09/10/2017
Thứ Hai tuần 27 thường niên.
Bài Ðọc I: (Năm I) Gn
1, 1 - 2, 1. 11
"Ông Giona chỗi
dậy lánh xa mặt Chúa".
Khởi đầu sách Tiên tri
Giona.
Có lời phán cùng
Giona, con trai ông Amathi, rằng: "Ngươi hãy chỗi dậy đi sang Ninivê, một
thành rộng lớn, và giảng tại đó, vì tội ác của nó thấu đến Ta".
Giona liền chỗi dậy để
trốn sang Tharsê lánh xa mặt Chúa; ông đi xuống Gioppê, gặp tàu đi sang Tharsê,
ông liền mua vé, xuống tàu đi với hành khách sang Tharsê, lánh xa mặt Chúa.
Nhưng Chúa khiến trận
cuồng phong thổi trên biển và cơn bão táp dữ dội nổi lên, khiến tàu lâm nguy sắp
chìm. Các thuỷ thủ lo sợ, hành khách cầu khẩn cùng thần minh của mình. Người ta
vứt đồ vật trên tàu xuống biển cho nhẹ bớt, lúc đó ông Giona xuống lòng tàu nằm
ngủ mê mệt. Thuyền trưởng đến gần ông và hỏi rằng: "Sao ông ngủ mê mệt như
vậy? Hãy chỗi dậy cầu khẩn cùng Thiên Chúa của ông, may ra Thiên Chúa đoái đến
chúng ta và chúng ta khỏi chết".
Ai nấy đều bảo đồng bạn
mình rằng: "Các anh hãy lại đây, chúng ta bắt thăm coi biết tại sao chúng
ta gặp phải tai hoạ này". Rồi họ bắt thăm, thì trúng phải ông Giona. Họ bảo
ông rằng: "Xin ông cho chúng tôi biết vì cớ nào chúng ta gặp phải tai hoạ
này: Ông làm nghề gì? Ở nơi nào? Ði đâu? Hoặc thuộc dân nào?" Ông trả lời
họ rằng: "Tôi là người Do-thái, tôi kính sợ Thiên Chúa là Chúa Trời, Ðấng
tạo thành biển khơi và lục địa".
Họ khiếp sợ quá sức và
hỏi ông rằng: "Sao ông hành động thế này? (Vì theo lời ông thố lộ, các
hành khách biết ông trốn lánh mặt Chúa). Họ liền hỏi ông rằng: "Chúng tôi
phải đối xử với ông làm sao đây, để biển yên lặng? vì biển càng động mạnh
thêm". Ông bảo họ rằng: "Các ông hãy bắt tôi vứt xuống biển, thì biển
sẽ yên lặng, vì tôi biết tại tôi mà các ông gặp phải trận bão lớn lao
này".
Các thuỷ thủ cố chèo
thuyền vào đất liền, nhưng không sao được, vì biển càng động dữ dội hơn. Họ kêu
cầu cùng Chúa rằng: "Lạy Chúa, chúng tôi xin Chúa vì mạng sống người này
cho chúng tôi khỏi chết. Xin chớ đổ máu vô tội trên chúng tôi, vì, lạy Chúa,
Chúa hành động theo như Chúa muốn". Rồi họ bắt vứt ông Giona xuống biển,
và biển liền hết nổi sóng. Mọi người rất kính sợ Chúa, họ tế lễ dâng lên Chúa
và làm lời khấn hứa.
Chúa chuẩn bị sẵn một
con cá lớn để nuốt ông Giona, và ông Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm. Sau
đó, Chúa truyền lệnh cho cá nhả ông Giona vào bờ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Gn 2, 2. 3. 4.
5. 8
Ðáp: Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, từ vực sâu thẳm,
Chúa đã cứu sống mạng con (c. 7c).
Xướng: 1) Nằm trong bụng
cá, ông Giona thưa cùng Chúa là Thiên Chúa của mình rằng: - Ðáp.
2) Trong cảnh gian
truân, con đã kêu cầu tới Chúa, và Ngài đã nhậm lời con; tự lòng vực sâu âm phủ,
con đã kêu lên, và Ngài đã nghe rõ tiếng con. - Ðáp.
3) Ngài đã ném con xuống
vực sâu, trong lòng biển, các dòng nước đã lôi cuốn thân con, bao sóng cả ba
đào đều lướt chảy trên mình con. - Ðáp.
4) Bấy giờ con tự nhủ:
Con đã bị loại xa khỏi thiên nhan Chúa, nhưng con sẽ còn được xem thấy thánh điện
Ngài. - Ðáp.
5) Khi mà trong người
con, linh hồn tuyệt vọng, bấy giờ con đã nhớ (tới) Chúa. Lời cầu nguyện của con
đã thấu đến tai Ngài, trong nơi thánh điện của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm 3, 9; Ga
6, 69
Alleluia, alleluia! -
Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống
đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 10, 25-37
"Ai là anh em
của tôi?"
Tin Mừng Chúa Giêsu
Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có một người
thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để
được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã chép như
thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?" Ông trả lời: "Ngươi hãy yêu mến
Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi,
và hãy thương mến anh em như chính mình". Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời
đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống". Nhưng người đó muốn bào chữa
mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng ai là anh em của tôi?"
Chúa Giêsu nói tiếp:
"Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng
bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ
một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy,
một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ
Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại
gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của
mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông
chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí
hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông".
"Theo ông nghĩ,
ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?" Người
thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy". Và Chúa
Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm: Người
Samaritanô Nhân Hậu
Một phóng viên nọ muốn
biết cách đối xử với con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị thương nằm
bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Nhiều người đã đi qua..., cuối
cùng có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại cho cảnh sát.
Người phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà
họ để phỏng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình
một ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế: bàn tay của mình đưa ra để mong
tìm được sự nâng đỡ của người khác mà không gặp được.
Người Samaritanô nhân
hậu được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay là chính Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, các tư
tế, lêvi có lý do của họ: họ đã sống đúng luật, tuy nhiên luật đã giết chết
lòng yêu thương của con người vì trọng mặt chữ mà thôi. Chúa Giêsu đã vượt qua
luật lệ và hướng dẫn tâm hồn con người lên cao, đi vào chiều sâu của bác ái.
Ngài đã đến với từng con người, Ngài không đứng xa nhìn con người đương đầu với
những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Như người Samaritanô nhân hậu, Ngài đến
gần bên con người, Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy trắc ẩn, cảm thông, Ngài cúi xuống
băng bó các vết thương của họ và còn tình nguyện trả nợ cho họ bằng giá máu của
Ngài khi chấp nhận chết trên Thập giá để cứu sống và đưa họ về quê trời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta noi theo gương mẫu của người Samaritanô nhân hậu là hình ảnh của chính
Chúa. Chung quanh chúng ta còn biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ
bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể
chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc
làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau của đồng loại.
Nguyện xin Chúa kiện
cường lòng bác ái của chúng ta, một lòng bác ái biết tìm đến, dừng lại và xoa dịu
những nỗi khổ đau của người khác; một lòng bác ái vị tha, không bị lấm bẩn bởi
bản tính ích kỷ trục lợi.
Veritas Asia
LỜI CHÚA MỖI NGÀY
Thứ Hai Tuần 27 TN1.
Bài đọc: Jon
1:1-2:2, 11; Lk 10:25-37.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hãy thực hành những gì Thiên
Chúa dạy.
Đạo là đường, là cách
thế chỉ dạy cho con người biết sống làm sao để được bình an và hạnh phúc. Đạo
không chỉ là những lý thuyết thuần tri thức; nhưng còn những bổn phận con người
phải thi hành để sống đúng mối liên hệ với Thiên Chúa và với tha nhân. Có những
tín hữu biết rất nhiều về Chúa và đạo lý Ngài dạy; nhưng lại không thực hành những
gì Ngài truyền dạy. Hậu quả là kiến thức suông sẽ thành lời tố cáo họ. Trong
khi đó, có những người tuy không biết, hay biết rất ít về Thiên Chúa, lại tận
tâm thi hành những gì Ngài mong muốn. Thiên Chúa ưa thích những ai thi hành điều
Ngài dạy hơn là chỉ tin tưởng Ngài bằng môi miệng.
Các Bài Đọc hôm nay muốn
gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh các tiên-tri, các tư-tế, và tất cả các tín hữu
của Thiên Chúa: Đừng chỉ tin Thiên Chúa bằng môi miệng; nhưng biết kính sợ
Thiên Chúa và yêu thương tha nhân bằng cách thực hành những gì Ngài dạy. Trong
Bài Đọc I, Jonah đã được Thiên Chúa tuyển chọn và sai đi rao giảng tại Nineveh
để kêu gọi họ ăn năn thống hối trở về với đường ngay nẻo chính; Jonah từ chối
và trốn qua một thành khác để khỏi làm điều Ngài truyền dạy. Ông muốn Thiên
Chúa tiêu hủy Nineveh, vì họ là kẻ thù không đội trời chung với người Do-thái.
Trong Phúc Âm, khi nhóm Pharisees hỏi Chúa Giêsu phải làm gì để đạt được cuộc sống
đời đời, Chúa Giêsu nhấn mạnh đến lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng thương xót
dành cho tha nhân. Chúa dẫn chứng một ví dụ cho họ biết trong khi các tư-tế và
Lêvi tìm kiếm lý do để khỏi tỏ lòng thương xót, một người Dân Ngoại Samaria đã
thi hành những gì Thiên Chúa dạy cách tận tâm.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: "Ôi, lạy Đức Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì
mạng sống người này.''
1.1/ Jonah không vâng lời
Thiên Chúa: Đức Chúa phán với ông Jonah, con
ông Amittai, rằng: "Hãy đứng dậy, đi đến Nineveh, thành phố lớn, và hô cho
dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta." Ông Jonah đứng
dậy nhưng là để trốn đi Tarsish, tránh nhan Đức Chúa. Ông xuống Joppah và tìm
được một chiếc tàu sắp đi Tarsish. Ông trả tiền, xuống tàu để cùng đi Tarsish với
họ, tránh nhan Đức Chúa.
Làm sao Jonah có thể
trốn chạy Thiên Chúa? Ngài tung ra một cơn gió to trên biển và liền có một trận
bão lớn ngoài khơi, khiến tàu tưởng chừng như sắp vỡ tan. Thuỷ thủ sợ hãi; họ
kêu cứu, mỗi người kêu lên thần của mình và ném hàng hoá trên tàu xuống biển
cho nhẹ bớt. Còn ông Jonah thì đã xuống hầm tàu, nằm đó và ngủ say. Viên thuyền
trưởng lại gần và nói với ông: "Sao lại ngủ thế này? Dậy! Kêu cầu thần của
ông đi! May ra vị thần ấy sẽ nghĩ đến chúng ta và chúng ta khỏi mất mạng."
Rồi họ bảo nhau: "Nào, chúng ta hãy bắt thăm cho biết tại ai mà chúng ta gặp
tai hoạ này." Họ gieo quẻ và quẻ rơi trúng ông Jonah.
Sau khi họ điều tra và
nghe Jonah thú nhận: "Tôi là người Do-thái, Đấng tôi kính sợ là Đức Chúa,
Thiên Chúa các tầng trời, Đấng đã làm ra biển khơi và đất liền." Jonah biết
rõ Thiên Chúa là ai và kính sợ Ngài rất mực; nhưng lại không vâng lời và tìm
cách trốn tránh Ngài! Ngược lại, các thủy thủ tuy chưa biết Thiên Chúa; nhưng
chỉ nghe Jonah nói, họ đã sợ hãi Thiên Chúa.
1.2/ Jonah không thương
dân thành Nineveh: Hai phản ứng trái ngược
nhau chúng ta nhận ra trong trình thuật hôm nay.
(1) Phản ứng của
Jonah: Lý do Jonah không đi Nineveh rao giảng thống hối vì ông tin họ sẽ trở lại
và Thiên Chúa sẽ không đánh phạt họ nữa. Ông muốn Thiên Chúa tiêu diệt họ.
(2) Phản ứng của các
thủy thủ trên tàu: Sau khi thuyền trưởng và các thủy thủ biết rõ Jonah là
nguyên nhân của cơn bão đang đe dọa họ, và được Jonah cho phép ném ông xuống biển
để tránh nguy hiểm cho bao sinh mạng trên tàu; họ vẫn ngần ngại vì không dám động
đến sinh mạng người của Thiên Chúa. Trước khi bất đắc dĩ phải ném Jonah xuống
biển, họ đã kêu cầu Đức Chúa và thưa: "Ôi, lạy Đức Chúa, ước gì chúng con
không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu vô tội trên đầu
chúng con; vì lạy Đức Chúa, chính Ngài đã hành động tuỳ theo sở thích."
2/ Phúc Âm: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."
2.1/ Phải làm gì để được
sự sống đời đời? Đây là câu hỏi rất quan trọng
và thực tiễn của cuộc đời, nhưng người hỏi là thầy thông luật: tuy ông đã biết
câu trả lời nhưng vẫn hỏi để thử Chúa Giêsu. Thay vì cho ông câu trả lời, Chúa
Giêsu hỏi lại ông: "Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?" Ông ấy
thưa: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết
linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi (Dt 6:5), và yêu mến người thân cận
như chính mình (Lev 19:18)." Đức Giê-su bảo ông ta: "Ông trả lời đúng
lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."
2.2/ Ai là người thân cận
của tôi? Tuy Jericho cách Jerusalem khỏang
20 dặm nhưng độ cao khác biệt là 3,600 ft. Đây là đọan đường rất nguy hiểm vì lối
đi hẹp và có rất nhiều hang động, chỗ ẩn của trộm cướp. Rất ít ai dám đi một
mình trên quãng đường này. Người bị đánh trọng thương rất có thể là người
Do-Thái vì đi từ Jerusalem xuống. Chúa Giêsu liệt kê ra 3 lọai người và phản ứng
của họ khi nhìn thấy người bị thương:
(1) Thầy tư tế: là người
Do-Thái. Lý do tại sao ông tránh có thể vì sợ sẽ bị không sạch trong 7 ngày
(Num 19:11) nếu động tay vào xác chết, và sẽ không được phục vụ trong Đền Thờ.
Ông đặt việc tế tự trên lòng thương xót khi ông tránh qua bên kia mà đi.
(2) Thầy Lêvi: cũng là
người Do-Thái. Nhiệm vụ của các Lêvi là phục vụ cung điện nơi Hòm Bia của Thiên
Chúa ngự. Giống như các tư tế, ông có lẽ cũng sợ bị không sạch, nên tuy cũng thấy
người bị trọng thương, nhưng rồi cũng tránh qua bên kia mà đi.
(3) Người Samaria xem
người Do-Thái như thù địch và không muốn chung chạ gì với họ. Nhưng khi thấy
người bị trọng thương, người Samaria không để ý đến nạn nhân là người Do-Thái
hay không, ông chạnh lòng thương nạn nhân đau khổ: một niềm thương xót giữa người
với người. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy
và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn
sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác
săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ
hoàn lại bác."
2.3/ Chúa Giêsu hỏi thầy
thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người
đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? "
Người thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với
người ấy." Đức Giêsu bảo ông ta: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Chúng ta đừng chỉ
mang danh người Kitô hữu, nhưng hãy biết thực hành những gì Đức Kitô dạy bảo:
Hãy kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu thương tha nhân như chính mình.
- Người không biết
Thiên Chúa có thể vào Nước Trời trước chúng ta; nếu họ sống tốt lành, yêu
thương tha nhân, và không có cơ hội để học hỏi về Thiên Chúa. Chúng ta có thể
không đạt được cuộc sống đời đời, nếu chúng ta từ chối không vâng lời Chúa và
giúp đỡ tha nhân.
Lm. Anthony ĐINH MINH TIÊN, OP.
Th. Đi-ô-ni-xi-ô, Gm. và các bạn, tử đạo Lc
10,25-37
HÃY ĐI VÀ LÀM NHƯ VẬY
“Một người Sa-ma-ri
kia… cũng thấy và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu và rượu đổ lên vết
thương cho người ấy và băng bó lại, rồi lại đặt người ấy lên lưng lừa của mình,
đưa về quán trọ mà săn sóc.” (Lc
10,33-34)
Suy niệm: Có người nói tình yêu đích thực được thể hiện qua bốn
phương diện: 1) sẵn lòng giúp đỡ; 2) biết xót xa trước đau khổ và 3) biết vui mừng
trước hạnh phúc của người khác; cuối cùng 4) biết tha thứ. Chúa Giêsu đưa ra
nhân vật người Samari như một điển hình về tình yêu đích thực đó. “Chạnh lòng
thương” trước tình cảnh khốn khổ cấp bách của một người không quen biết, thay
vì bỏ đi như thầy Lê-vi và thầy tư tế với những bận rộn của mình – mà ai lại
không có những việc bận rộn cơ chứ? – ông sẵn lòng bỏ công ăn việc làm của
mình, lại dốc toàn lực cứu chữa người bị nạn cách tận tình. Với nghệ thuật kể
chuyện tài tình, Chúa mô tả tỉ mỉ những việc làm bác ái của người Sa-ma-ri;
Ngài dạy chúng ta yêu thương đích thực phải thể hiện bằng việc làm cụ thể và
Ngài kết luận cũng rất cụ thể: “Hãy đi và làm như vậy.”
Mời Bạn: Phải chăng bạn hay đưa ra
những lời chống chế “tại, bị, vì, nhưng, nếu…” để không làm những việc bác ái
cho anh em?
Chia sẻ trong nhóm của bạn để biết ai là người
thân cận đang bị quên lãng, bỏ rơi, cùng khổ đang cần trợ
giúp, bênh vực, và để giúp họ cách cụ thể.
Sống Lời Chúa: Sống giản dị, đạm bạc để sẵn
sàng chia sẻ với người khác khi cần thiết.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con tâm hồn quảng đại và nhạy bén biết
chạnh thương trước những đau khổ của tha nhân để con sẵn sàng chia sẻ với họ bằng
một tình yêu đích thực.
(5 phút Lời Chúa)
Hãy đi và làm như vậy (9.10.2017 – Thứ hai Tuần 27 Thường niên)
Yêu những người nghèo như chính mình, yêu cả những ai đã làm khổ mình. Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.
Suy niệm:
Trong Tin Mừng Mátthêu và
Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28)
vị luật sĩ đặt câu hỏi về
điều răn nào là điều răn lớn nhất.
Còn theo Tin Mừng Luca,
vị này lại hỏi Đức Giêsu
về việc phải làm gì
để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).
Đức Giêsu nghĩ rằng câu
trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.
Ông này đã trích sách Đệ
Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.
Động từ yêu mến diễn
tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận:
“Hãy yêu mến Thiên
Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,
với tất cả sức lực con và
với tất cả trí khôn con,
và người thân cận như
chính mình” (c. 27).
Đức Giêsu khen ông trả
lời đúng và khích lệ ông (c. 28).
Như thế giữa Ngài và vị
thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.
Tình yêu không phải là
một đòi hỏi mới của Kitô giáo,
nhưng tình yêu đã là điều
cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.
Vấn đề là phải yêu Thiên
Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.
Từ tất cả được
lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.
Nhưng Đức Giêsu còn phải
trả lời câu hỏi: “Ai là người thân cận của tôi ?”
Ngài đã trả lời bằng một
dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó ngài mở rộng quan
niệm truyền thống về người thân cận.
Một người từ Giêrusalem
xuống Giêrikhô.
Anh phải vượt qua đoạn
đường dài gần 25 cây số.
Đoạn đường này thời bấy
giờ có nhiều trộm cướp.
Anh đã bị bọn cướp trấn
lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.
Nhìn vào tình cảnh bi đát
của anh, có ai muốn thương giúp anh không?
Có ba người đi qua chỗ
anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi.
Cả hai đều phản ứng như
nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi (cc. 31-32).
Chúng ta không rõ tại sao
họ làm thế.
Có thể vị tư tế sợ mình
bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,
vì sách Lêvi (21, 1-3)
cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.
Một người Samari là nhân
vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân.
Hầu chắc nạn nhân này là
một người Do Thái,
vì không có chi tiết nào
cho thấy anh ta là dân ngoại cả.
Giữa dân Do Thái và dân
Samari vốn có mối hiềm thù từ lâu.
Người Samari này cũng
thấy nạn nhân như hai người trước,
nhưng đó không phải là
cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.
Anh thấy bằng trái tim
mình, vì thế anh chạnh lòng thương (c. 33).
điều mà hai người trước
không có.
Chính sự thúc đẩy của
trái tim đã khiến anh làm một loạt hành động cụ thể:
lấy dầu và rượu đổ lên
vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,
đưa về quán trọ săn sóc,
ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,
trả tiền cho chủ quán và
hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần (cc. 34-35).
Lòng thương xót thật sự
khiến anh chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,
và có thể mất mạng nữa,
vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.
Khi giúp cho kẻ lâm nạn,
dù biết đó là một người Do Thái kẻ thù của mình,
người Samari đã làm một
phép lạ lớn.
Đó là biến mình trở thành
người thân cận với anh ấy,
và biến anh ấy, kẻ thù
của mình, trở thành người thân cận với mình.
Đây là phép lạ của tình
thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới
của chủng tộc, tôn giáo
và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.
Để trả lời câu hỏi của vị
luật sĩ: ai là người thân cận của tôi ?
Đức Giêsu đặt câu hỏi
ngược lại cho vị này: “Theo ông,
trong ba người, ai đã trở
nên người thân cận với kẻ bị nạn ?” (c. 36).
Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm
chứa một điều mới mẻ sâu xa.
Trước khi giúp một người,
tôi không nên tự hỏi
người này có thân cận với tôi không.
Chúng ta không chỉ giúp
những người thân cận và loại trừ người khác.
Chúng ta giúp một người
chỉ vì người đó đang cần chúng ta.
Giúp đỡ cụ thể là cách
tạo ra người thân cận
Càng giúp nhiều, ta càng
có nhiều người bạn thân.
Vị luật sĩ đã hỏi Đức
Giêsu phải làm gì (c. 25).
Kể xong dụ ngôn, Đức
Giêsu trả lời: Hãy đi và hãy làm như vậy (c. 37).
Đất nước chúng ta đã giàu
lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tri
thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…
Chúng ta cũng bị cám dỗ
“tránh sang bên kia đường”,
thấy mà làm như không
thấy những Ladarô nằm trước cửa.
Yêu những người nghèo như
chính mình, yêu cả những ai đã làm khổ mình.
Đó là cách chúng ta rao
giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ
muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng
tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu
rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn
mới,
để vòng tròn được mở rộng
đến vô cùng
và trái tim được lớn lên
mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết
rằng
cần phải nối vòng tay lớn
xuyên qua các đại dương
và lục địa.
vòng tay người nối với
người,
vòng tay con người nối
với Tạo Hóa.
Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người
chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang
tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm
lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
9 THÁNG MƯỜI
Vừa Phong Phú Vừa
Nguy Hiểm
Chúng ta thấy rằng
lòng đạo đức bình dân là một cái gì vừa phong phú vừa nguy hiểm. Vì thế, các mục
tử của Giáo Hội cần phải ý tứ để kiểm soát những sự lạm dụng. Nhưng các ngài cần
thi hành công việc mục vụ của mình với lòng kiên nhẫn cao độ. Như thánh
Augustinô đã lưu ý vào thời của ngài, khi đứng trước một số hình thức tôn sùng
các thánh: "Chúng ta dạy điều đúng đắn, song chúng ta cũng cần phải biết
bao dung đối với những điều lệch lạc" (Contra Faustum 20,21 : CSEL
25,263).
Điều quan trọng là phải
nhận ra nhu cầu sùng ngưỡng sâu xa nơi con người – nhu cầu ấy tự bộc lộ ra bằng
những cách thế khác nhau. Chúng ta phải cố gắng để không ngừng tinh luyện nó và
làm cho nó thấm đẫm Tin Mừng của Đức Kitô. Đây là cung cách mà xưa nay Giáo Hội
vẫn áp dụng khi đứng trước sự thách đố của các nền văn hóa bản địa ngoài Kitô
giáo cũng như khi đứng trước lòng đạo đức và những hình thức sùng ngưỡng bình
dân.
Đó là cách mà Giáo Hội
đã làm khi tiếp nhận những làn sóng người mới tòng giáo sau sắc chỉ của
Constantine. Đó cũng là cách mà Giáo Hội đã làm để Kitô hoá các dân man di ở
châu Âu. Đó cũng là những gì đã xảy ra khi Giáo Hội cần rao giảng Tin Mừng cho
các dân tộc ở tân thế giới. Ngày hôm nay Giáo Hội cũng phải tiếp tục làm thế nếu
muốn thích ứng sứ điệp Kitô giáo với các đặc tính và các truyền thống của các
dân tộc khác nhau.
Chúng ta không bao giờ
được quên chuẩn mực mà Đức Gregory Cả đưa ra cho Thánh Augustinô thành
Canterbury, vị Tông Đồ của nước Anh: "Không được phá hủy các đền thờ ngoại
giáo, nhưng phải thanh tẩy và thánh hiến các đền thờ ấy cho Thiên Chúa; cũng phải
làm như thế đối với các tập tục tôn giáo mà dân chúng đã quen cử hành để đánh dấu
các biến cố trong đời họ" (Gregory Cả, Regesta Pontificum, 1848, thư đề
ngày 10 tháng 7, 601).
- suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT UP YOUR HEARTS
Daily Meditations by Pope John Paul II
Gương Thánh Nhân
Ngày 09-10
Thánh ĐIONYSIÔ Và Các Bạn Tử Đạo
Thánh Dionysiô, giám mục
Paris, đã chịu nhiều đau khổ vì danh Chúa Kitô và kết thúc cuộc đời dưới lưỡi
gươm.
Câu nói trên đây của
thánh Grêgoriô thành Tours là tất cả những gì chúng ta biết được về thánh
Dionysiô. Người ta kể lại truyền thuyết rất hấp dẫn về Ngài như sau:
Vào năm 251, đức giáo
hoàng Fabianô đã sai bảy giám mục đi truyền giáo tại xứ Gaules. Các vị tông đồ
này đã vượt qua mọi gian nguy và thiết lập nên các giáo đoàn Arles, Toulouse,
Narbonne, Clermont, Limoges, Tours và Lutèce. Trước hết các Ngài dừng lại ở
Arles, rồi phân tán đi các tỉnh xứ Gaules. Lutèce là tỉnh xa nhất. Nhiệt tâm với
đức tin, Dionysiô đã muốn tới đó.
Dionysiô đã thực hiện
được nhiều cuộc trở lại rất ngoạn mục. Chỉ kêu cầu đến danh Chúa, Ngài đã làm lật
nhào pho tượng thần Hỏa (Mars) khổng lồ. Chứng kiến cảnh tượng này, nhiều người
đã phục dưới chân Ngài xin theo đạo. Cùng với linh mục Eleutheeiô và phó tế
Rusticô, Dionysiô tiến xa về hướng Bắc và dừng lại tại Lutèce. Ngài thiết lập
giáo đoàn Paris và làm giám mục tiên khởi của giáo đoàn này. Ngài luận bác sự
điên dại của các ngẫu thần và rao giảng một Thiên Chúa duy nhất và Chúa Giêsu
là Đấng cứu chuộc.
Phần đông thính giả
tin theo ánh sáng Chúa Kitô giáo. Một trong số những người trở lại là lãnh chúa
miền Montmorency. Tên ông là Lisiniue. Ong đã cho thánh Dionysiô trú ngụ và biến
gia thất thành nơi hội họp của các Kitô hữu. Dân chúng đổ xô đến rao giảng, từ
bỏ tà thần và lãnh nhận bí tích rửa tội. Thánh Dionysiô phong chức cho nhiều
tác viên mới.
Dùng của cải dân
Gaules dâng hiến, Ngài dựng nên bốn nhà nguyện: một dâng hiến Chúa Ba Ngôi (nơi
này sẽ thánh thánh đường kính thánh Beneditô). Năm 1685, người ta đọc được ở đó
những dòng chữ này: "Trong nguyện đường này, thánh Dionysiô đã khởi sự yêu
cầu Chúa Ba Ngôi", một nguyện đường dâng kính hai thánh tông đồ Phêrô và
Phaolô (thánh Ghenevière thích đến cầu nguyện và được mai táng tại đây), nguyện
đường thứ ba đâng kính thánh Têphanô và nguyện đường thứ tư dâng kính Đức Bà
(nay gọi là đền thờ Notre-dame-des-champs).
Thánh Dionysiô vui mừng
vì thành quả gặt hái được. Nhưng các người ngoại, nhất là các tư tế dân ngoại bực
tức. Họ than phiền với quan chức của vương quốc. Khi hoàng đế Maximilianô mang
quân qua xứ Gaules, lệnh bách hại Kitô giáo được ban hành nghiêm nhặt. Vị tông
đồ cùng với hai vị bị điệu ra tòa.
Ngài trả lời rằng: -
Chúng tôi là tôi tớ Chúa Kitô .
Thánh Dionysiô cùng
hai bạn bị tống ngục, nơi sẽ trở thành thánh đường thánh Dionysiô thành
Chartres. Bị đánh đòn, bị hành hạ đến chảy máu, thánh nhân không hề than trách
kêu la. Thay tiếng rên xiết, Ngài nói lên niềm tin và lời ca tụng. Bọn lý hình
giương búa, múa roi trước mặt Ngài, nhưng lão già 110 tuổi đầu bạc vẫn đầy tin
tưởng và êm dịu trả lời: - Chớ gì tôi phải chịu tất cả mọi cực hình này cùng một
lúc để tôi sớm được hạnh phúc với Chúa Kitô.
Ngài bị ném cho thú vật
xâu xé. Nhưng những thú dữ chỉ liếm chân Ngài. Bị treo lên thập giá, nhưng từ
trên cao, Ngài giảng về cuộc khổ nạn của Chúa khiến cho nhiều người trở lại. Vừa
sợ vừa giận, quan tòa ra lệnh xử trảm con người dấy dũng cảm này. Nơi hành hình
là một ngọn đồi dâng kính Thủy thần (Nercure), nhưng sau này được coi là núi
các thánh tử đạo (Montmartre). Xác các thánh tử đạo không được chôn cất, nhưng
phải để làm mồi cho súc vật.
Nhưng có huyền thoại kể
rằng: thánh Dionysiô sau khi bị chặt đầu, đã chỗi dậy cầm lấy đầu mình, đi xa
khoảng hai dặm về hướng đông. Một sử gia nói rằng: Ngài dừng lại ở nơi Ngài muốn
chôn cất và là tu viện của Ngài.
Có một phụ nữ tên là
Catulla đã chôn xác Ngài ở một ngôi làng (làng này sẽ mang tên Dionysiô) bà dựng
một nguyện đường bằng gỗ, nhưng rồi thánh Ghenevière đã xây lại bằng đá.
Dagobert sẽ xây cất một thánh đường và một tu viện ở đó.
Thánh GIOAN LEONAĐÔ
Linh Mục (1541 - 1609)
Thánh Gioan Leonađô
sinh năm 1541 tại Luca miền Tuscia. Từ nhỏ thánh nhân đã theo học ngành thuốc,
nhưng rồi bỏ nghề, Ngài muốn làm linh mục. Năm 25 tuổi, Ngài mới bắt đầu học tiếng
Latinh, triết học và thần học. Năm 1571, Ngài được thụ phong linh mục.
Hồi đó tại Luca, tinh
thần đạo đức của dân chúng lai còn bị hoang mang vì lạc thuyết mà Bernadinô
thành Sienna gieo vãi. Là linh mục trẻ còn đấy nhiệt huyết, cha Gioan đã tìn
cách chấn hưng bằng việc chăm lo giảng dạy và ngồi tòa. Hơn nữa, cha còn lập
"hội giáo lý" qui tụ những người có thiện chí lo việc dạy giáo lý cho
các trẻ em.
Tuy nhiên, là giáo
dân, các hội viên của hộ giáo lý còn bị nhiều giới hạn và không thề làm được hết
mọi việc. Năm 1574, thánh Gioan Leonarđô thành lập một hội dòng, đặt trụ sở tại
nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi. Đức giáo hoàng Clêmentê VIII đã châu phê luật dòng Chúa
Đức giáo hàong Phaolô V đặt tên cho hội dòng là "các giáo sĩ Mẹ Thiên
Chúa". Năm 1621, Đức giáo hoàng Grêgoriô XV đặt tu hội ngang hàng với các
dòng tu kỳ cựu khác.
Nhiệt tình của thánh
Gioan Leonađô và của dòng do Ngài sáng lập, đã mang lại nhiều thành quả tốt đẹp.
Nhưng cũng vì thành công này, mà Ngài phải chịu rất nhiều thử thách. Cuối cùng,
Ngài đành phải chịu rời Luca để về Roma, tại đây Ngài được Đức giáo hoàng
Grêgoriô XIII tiếp đón ân cần. Ngài cũng có dịp làm quen với thánh Philpphê
Nêri. Là một người hiền hoà tận tụy, thánh Gioan Leonađô được nhiều người tín
nhiệm, Ngài còn giải quyết được nhiều cuộc tranh chấp khó khăn.
Tại Roma, thánh Gioan
Leonađô vẫn nuôi mộng truyền giáo. Cùng với Đức Hồng Y Baotixita Vivès, năm
1603, Ngài góp phần đào tạo nhiêu giáo sĩ các xứ truyền giáo. Năm 1627, Đức
giáo hoàng Urbanô VIII chính thức thiết lập ngôi trường mà thánh Gioan Leonađô
đặt nền móng thành "trường truyền giáo", quy tụ các chủng sinh từ các
nước xa xăm.
Ngày 09 tháng 10 năm
1609, Gioan Leonađô từ trần, trong khi nhiệt thành chăm sóc các bệnh nhân mắc bệnh
dịch. Năm 1706, Giáo hội mới lập hồ sơ tuyên thánh cho Ngài. Năm 1861 Ngài được
nâng lên hàng Á thánh và năm 1938 được phong hiển thánh.
(daminhvn.net)
09 Tháng Mười
Cầu Nguyện Là Hơi Thở Của Linh Hồn
Thời Cách Mạng Pháp
1789, những người xây dựng chế độ mới muốn đánh đổ tất cả những gì mà họ gọi là
tàng tích của mê tín dị đoan. Họ hỏi những người nông dân có muốn từ bỏ tôn
giáo của họ không. Một người dân quê mùa chất phác đã trả lời như sau:
"Bao giờ các ông làm cho sao trời rơi xuống thì chúng tôi sẽ thôi cầu nguyện".
Tự đáy tâm hồn mình,
con người luôn luôn khát khao và đi tìm Thiên Chúa. Cầu nguyện, dưới hình thức
này hay hình thức khác, là hơi thở của tâm hồn. Người ta có thể trói buộc tay
chân con người, người ta có thể khóa chặt miệng lưỡi con người, nhưng không ai
có thể ngăn cản con người cầu nguyện.
Cầu nguyện là nhựa sống
của tâm hồn. Con người có thể chết dần trong thân xác vì bệnh tật, đau đớn hay
bị hành hung, nhưng chính sự cầu nguyện nối kết tâm hồn con người với Thiên
Chúa và đem lại cho con người sức sống vượt lên trên mọi thử thách và chết
chóc.
Lẽ Sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét