phố trên
với hai thành phố dân ngoại tội lỗi là Tia và Xiđôn (Is 23; Ed 26-28).
Hai thành phố ở Galilê chẳng đổi gì mấy dù đã biết Ngài từ lâu.
Dân ở đây sẽ bị xét xử nghiêm khắc hơn trong cuộc phán xét.
Thành phố Caphácnaum cũng chẳng khá hơn,
dù đây là nơi Đức Giêsu hay lui tới để phục vụ (Lc 4, 23. 31-37 ; 7,10).
Ngài đặt thẳng câu hỏi với thành phố này về tương lai của nó (c. 15).
Đừng mong được nâng đến tận trời, nhưng sẽ bị xuống tận âm phủ!
Đức Giêsu có kinh nghiệm về thất bại trong việc tông đồ.
Ngài cũng nhắc các môn đệ về chuyện đó (Lc 10, 10-12).
Không được tiếp đón, bị từ khước, không được người ta nghe (c.16),
thậm chí có khi bị bách hại, bị vu khống, bị giết chết.
Đó là những điều người môn đệ tín trung vẫn thường gặp,
vì Thầy của họ đã trải qua và vượt qua.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu nói chuyện với các thành phố,
những nơi thân quen, đã mang dấu chân Ngài.
Ngài lấy làm tiếc vì những gì Ngài làm chưa thấm vào bề sâu,
chưa tạo ra được những thay đổi nơi lòng thành phố.
Một sám hối thật sự không phải chỉ là một sám hối cá nhân,
nhưng là sám hối nơi sinh hoạt của cả một thành phố.
Nếu hôm nay Ngài đến với thành phố của chúng ta Ngài sẽ nói gì?
Ngài có chỗ không, ở mọi nơi người Kitô hữu đang sống,
đang làm việc, đang học hành, đang vui chơi, đang cầu nguyện?
Sám hối là trả lại chỗ cho Ngài trong mỗi góc phố vắng,
là giữ cho thành phố xanh-sạch-đẹp theo nghĩa thiêng liêng nhất.
Ước gì chúng ta biết xây dựng quanh ta
những khoảng không gian tràn ngập sự hiện diện của Giêsu.
Cầu nguyn:
Lạy Chúa Giêsu,
việc tông đồ của con phải là việc tông đồ diễn tả lòng tốt.
để khi thấy con, người ta phải nói:
“vì anh này tốt quá, nên đạo của anh phải là đạo tốt.”
Và nếu có ai hỏi con
tại sao con lại hiền lành và tốt như thế,
con sẽ trả lời
vì con là tôi tớ của một đấng tốt hơn con nhiều.
“Mong sao bạn biết được Chủ Giêsu của tôi tốt biết bao!”
Con muốn sống thật tốt, để người ta có thể nói:
“nếu tôi tớ mà tốt như vậy,
thì Chủ sẽ tốt đến ngần nào?”
Chân phước Charles Foucauld

Lm Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ


Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
6 THÁNG MƯỜI
Bánh Nuôi Nhiệm Thể Đức Kitô
Thánh Thể là bí tích của sự hiệp thông sự sống với Chúa Kitô. Đó cũng là bí tích xây dựng cộng đoàn. Cây nho và những cành nho là hình ảnh của cộng đoàn này, bao gồm tất cả những ai được liên kết trong Đức Kitô nhờ ân sủng và sự thật. Hình ảnh cây nho và các cành nho nhắc chúng ta về nhu cầu phải sống thực tại Giáo Hội trong mối hiệp thông sâu xa với Đức Kitô và với anh chị em mình. Giáo Hội là Nhiệm Thể của những nguời tin – trong đó Chúa Kitô là Đầu và tất cả các tín hữu là những chi thể.
Sự sống của thân thể này đến từ mạch nhựa sống siêu nhiên là ân sủng và thân thể này lớn lên nhờ ánh sáng của Chúa Thánh Thần. “i” (2 Tm 3,5) của đức tin chúng ta nằm trong chính thân thể này; cũng chính trong thân thể này chứa đựng các mô liên kết giúp đem lại ý nghĩa và mối hiệp nhất cho các cộng đoàn Kitô hữu trên khắp cùng thế giới.
Chân lý này được minh họa bằng một hình ảnh rút ra từ một kỹ thuật nông nghiệp, gọi là “ghép”. Nhờ Phép Rửa, chúng ta được ghép vào với Đức Kitô (Rm 1,17). Chúng ta trở nên những cành nho, được nuôi sống bởi cây nho. Vì thế chúng ta đuợc mời gọi sống hiệp nhất với Đức Kitô và với anh chị em mình. Như vậy, chúng ta là cộng đoàn của những người đã được nhận Phép Rửa và được cứu chuộc. Chúng ta vẫn còn thuộc về cộng đoàn này bao lâu chúng ta còn ở lại trong mối hiệp thông với Đức Kitô và với anh chị em mình. Đức Giêsu vạch cho chúng ta thấy rõ điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta tự tách mình ra khỏi Ngài và anh chị em. Hình ảnh minh họa của Thánh Kinh giải thích điều này hết sức rõ: Nếu cành nho không ở lại trong mối liên kết với thân nho thì nó sẽ khô héo đi. Nó bị chặt đi và bị quăng vào lửa.
Nhưng Thánh Thể không chỉ hàm chứa mối tương quan mật thiết giữa Đức Kitô và mỗi người tín hữu. Thánh Thể còn được thiết lập để hiệp nhất mọi Kitôhữu trong tư cách là thân thể của Chúa. Thánh Thể tạo lập trong chúng ta một ý thức sâu xa về mối dây hiệp nhất, về tình huynh đệ, về sự liên đới trong Đức Kitô. Thánh Thể tác động trong chúng ta một cảm thức sâu xa mối gắn bó thiêng liêng, bởi lẽ chúng ta là những người được nuôi dưỡng bởi cùng một bánh để làm nên một thân thể duy nhứt trong Đức Kitô.
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II


Lời Chúa Trong Gia Đình
Ngày 06-10
Thánh Brunô linh mục
Br 1, 15-22; Lc 10, 13-16.

Lời suy niệm: “Ai nghe anh em là nghe Thầy; Và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; và ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy.”
Lời Chúa Giêsu đang nói với chính những người đã được Chúa sai đi, đây là một vinh dự thật lớn lao, đồng thời cũng mang một trách nhiệm trong học biết và truyền đạt cho người anh em chúng quanh mình; vì được chính Chúa Giêsu kết nối lời nói của người được sai đi liền liền với Lời Chúa và với Lời Chúa Cha.
Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi một người trong chúng con luôn biết tiếp nhận Lời Chúa đem vào trong cuộc sống của mình hầu những việc làm của chúng con được đẹp lòng Chúa và mọi người đang sống chúng quanh chúng con.
Mạnh Phương


Gương Thánh Nhân
Ngày 06-10
Thánh BRUNÔ
Linh Mục (1035 - 1101)

Thánh Brunô sinh khoảng năm1035 tại Cologne, nước Đức và từ trần năm 1101 tại Calabria, miền nam nước Ý. Chúng ta biết được rất ít và đời sống thơ ấu của Ngài. Có lẽ Ngài thuộc gia đình quý phái Der Hautenfaust và được giáo dục ở truờng thánh Cunibert tại sinh quán.
Sau đó dường như Ngài đã bỏ Cologne để theo học tại Reims và từ đó tiếp tục học triết ở Tours. Sau này chúng ta biết Ngài làm thủ lãnh các trường Reims, làm chưởng ấn địa phận và làm kinh sĩ toà tổng giám mục. Chắc chắn Ngài là một trong những học giả lừng danh thời đó. Nhiều người đã tới Reims để thụ giáo với Ngài, trong số đó có Eudes de Chantaillen là người sẽ trở thành giáo hoàng với danh hiệu Urbano II. Các sách chú giải về thánh vịnh và các thư thánh Phaolô là những tác phẩm chúng ta còn lưu giữ được, chứng tỏ thánh nhân là một học giả có thế giá và là người hiểu biết tiếng Hy lạp và tiếng Do thái. Vào thời của Ngài ít có người hiểu biết được như vậy.
Các thử thách đổ xuống cuộc đời thánh Brunô, kể từ khi Đức Tổng giám mục Gevase qua đời năm 1068 và Manasses được đặt kế vị. Manasses là một người khô khan và hung bạo, đã chiếm đã ngai tòa giám mục nhờ việc buôn thần bán thánh. Brunô đứng đầu những nhóm kinh sĩ chống lại và bị triệu về Roma. Manasses trả thù bằng cách tịch biên tài sản và buộc các Ngài phải trốn khỏi thành phố. Brunô trốn về một nơi gọi là Rocher, ở tại nhà một người bạn tên là Adam. Lần kia, trong khi đi dạo tại vườn nhà Adam, Brunô với hai người bạn là Ralph và Fulcius đã bàn về bản chất giả tạo của các thú vui trần thế và niềm vui của đời sống chiêm niệm. Lửa nhiệt tình bùng cháy, họ quyết định sẽ bỏ thế gian để sống đời cầu nguyện, ngay khi nào hoàn cảnh cho phép. Nhưng rồi Fulcius phải đi Roma để trình bản cáo trạng tổng giám mục. Brunô không thể bỏ Reims khi Đức tổng giám mục còn tại vị. Cuối cùng, khi Đức Tổng giám mục bị truất ngôi, chi còn Brunô trung kiên với dự tính.
Sau khi Manasses bị truất ngôi, vị đặc sứ tòa thánh muốn đặt Brunô làm tổng giám mục. Nhưng lúc ấy thánh nhân đã trốn khỏi Reims cùng với sáu người bạn, tới một nơi gọi là Sèche-Phontaine. Ngài ở gần tu viện Molesme là nơi thánh Robertô làm đan viện phụ. Có lẽ Brunô là tu sĩ của tu viện này một thời gian ngắn.
Tuy nhiên Brunô đã không ở lâu tại Sèche-Phontaine. Ngài muốn tìm một nơi xa vắng hơn để khỏi bị du khách quấy rầy. Năm 1084, Ngài cùng với sáu người bạn tìm đến miền núi Savoy. Trên đường đi, các Ngài dừng chân tại Grenoble để tham khảo ý kiến Đức Cha Hugues de Chateaineuf, một học trò cũ của Ngài. Vị giám mục thánh thiện đã mơ thấy bảy ngôi sao sáng trên một miền xa thuộc dẫy núi Cjartreuse. Biết rằng Brunô cùng với sáu người bạn của Ngài là những ngôi sao ấy, đức cha đã không chần chờ dẫn họ ngay tới nơi mà giấc mơ đã chỉ cho Ngài. Đây là một nơi đủ yên tĩnh. Brunô và các bạn liền cư ngụ tại đó. Các Ngài làm một nhà nguyện nhỏ và bảy cái lều chung quanh. Đó là bước đầu của một tu viện lớn vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay, là nhà mẹ của một hội dòng mang tên CHARTREUSE.
Nhưng rồi thánh Brunô đã quá lừng danh và không thể yên thân được lâu. Năm 1090, Đức Urbanô II, một học trò cũ của Ngài đã nhớ đến thày cũ và triệu về Roma làm cố vấn. Dầu vậy, đức giáo hoàng cũng sớm nhận ra rằng: không có chỗ trong giáo triều dành cho Brunô. Ngài ban phép cho thánh nhân rời Roma, với điều kiện là phải có mặt tại nước Ý.
Trong thời gian vắn vỏi tại giáo triều, thánh Brunô đã gặp nhà quý tộc Roger miền Sicily. Khi rời Roma, Ngài đến cư ngụ ở nơi nhà quý tộc hiến cho, tại La Torre miền Calabria. Ngài thiết lập ở đó một tu viện thứ hai, theo kiểu mẫu dòng Chartreuse. Ngày 6 tháng 10 năm 1101, Ngài từ trần, khi chưa có dịp trở về thăm tu viện thứ nhất của Ngài.
(daminhvn.net)


06 Tháng Mười
Bưu Ðiện Lớn Nhất Thế Giới
Có lẽ bưu điện lớn nhất thế giới phải là bưu điện trước cổng Thiên đàng... Mỗi ngày có không biết bao nhiêu thư viết bằng không biết bao nhiêu ngôn ngữ được gửi đến... Tất cả đều là những lời cầu xin. Theo sự phân loại của các thiên thần, thì ba vị nhận được nhiều thư nhất đó là Ðức Maria, rồi đến thánh Antôn và thánh nữ Rita.
Một ngày kia, không còn cầm được tính tò mò, các thiên thần không những đã mở thư gửi cho các thánh, mà ngay cả các lá thư gửi đến cho Ðức Mẹ, các vị cũng không tha. Nhưng các vị thiên thần đã thất vọng bởi vì nội dung và cách viết thư đều giống nhau. Ðại khái thì cũng chỉ là: Lạy Mẹ, xin chữa cho con chóng lành bệnh... Xin cho con của con được khỏe mạnh... Xin cho con tìm được việc làm... Xin giúp con thi đỗ... Xin cho con tìm lại được chồng con...
Cả một loạt kinh cầu mà các vị thiên sứ cũng đành phải nhàm chán, đến độ các vị phải thốt lên: dường như Thiên Chúa chỉ tạo dựng con người có một cái miệng, một cái bụng. Họ không có linh hồn, bởi vì tất cả những lời cầu xin của họ đều qui về hai bộ phận ấy.
Ðức Maria ngày nào cũng như ngày nào đều phải đọc lại những lá thư có cùng nội dung và một công thức. Tình cờ, có một là thư làm Mẹ chú ý. Lá thư đó viết như sau: "Lạy Trinh Nữ rất thánh, con chỉ xin Mẹ một điều mà thôi, xin Mẹ cho con mỗi ngày được nên giống Chúa Giêsu hơn".
Ðọc xong lá thư, Ðức Maria bật khóc vì cảm động. Ngài nói với các thiên sứ phục vụ tại bưu điện: "đây là lá thư mà Mẹ mong đợi từng ngày".
Theo sự thăm dò của nhiều tờ báo lớn trên thế giới, thì tước hiệu "Người đàn bà của năm 1987" đã được dành cho thủ tướng nước Anh là bà Margueret Thatcher, người đã đắc cử vào chức vụ này liên tiếp trong ba nhiệm kỳ.
Ðứng hàng thứ hai trong danh sách những người đàn bà trong năm là nữ tổng thống Aquinô của Phi Luật Tân, người đang đương đầu với không biết bao nhiêu xáo trộn trong nước.
Người thứ ba trong danh sách là Mẹ Têrêsa thành Calcutta (người đã được lãnh giải thưởng Nobel về hòa bình năm 1979). Kế đó là nữ hoàng Elizabeth II của nước Anh, bà Simone Veil, chủ tịch quốc hội Âu Châu v.v...
Ðối với chúng ta, những người Kitô, thì người đàn bà trong năm và nhứt là trong tháng mười này phải là Mẹ Maria, người Mẹ không phải của một gia đình, một dân tộc. Vị nữ hoàng không phải của một dân tộc, nhưng là của tất cả nhân loại... Mẹ đang lắng nghe chúng ta trong suốt tháng 10 này. Chúng ta hãy thưa với Mẹ tất cả những gì chúng ta đang cần.
Nhưng điều mà Mẹ luôn chờ đợi để trợ giúp chúng ta: đó là mỗi ngày chúng ta nên giống Chúa Giêsu con Mẹ. Bởi vì, trong tất cả mọi ơn cần cho chúng ta, đó là ơn cao trọng nhứt. Càng nên giống Chúa Giêsu, chúng ta càng nên giống Mẹ và được đến gần Mẹ.
(Lẽ Sống)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét