03/05/2025
Thứ Bảy
tuần 2 Phục Sinh.
THÁNH
PHILIPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ, Tông Đồ.
Lễ Kính.
* Thánh Philipphê quê ở Bét-xai-đa. Ban đầu người là
môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả, sau đó, người theo Chúa Giêsu.
Còn thánh Giacôbê, người là anh em bà con với Chúa và là
con của ông Anphê. Người đã lãnh đạo giáo đoàn Giêrusalem và đã giúp cho nhiều
người Do thái đón nhận đức tin. Người còn để lại một bức thư. Người chịu tử đạo
năm 62.
Bài Ðọc I: 1 Cr 15, 1-8
“Chúa hiện ra với Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông đồ”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phao-lô Tông đồ gửi tín hữu
Cô-rin-tô.
Anh em thân mến, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng mà tôi
đã rao giảng cho anh em, và anh em đã lãnh nhận và đang tin theo, nhờ đó anh em
được cứu độ, nếu anh em tuân giữ lời lẽ tôi đã rao giảng cho anh em, bằng không
anh em đã tin cách vô ích.
Tôi đã rao truyền cho anh em trước tiên điều mà chính tôi đã
nhận lãnh: đó là Ðức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng theo như lời Thánh
Kinh. Người được mai táng và ngày thứ ba Người đã sống lại đúng theo như lời
Thánh Kinh. Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi sau với mười một vị. Sau đó,
Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em trong một lúc; nhiều người trong số
anh em đó hãy còn sống tới nay, nhưng có vài người đã chết. Thế rồi Người hiện
ra với Gia-cô-bê, rồi với tất cả các Tông đồ. Sau cùng, Người cũng hiện ra với
chính tôi như với đứa con đẻ non.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-3. 4-5
Ðáp: Tiếng chúng
đã vang cùng trái đất
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Trời xanh
tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Người. Ngày
này nhắc nhủ cho ngày khác, đêm này truyền tụng cho đêm kia.
Xướng: Ðây không
phải lời cũng không phải tiếng, mà âm thanh chúng không thể lọt tai. Nhưng tiếng
chúng đã vang cùng trái đất, và lời chúng truyền ra khắp cõi địa cầu.
Alleluia: Ga 14, 6b và 9c
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật
và là sự sống. Hỡi Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 14, 6-14
“Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin, Thầy sẽ làm
cho”.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
Khi ấy, Chúa Giê-su phán cùng Tô-ma rằng: “Thầy là đường, là
sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con
biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy
Người”.
Phi-líp-phê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy
Cha và như thế là đủ cho chúng con”.
Chúa Giê-su nói cùng ông rằng: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi,
thế mà con chưa biết Thầy ư? Phi-líp-phê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con
lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?’ Con không tin Thầy ở trong Cha,
và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà
nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy
ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã
làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những
việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với
Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được
vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy
sẽ làm cho”.
Ðó là lời Chúa.
Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ: Ga 14,6-14
* Lịch Sử
Thánh Phi-lip-phê, cũng như Phê-rô và Gia-cô-bê, xuất thân từ
Bết-sai-đa, thuộc nhóm môn đệ của Gioan Tẩy Giả, và trở thành một trong những
môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu. Trong danh sách các Tông Đồ, ngài được xếp vào
hàng thứ năm. Người ta tin rằng sau lễ Hiện Xuống, thánh nhân đi đem Tin Mừng đến
vùng Xi-tơ, phía bắc Biển Đen. Người được tử đạo ở Hi-ê-ra-pô-lit vùng Tiểu Á.
Trong Phúc Âm có hai ông Gia-cô-bê: “Gia-cô-bê tiền” con ông
Dê-bê-đê’’ và “Gia-cô-bê Hậu” con ông An-phê’’ (Mc 3,18). Hôm nay chúng ta mừng
kính thánh Gia-cô-bê, con ông An-phê, tức Gia-cô-bê Hậu; tiền và hậu để chỉ sự
phân biệt, chứ không nói lên một tính chất gì quan trọng.
Có phải vị thánh này (Gia-cô-bê, con ông An-phê) là “người
anh em của Đức Giêsu’’ (Gl 1,19) và là tác giả lá thư Gia-cô-bê hay không? Khoa
Thánh Kinh ngày nay vẫn còn nghi ngờ; nhưng phụng vụ Rô-ma lại có sự đồng hóa
và xác nhận.
Nếu đúng như phụng vụ Rô-ma xác định, thì Gia-cô-bê, “người
anh em của Chúa’’, cũng có nghĩa là người bà con xa gần với Chúa, giữ một vai
trò lãnh đạo trong cộng đoàn Giêrusalem; trong công đồng tiên khởi tại
Giêrusalem đã quyết định điều quan trọng về vấn đề cho người ngoại giáo gia nhập
Kitô giáo, mà không cần phải thông qua Do Thái Giáo, tức là không cần chịu phép
Cắt Bì (Cv 15,13-21). Theo truyền thuyết, ngài bị dân Do Thái ném đá đến chết
vào năm 62 tại Giêru-salem (Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư thánh)
A. Hạt giống...
Đoạn Tin Mừng này gồm hai mặc khải chứa đựng trong hai câu
trả lời của Đức Giêsu cho hai câu hỏi của Tôma và Philipphê:
1. Câu hỏi của Tôma: “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm
sao chúng con biết đường?” (c 5)
- Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” àChúa Giêsu là đường dẫn tới
Chúa Cha, tức là dẫn tới nguồn sự thật và sự sống.
2. Câu xin của Philipphê: “Xin Thầy tỏ cho chúng con thấy
Chúa Cha. Như thế là chúng con mãn nguyện”.
- Chúa Giêsu đáp: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” à Chúa
Giêsu là mặc khải rõ ràng và cụ thể nhất về Chúa Cha.
Trong đoạn Tin Mừng này Chúa Giêsu cũng mặc khải thêm một số
điểm quan trọng khác nữa:
- Về năng lực của đức tin: “Ai tin vào Thầy thì người đó
cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa,
bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha”.
- Về hiệu quả của lời cầu xin nhân danh Chúa Giêsu: “Bất cứ
điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin thì Thầy sẽ làm”.
B.... nẩy mầm.
1. “Thầy là đường”:
- Sống là đi, đời là hành trình. Nhưng nhiều khi người ta
không thấy đường để đi, bởi thế người ta sống bồng bềnh nổi trôi không định hướng.
Ngay cả một số tín hữu, thậm chí một số người tu mà đôi khi cũng rơi vào tình
trạng hoang mang không biết mình phải đi đâu. Đó là vì họ không biết hay có biết
nhưng đã quên lời Chúa Giêsu “Thầy là đường”. Hãy đi theo Chúa Giêsu, bởi vì,
như lời Thánh Phêrô thố lộ, “Bỏ Thầy con biết theo ai?”
- Nhiều người cũng muốn hành trình đi đến Thiên Chúa, đi đến
sự sống. Tuy nhiên họ đi mãi mà không tới nơi, có khi còn đi lạc. Tại vì họ đi
theo con đường riêng của họ chứ không theo con đường Chúa Giêsu.
2. “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu?”: Không ai
đến được với Cha mà không qua Thầy”: Thế nhưng dù đã đi theo Chúa, ta không
tránh khỏi nhiều lúc cảm thấy lo âu không biết Ngài sẽ dẫn mình đến đâu. Chúa
Giêsu nói “Thầy là đường, là sự thất và là sự sống”. Theo Ngài, chắc chắn chúng
ta sẽ tới nguồn sự thật và nguồn sự sống. Vì thế ta nên phó thác đời mình cho
Ngài dẫn dắt: “Chúa là mục tử… Ngài dẫn tôi tới đồng cỏ xanh, bóng mát, nước
trong…”
3. “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha”: mong ước
của Thánh Philipphê cũng là mong ước của mọi người tin thờ Thiên Chúa. Đã tin
thờ Đấng nào thì dĩ nhiên người ta muốn thấy Đấng ấy.
Chúa Giêsu hiểu được mong ước ấy và đáp ứng mong ước ấy: “Ai
thấy Thầy là Thấy Chúa Cha”. Chúa Giêsu là mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa. Muốn
biết Thiên Chúa là ai, muốn hiểu Thiên Chúa là thế nào, ta hãy nhìn vào Chúa
Giêsu, hãy suy gẫm những đoạn Tin Mừng viết về Ngài, hãy chiêm ngưỡng Ngài…
4. “Ai tin vào Thầy, người đó sẽ làm được những điều Thầy
làm”. Những việc Chúa Giêsu đã làm là gì? Là giảng dạy, là chữa bệnh, là cứu độ…
nhưng quan trọng nhất là thi hành ý Chúa Cha (Ga 4,34: “Lương thực của Thầy là
thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy”.
Trong những việc ta làm, không việc gì quan trọng cho bằng
những việc làm theo thánh ý Thiên Chúa. Nhưng làm theo thánh ý Thiên Chúa không
phải là một điều dễ. Muốn làm được như thế, hãy tin vào Chúa Giêsu: “Ai tin vào
Thầy, người đó sẽ làm được những điều Thầy làm”.
5. “Bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin thì Thầy sẽ
làm”: Có lẽ nhiều điều ta xin mà không được là vì ta không xin nhân danh Chúa
Giêsu.
6. Con đường: Người kia kể lại giấc mơ khủng khiếp như sau:
Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào trong tôi thấy hai
hành lang với hai hàng chữ ”Bên phải dành cho người công giáo; bên trái dành
cho kẻ ngoại”. Tôi đi theo hàng lang bên phải. Đi được một lúc tôi tới ngã rẽ
khác, lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau ”Bên phải dành cho người có đức
tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém”. Tôi lại đi theo bên phải.
Đến một ngã rẽ khác, tôi loại thấy bảng chỉ dẫn ”Bên phải dành cho những người
có lòng bác ái, bên trái dành cho những kẻ ích kỷ”. Tôi lại chạy qua bên phải.
Cuối cùng tôi gặp bảng chỉ dẫn ”Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh
thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi”. Một lần nữa, tôi chọn bên phải. Tôi
đang hân hoan rảo bước thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp hiện ra ở
cuối hành lang ấy: cảnh hỏa ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào tả xiết.
Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức dậy. Sau một phút, tôi tự hỏi” Phải
chăng cuộc sống đạo của tôi cũng chỉ là một giấc mơ hãi hùng?” (Trích ”Món quà
giáng sinh”)
7. “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9)
Xem phim “Chú bé tài năng”, nhiều phen tôi đã phải thót tim
lại trước những trắc trở trên đường chuyển những bản tin của chú, và cảm thấy
tim như giãn ra khi chú thành công.
Trong những chuyện Lịch Sử nước Việt, tôi rất thán phục những
vị sứ giả đã khéo léo dùng tài trí của mình để tỏ bày lập trường cương quyết của
triều đình trước những kẻ xâm lăng.
Đọc Tin Mừng thánh Gioan, tôi đắm mình trong mầu nhiệm làm
con của Đức Giêsu, một người con luôn hướng về Cha, lưu lại trong Cha, hiệp nhất
với Cha, để không chỉ nói điều Cha muốn, mà còn tỏ lộ cách trung thực chính
dung mạo của Cha qua đời sống của mình.
Mở lại trang sử đời tôi, một kitô hữu, tôi chợt thấy ngỡ
ngàng!
Lạy Chúa, xin cho con biết sống như Thánh Phaolô: “Tôi sống,
nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Epphata)
8. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga
14,6)
“Từ ngày 6.2 (29 Tết) đến nay, trung tâm nhận 14 ca tự tử,
giảm 10 ca so với cùng kỳ năm trước. Chỉ riêng trong ngày 12.2 có 5 ca tự tử.
Con số tự tử của năm 1996 là 730 ca trong đó có 10 ca không cứu sống được…
Nguyên nhân chủ yếu là gặp những bế tắc trong cuộc sống (thất tình, buồn chán
gia đình, bệnh tật…) Họ cảm thấy chỉ còn một lối thoát là tự kết liễu cuộc đời”
(Báo NLĐ)
Khủng hoảng trần trọng nhất của xã hội ngày nay phải chăng
là cuộc khủng hoảng về ý nghĩa của cuộc sống? Con người sinh ra để làm gì? Con
người sẽ đi về đâu? Đâu là ý nghĩa và giá trị của cuộc sống? Đó là những vấn nạn
mà tôi thường hay tự mình đặt ra khi gặp những đau khổ, những mâu thuẫn trong
cuộc sống.
Tôi chỉ lấy lại được sự bình an khi đối diện với Chúa, đặt
trọn niềm tin nơi Ngài, và xác tín rằng Ngài chính là con đường, là sự thật và
là sự sống.
Lạy Chúa, xin cho con luôn hiểu và cảm nghiệm được Chúa
chính là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của con. (Epphata)
Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
Chú giải về 1 Cô-rinh-tô 15,1-8; Thánh Vịnh 18; Gio-an 14:6-14
Bài đọc Phúc âm có sự xuất hiện cuối cùng của Phi-líp-phê trong tường thuật Phúc âm. Sự
xuất hiện này xảy ra trong tường thuật dài về Bữa Tiệc Ly của Gio-an, nơi Chúa
Giê-su nói chuyện dài dòng với các tông
đồ của mình. Họ hẳn đã ở trong trạng thái bối rối, biết rằng kẻ thù của Chúa
Giê-su thực tế đang ở ngoài cửa chờ đợi để tiêu diệt Người. Ngay cả vào thời điểm
muộn màng này, vẫn còn nhiều phần trong lời dạy của Chúa Giê-su mà họ không hiểu.
Chúa Giê-su, người sắp rời xa họ, vừa nói với họ đừng lo lắng,
vì Người đang chuẩn bị một nơi để họ và Người sẽ ở cùng nhau. Người nói với họ:
Và các ngươi biết đường
đến nơi Ta sẽ đến. (Gio-an 14,4)
Tô-ma, người hay càu nhàu, xen vào:
Lạy Chúa, chúng con
không biết Chúa sẽ đi đâu. Làm sao chúng con biết đường? (Gio-an 14,5)
Bây giờ, tiếp tục từ Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu nhẹ nhàng
trả lời:
Ta là đường đi, là sự
thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Ta.
Có lẽ chúng ta nên biết ơn Tô-ma khó tính vì đã gợi ra một câu trả lời đẹp đẽ và ý nghĩa như vậy
từ Chúa Giêsu. Ngài không chỉ là một con đường; Ngài là Con Đường. Không có con
đường nào khác đến với Chúa ngoài con đường qua Ngài và với Ngài—vì lý do đơn
giản là Ngài là Ngôi Lời của Chúa; Ngài là Chúa được thể hiện qua bản chất con
người. Vậy thì, trở nên giống Chúa Giêsu là trở nên giống Chúa qua nhân tính của
chúng ta. Đây không chỉ là điều dành cho những người theo đạo Thiên Chúa; mà
đơn giản là Con Đường dành cho mọi con người muốn sống một cuộc sống thực sự có
ý nghĩa.
Sau đó, Chúa Giêsu giải thích ý nghĩa của những gì Người vừa
nói:
Nếu các con biết Ta,
các con cũng sẽ biết Cha Ta. Từ bây giờ, các con biết Người và đã thấy Người.
Nhưng điều này hơi quá đối với Philip, người đã cầu xin:
Lạy Chúa, xin chỉ cho
chúng con thấy Chúa Cha, và chúng con sẽ được thỏa mãn.
Người ta gần như có thể nghe thấy tiếng thở dài trong giọng
nói của Chúa Giêsu khi Người trả lời:
Ta đã ở với các con bấy
lâu nay, Phi-líp-phê, mà con vẫn chưa biết Ta sao? Ai đã thấy
Ta tức là đã thấy Cha. Làm sao con có thể nói, ‘Xin chỉ cho chúng con thấy
Cha’?
Câu trả lời của Chúa Giêsu chỉ đơn giản là một cách khác để
nói rằng Người là Con Đường. Biết được ý nghĩa bên trong cuộc đời của Chúa
Giêsu và biến nó thành của riêng mình là biết Cha vì Chúa Giêsu là hiện thân,
là sự nhập thể của Chúa Cha
trong hình hài con người. Một lần nữa, chúng ta biết ơn Phi-líp-phê vì câu hỏi của ông.
Và đó là lần xuất hiện cuối cùng của Phi-líp-phê trong Phúc âm. Gia-cô-bê, con trai của
An-phê, cũng không xuất hiện nữa.
Tuy nhiên, tấm gương của hai người đàn ông này trong số mười
hai viên đá nền tảng mà công trình của Chúa Giêsu sẽ được xây dựng và phát triển
nên là bài học cho chúng ta về cách Chúa có thể thực hiện các kế hoạch của Người
bằng những vật liệu có vẻ khá kém cỏi. Bằng cách rao giảng Phúc âm ở khắp mọi
nơi (xem Mác-cô 16,20), các Tông đồ đã gieo hạt giống cho một cộng
đồng toàn cầu mà “các cửa địa ngục” sẽ không thắng thế. Đây là thông điệp gửi đến
mỗi người chúng ta rằng, bất kể chúng ta có hay không có tài năng, chúng ta đều
được kêu gọi chỉ cho người khác Con Đường là Chân Lý và Sự Sống.
Phaolô, người đã làm rất nhiều để gieo trồng Phúc Âm ở rất
nhiều nơi, cũng nhận thức rõ về những điểm yếu của chính mình và thậm chí đã cầu
nguyện để thoát khỏi chúng. Ông kể với chúng ta rằng nhiều lời cầu nguyện của
ông đã được đáp lại khi ông nhận thức được:
Tôi bằng lòng với những
yếu đuối, sỉ nhục, gian khổ, bắt bớ và tai ương vì Chúa Kitô, vì bất cứ khi nào
tôi yếu đuối, thì đó là lúc tôi mạnh mẽ. (2 Cô-rinh-tô 12,10)
Trong Bài đọc thứ nhất trích từ Thư thứ nhất gửi tín hữu
Cô-rinh-tô, Phaolô nói về ơn gọi làm Tông đồ của mình. Ông muốn các Kitô hữu ở
Cô-rinh-tô ghi nhớ sứ điệp mà ông đã rao giảng cho họ và đức tin Kitô giáo của
họ dựa trên đó. Đó là đức tin sẽ mang lại cho họ sự cứu rỗi và sự sống bất tận.
Phaolô nhấn mạnh mạnh mẽ rằng ông không rao giảng sứ điệp của riêng mình, mà là
những gì ông nhận được từ Chúa Giêsu Kitô, Lời của Thiên Chúa.
Bản chất của sứ điệp đó là Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi của
chúng ta, rằng Người đã được chôn cất và sống lại ba ngày sau đó và cuối cùng,
sau khi phục sinh, Người đã hiện ra với Phêrô và tất cả các Tông đồ. Sau đó,
Ngài hiện ra với 500 môn đồ, một số người đã chết, rồi hiện ra với Gia-cô-bê (người mà chúng ta đang mừng
lễ hôm nay) và tất cả các Tông đồ còn lại. Cuối cùng, Phao-lô nói,
Ngài hiện ra với chính Phao-lô,
như với một người sinh ra ngoài ý muốn. Suy cho cùng, Phao-lô đã là một kẻ bắt bớ dữ dội những
người theo Chúa Kitô và là người cuối cùng mà người ta mong đợi trở thành một
Tông đồ.
Nhờ tất cả những người này mà thông điệp của Chúa Kitô và
Phúc âm của Người đã đến được với chúng ta, và điều đó nhắc nhở chúng ta rằng
chúng ta cũng có cùng nghĩa vụ truyền bá Tin Mừng của Chúa Kitô cho những người
khác nếu họ muốn chia sẻ trải nghiệm đặc ân mà chúng ta đã có.
https://livingspace.sacredspace.ie/f0503r/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét