04/05/2025
CHÚA NHẬT
3 PHỤC SINH năm C
Bài Ðọc I: Cv 5, 27b-32. 40b-41
“Chúng tôi là chứng nhân các lời đó cùng với Thánh Thần”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, thầy thượng tế hỏi các tông đồ rằng:
“Ta đã ra lệnh cấm các ngươi nhân danh ấy mà giảng dạy. Thế mà các ngươi đã giảng
dạy giáo lý các ngươi khắp cả Giêrusalem; các ngươi còn muốn làm cho máu người
đó lại đổ trên chúng tôi ư?” Phêrô và các tông đồ trả lời rằng: “Phải vâng lời
Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta. Thiên Chúa cha ông chúng ta đã cho Ðức
Giêsu sống lại, Ðấng mà các ông đã giết khi treo Người trên thập giá. Thiên
Chúa đã dùng quyền năng tôn Ngài làm thủ lãnh và làm Ðấng Cứu Ðộ, để ban cho
Israel được ăn năn sám hối và được ơn tha tội. Chúng tôi là nhân chứng các lời
đó cùng với Thánh Thần, Ðấng mà Thiên Chúa đã ban cho mọi kẻ vâng lời Người!” Họ
ra lệnh đánh đòn các tông đồ và tuyệt đối cấm không được nhân danh Ðức Giêsu mà
giảng dạy nữa, đoạn tha các ngài về. Vậy các ngài ra khỏi công nghị, lòng hân
hoan vì thấy mình xứng đáng chịu sỉ nhục vì Danh Ðức Giêsu.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5 và 6. 11 và 12a và 13b
Ðáp: Lạy
Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Lạy Chúa,
con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy
Chúa, Ngài đã đưa linh hồn con thoát xa Âm phủ, Ngài đã cứu con khỏi số người
đang bước xuống mồ.
Xướng: Các
tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Chúa, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận
của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời.
Chiều hôm có gặp cảnh lệ rơi, nhưng sáng mai lại được mừng vui hoan hỉ.
Xướng: Lạy Chúa,
xin nhậm lời và xót thương con, lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã
biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; lạy Chúa là Thiên Chúa của con,
con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời.
Bài Ðọc II: Kh 5, 11-14
“Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận quyền năng,
…vinh quang và lời chúc tụng”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, đã thấy và nghe tiếng các thiên thần đông đảo
vòng quanh ngai vàng, tiếng các sinh vật và các vị kỳ lão; số họ đông hằng ngàn
hằng vạn, họ lớn tiếng tung hô rằng: “Chiên Con đã bị giết, xứng đáng lãnh nhận
quyền năng, phú quý, khôn ngoan, sức mạnh, danh dự, vinh quang và lời chúc tụng”.
Tôi lại nghe mọi thọ tạo trên trời, trên đất, dưới đất, trên biển và dưới biển,
tung hô rằng: “Chúc Ðấng ngự trên ngai và chúc Chiên Con được ca tụng, danh dự,
vinh quang, quyền năng đến muôn đời”. Bốn sinh vật thưa: “Amen”, và hai mươi bốn
vị kỳ lão sấp mặt xuống và thờ lạy Ðấng hằng sống muôn đời.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 27
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe tiếng
Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 21, 1-14 {hoặc 1-19}
“Chúa Giêsu đến, cầm bánh và cá trao cho họ ăn”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại
hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: “Simon-Phêrô, Tôma (cũng gọi là Ðiđymô),
Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ khác nữa
đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: “Tôi đi đánh cá đây”. Các ông kia nói rằng:
“Chúng tôi cùng đi với ông”. Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông
không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển,
nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: “Này các con, có gì
ăn không?” Họ đồng thanh đáp: “Thưa không”. Chúa Giêsu bảo: “Hãy thả lưới bên hữu
thuyền thì sẽ được”. Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy
cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: “Chính Chúa đó”. Simon
Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển.
Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất
bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và
bánh. Chúa Giêsu bảo: “Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây”. Simon Phêrô
xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm
mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách. Chúa Giêsu bảo rằng:
“Các con hãy lại ăn”. Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi “Ông là ai?”, vì mọi
người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người
cũng cho cá như thế. Ðây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ
khi Người từ cõi chết sống lại.
[Vậy khi các Ngài đã điểm tâm xong, Chúa Giêsu hỏi
Simon Phêrô rằng: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy hơn những người
này không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo
ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người lại hỏi: “Simon, con ông
Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy: Có, Thầy biết con yêu mến
Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt các chiên con của Thầy”. Người hỏi ông
lần thứ ba: “Simon, con ông Gioan, con có yêu mến Thầy không?” Phêrô buồn phiền,
vì thấy Thầy hỏi lần thứ ba: “Con có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy,
Thầy biết mọi sự: Thầy biết con yêu mến Thầy”. Người bảo ông: “Con hãy chăn dắt
các chiên mẹ của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho con biết: khi con còn trẻ, con tự
thắt lưng lấy và đi đâu mặc ý, nhưng khi con già, con sẽ giang tay ra, người
khác sẽ thắt lưng cho con và dẫn con đến nơi con không muốn đến”. Chúa nói thế
có ý ám chỉ Phêrô sẽ chết cách nào để làm sáng danh Thiên Chúa. Phán những lời ấy
đoạn, Người bảo ông: “Con hãy theo Thầy”.]
Ðó là lời Chúa.
Chú giải về Tông Đồ Công vụ 5,27-32.40-41; Khải
huyền 5,11-14; Gioan 21,1-19
Chúng ta tiếp tục xem xét kinh nghiệm mà các tông đồ có được về Chúa Giêsu Phục sinh.
Các bài đọc hôm nay nói về ý nghĩa của việc làm môn đệ trong cả thái độ nội tâm
và trong mối quan hệ của chúng ta với người khác. Phúc âm và, ở một mức độ nào
đó, Bài đọc thứ hai nói về việc nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và Chúa
Giêsu trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta trong khi Bài đọc thứ hai cũng kêu
gọi chúng ta làm chứng cho đức tin của mình một cách nhất quán và can đảm. Hai
điều này liên kết với nhau. Để trở thành một môn đệ đích thực của Chúa Giêsu,
không chỉ cần 'thánh thiện' và tốt lành là đủ, mà còn phải có lòng can đảm, khi
được gọi, để làm những điều khó khăn và thậm chí có thể chịu đau khổ. Khi chia
sẻ nỗi đau khổ của Chúa Giêsu, chúng ta cũng chia sẻ vinh quang của Người.
Quay lại với những cách cũ?
Trước tiên, chúng ta hãy xem xét Phúc âm, trong đó Chúa
Giêsu Phục sinh đã mặc khải chính mình cho các tông đồ của Người. Chúa Giêsu, một vài ngày trước đó, đã chết trên
Thập giá. Những người theo Người, bao gồm cả Phêrô, người đã có những lời tuyên
bố trung thành lớn lao, đã bỏ trốn. Đối với họ, mọi chuyện đã kết thúc và bản
thân họ đang gặp nguy hiểm. Phúc âm hôm nay ngụ ý rằng họ đã rời khỏi
Giêrusalem và quay trở lại Galilê quê hương để tiếp tục cuộc sống đánh cá trước
đây của họ. Ba năm trước là khoảng thời gian xen kẽ thú vị và thậm chí là phấn
khích trong cuộc sống của họ, nhưng giờ đây họ lại quay trở lại với công việc
mà họ vẫn luôn làm.
Lúc đó là sáng sớm. Tất cả họ đều mệt mỏi và thất vọng. Sau
cả một đêm đánh cá, họ chẳng bắt được con cá nào. Họ đã quên mất lời Chúa
Giêsu, người đã nói:
…ngoài Thầy ra, các
con chẳng làm được gì. (Gioan
15,5)
Đột nhiên, một người lạ trên bờ, có lẽ là một hình bóng mờ
nhạt trong ánh sáng mờ nhạt của buổi sáng, bắt đầu cuộc đối thoại với họ:
Các con ơi, các con
không có cá sao?
Những người đánh cá (và các bạn biết những người đánh cá như thế nào!) miễn cưỡng thừa nhận rằng
họ chẳng bắt được con cá nào. Sau đó, họ được bảo:
Hãy thả lưới xuống bên
phải thuyền, và các ngươi sẽ tìm thấy một số.
Họ đã làm như vậy và họ đã bị choáng ngợp. Có quá nhiều cá đến
nỗi họ không thể đưa chúng vào thuyền.
Khoảnh khắc sáng suốt
Vào thời điểm đó, người môn đồ mà Chúa Giêsu yêu, đọc được ý
nghĩa của những gì vừa xảy ra, đã kêu lên:
Đó là Chúa!
Ông nói điều này, không phải vì ông đột nhiên nhận ra khuôn
mặt của người lạ trên bờ, mà vì ông đã nhận ra bàn tay của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu trong những gì
vừa xảy ra. (Cũng chính người môn đệ này, sau khi nhìn vào ngôi mộ trống vào
sáng Phục sinh, đã "thấy và tin". Sự sắp xếp của các tấm vải liệm cho
ông biết điều gì đó mà Phêrô không nhận ra.)
Theo truyền thống, "người môn đồ mà Chúa Giêsu
yêu" được xác định là Gioan.
Nhưng trong bối cảnh Phục sinh này, có thể hiểu đặc biệt là ám chỉ bất kỳ ai có
mối quan hệ thân thiết với Chúa Giêsu. Trong biểu tượng của các sách Phúc âm,
con thuyền và những người trên đó tượng trưng cho Giáo hội, cộng đồng trong
Chúa Kitô. Và chính ‘người môn đồ được yêu’ này, người đặc biệt gần gũi với
Chúa Giêsu, là người có thể
nhận ra sự hiện diện của Người.
Phê-rô và
những người khác giờ đây cũng nhận ra rằng Chúa Giêsu đang hiện diện. Và, hoàn toàn theo tính cách, Phê-rô nóng nảy nhảy xuống vùng nước nông để
đến với Chúa Giêsu. Nhưng
không phải trước khi mặc quần áo, vì ông đang trần truồng. Trong hoàn cảnh đó,
điều này khá bình thường, và có lẽ không ai trong số những người khác mặc quần
áo. Nhưng trong hoàn cảnh của Phê-rô,
nó có ý nghĩa khác. Sự trần truồng ngụ ý sự vô tội, nhưng Phê-rô không vô tội. Ông vẫn còn cái bóng của
sự chối bỏ của mình treo lơ lửng trên đầu. Giống như tổ tiên đầu tiên của chúng
ta trong vườn, ông bị bao phủ bởi tội lỗi đáng xấu hổ trước sự hiện diện của
Chúa mình. Phải đến khi họ lên bờ, ông mới hoàn toàn hòa giải với Chúa Giêsu mà ông đã phản bội. Trong khi
đó, các môn đồ khác phải ở lại để mang thuyền và lứa cá vừa đánh bắt vào.
Chia sẻ bánh với Chúa
Khi họ lên bờ, họ thấy người lạ-Chúa đang chuẩn bị bữa ăn gồm
bánh và cá nướng cho họ. Ngài bảo họ:
Hãy mang một ít cá mà
các ngươi vừa mới bắt được đến đây.
Cá mà “các ngươi” đã bắt được? Đúng, họ đã kéo chúng vào,
nhưng nếu không có Chúa, họ sẽ không bao giờ tìm thấy chúng, bởi vì một lần nữa:
…ngoài ta, các ngươi
chẳng làm gì được. (Gioan
15,5)
Có tất cả các yếu tố của Bí tích Thánh Thể ở đây. Họ đang ở
trong sự hiện diện của Chúa Giê-su, Ngôi Lời của Chúa, và lắng nghe Ngài nói
“Hãy đến và ăn sáng”, không khác gì những gì Ngài đã nói với họ trong Bữa Tiệc
Ly với họ:
…hãy cầm lấy, ăn đi;
đây là mình ta… (Mát-thêu
26,26)
Họ và Ngài đang chia sẻ những gì họ có và ăn uống trong sự
hiệp nhất và cộng đồng. Đây là một cảnh tượng đơn giản, nhưng lại là một bức
tranh tuyệt đẹp về Giáo hội.
Ngài là ai?
Đồng thời, có một điều có vẻ là một bình luận kỳ lạ:
Bây giờ không một môn đồ nào dám hỏi Ngài: “Ngài là ai?” vì
họ biết đó là Chúa.
Đây là điều họ phải học. Chúa Giêsu Phục sinh không còn
trông giống như trước nữa. Bây giờ Người mang nhiều hình dạng, nhưng với đức
tin, họ chắc chắn đó là Người.
Từ giờ trở đi, Chúa Giêsu có nhiều khuôn mặt—bạn bè tôi, kẻ
thù tôi, người hàng xóm giàu có của tôi, người hàng xóm nghèo của tôi. Người đặc
biệt được tìm thấy và nhận ra nơi những người nghèo, người bị bóc lột, người
tàn tật, người yếu đuối, người thất học, người lạ và người nước ngoài. Chúa
Giêsu có khuôn mặt của người Do Thái, khuôn mặt của người Trung Quốc, khuôn mặt
của người Ấn Độ, khuôn mặt của người Philippines, khuôn mặt của người Nigeria,
khuôn mặt của người Ả Rập và khuôn mặt của người Mỹ—thật vậy, khuôn mặt của những
người thuộc mọi chủng tộc, dân tộc và văn hóa trên khắp thế giới.
Bài thánh ca ngợi Đấng Tạo Hóa
Giống như các tông đồ, chúng ta cũng phải nhận ra Người,
không chỉ trong những khoảnh khắc đặc ân của những trải nghiệm tâm linh cao cả,
mà còn trong những khoảnh khắc trần tục nhất của công việc hàng ngày của chúng
ta. Khi làm như vậy, chúng ta chỉ đơn giản là trở nên một với toàn thể tạo vật,
mà bản thân sự tồn tại của nó là một bài thánh ca dành cho Đấng Tạo Hóa, như được
diễn tả trong Bài đọc thứ hai hôm nay:
Bấy giờ, tôi nghe mọi
loài thọ tạo trên trời, dưới đất, dưới lòng đất, dưới biển và mọi loài trong
đó, hát rằng:
“Xin cho Đấng ngự trên
ngai và Chiên Con được chúc tụng, danh dự, vinh quang và quyền năng
đến muôn đời!”
Vì ‘người môn đệ yêu dấu’ là người đầu tiên nhận ra Chúa
trong người lạ mờ ảo, nên chúng ta cũng sẽ được Chúa Giêsu chỉ ra cho chúng ta
trong cuộc sống của chính mình. Cũng vậy, chúng ta có trách nhiệm giúp người
khác nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu đang hoạt động trong những trải nghiệm
hàng ngày của họ. Điều này có thể có tác dụng giải phóng như vậy đối với mọi
người và đây là một hình thức truyền giáo thực sự mà bất kỳ ai cũng có thể làm
được.
Trở thành Chúa Kitô vì người khác
Tuy nhiên, chúng ta còn phải thực hiện thêm một bước nữa.
Trong cuộc sống của chính mình, việc nhận thức được sự hiện diện của Chúa giữa
chúng ta là chưa đủ. Sự nhận thức đó đòi hỏi một phản ứng từ phía chúng ta để
biến sự hiện diện đó thành một thực tế được cảm nhận, một trải nghiệm chân thực
cho cả những người xung quanh chúng ta nữa. Các tông đồ không thể chỉ ở trong
phòng trên lầu tận hưởng niềm vui khi biết rằng Chúa Giêsu, Chúa và bạn của họ, đã sống lại. Cuộc
gặp gỡ của họ trên bờ hồ khiến họ nhận ra rằng họ không còn có thể quay lại
thuyền và sống cho chính mình nữa.
Bù đắp
Và thế là, sau bữa ăn với Chúa Giêsu, chúng ta có cảnh cảm động
giữa Người và Phêrô. Trong một cuộc đối thoại, cảnh này kết hợp hai điều. Một mặt,
có sự hòa giải giữa Chúa Giêsu và Phêrô. Bất chấp mọi lời tuyên bố trong Bữa Tiệc
Ly về việc Người trung thành hơn tất cả những người khác, chỉ có Phêrô và một
mình Phêrô đã thề ba lần chối rằng Người không liên quan gì đến Chúa Giêsu. Bây
giờ, theo cách nhẹ nhàng nhất, Chúa Phục Sinh hỏi Người:
Simon, con ông Gioan,
con có yêu mến Thầy hơn những người này không?
Phêrô đã học được bài học của mình—sự khoe khoang đã biến mất.
Ông không dám so sánh mình với các môn đồ khác. Bây giờ, ông chỉ nói cho chính
mình:
Vâng, lạy Chúa; Chúa
biết rằng con yêu Chúa.
Ba lần ông được hỏi cùng một câu hỏi, giống như ba lần ông
đã chối Chúa. Điều đó làm ông đau lòng, và cuối cùng ông nói:
Lạy Chúa, Chúa biết mọi
sự; Chúa biết rằng con yêu Chúa.
Một khoảnh khắc đặc biệt
Và tất nhiên, điều đó là sự thật. Điều đó luôn đúng, ngay cả
khi vì sợ cho sự an toàn của chính mình, ông đã chối Chúa Giêsu. Lúc đó, ông đã
khóc lóc thảm thiết khi nhận ra mình đã phản bội người bạn thân nhất. Một số tội
lỗi là sự chối bỏ hoàn toàn Thiên Chúa và có nghĩa là quay lưng lại một cách dứt
khoát. Có lẽ Giuđa cũng giống như vậy. Nhưng hầu hết tội lỗi của chúng ta là những
khoảnh khắc yếu đuối và không đại diện cho sự quay lưng thực sự. Việc chúng ta
đi xưng tội là bằng chứng đủ cho điều đó.
Tuy nhiên, cuộc đối thoại không chỉ là khoảnh khắc hòa giải.
Đó cũng là sự trao lại cây gậy chỉ huy. Bây giờ, Chúa Giêsu trao lại cho Phêrô
và các bạn đồng hành của ông sứ mệnh mà chính Người đã được Chúa Cha giao phó:
"Hãy chăn dắt chiên của Ta". Đây là trách nhiệm của Giáo hội và, với
tư cách là thành viên của Giáo hội đó, một trách nhiệm nằm ở các mức độ khác
nhau của mỗi người chúng ta. Không chỉ các giám mục, linh mục hay tu sĩ có
trách nhiệm này. Đó cũng là trách nhiệm của cha mẹ, giáo viên và đơn giản nhất
là chính chúng ta, với tư cách là anh chị em với nhau.
Trở lại Jerusalem
Bây giờ, các tông đồ phải quay trở lại Jerusalem, nơi họ bắt
đầu công bố cuộc sống, lời nói, hành động, đau khổ, cái chết và sự sống lại của
Chúa Giêsu có ý nghĩa gì đối với họ và đối với mọi người khác. Chúng ta thấy điều
này được ghi lại trong Bài đọc thứ nhất từ Công vụ Tông đồ. Niềm vui mà họ
có, ý nghĩa mới đã đến với cuộc sống của họ vì cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, chỉ
đơn giản là phải được chia sẻ với người khác.
Tuy nhiên, đó là một thông điệp mà không phải ai cũng muốn
nghe. Trên thực tế, họ đã được các nhà lãnh đạo dân sự và tôn giáo cảnh báo phải
dừng lại những gì họ đang làm. Nhưng họ không thể dừng lại vì họ được hướng dẫn
bởi một điều gì đó sâu sắc hơn thẩm quyền của con người, thẩm quyền của Chân lý
và Tình yêu của Thiên Chúa. Ngay cả khi họ bị bắt, bị trừng phạt và bị cầm tù,
họ cũng không thể dừng lại. Ngược lại, những vết sẹo do đòn roi của họ đã trở
thành huy hiệu của lòng tự hào vì họ đã chia sẻ sự sỉ nhục và đau khổ của Chúa
Giêsu, Chúa của họ.
Một thông điệp không được ưa chuộng
Nếu chúng ta thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu, nếu chúng ta
muốn tuyên xưng đức tin của mình một cách trọn vẹn, chúng ta có thể mong đợi rằng
chúng ta sẽ bị hiểu lầm, rằng chúng ta có thể bị thương hại hoặc khinh thường,
và rằng một số người có thể muốn loại bỏ chúng ta - thậm chí là bạo lực. Hàng
ngàn anh chị em của chúng ta, ở nhiều nơi trên thế giới và trong chính cuộc đời
của chúng ta, đã có trải nghiệm này. Họ không hối tiếc về điều đó. Nhờ họ,
thông điệp của Chúa Kitô, thông điệp của Chân lý và Tình yêu, vẫn sống mãi.
Một lời cầu nguyện để sống
Có lẽ chúng ta có thể kết thúc bằng lời cầu nguyện của Đức Hồng
y John Henry Newman (đã được điều chỉnh đôi chút), diễn đạt một cách tuyệt đẹp
những gì chúng ta đã cân nhắc:
Lạy Chúa Giêsu,
Xin giúp con lan tỏa
hương thơm của Chúa ở khắp mọi nơi con đến.
Xin tràn ngập tâm hồn
con bằng tinh thần và sự sống của Chúa.
Xin thấm nhuần và chiếm
hữu toàn bộ con người con một cách trọn vẹn
để toàn bộ cuộc sống
con chỉ là sự tỏa sáng của Chúa.
Xin chiếu sáng qua con
và ở trong con
để mọi người con tiếp
xúc
sẽ cảm nhận được sự hiện
diện của Chúa trong con.
Xin cho họ ngước nhìn
lên và thấy,
không chỉ con, mà còn
cả Chúa Giêsu.
https://livingspace.sacredspace.ie/ec031/
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội
Những bài đọc của phần phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ Chúa
Nhật thứ ba phục sinh hướng những suy tư của chúng ta về vận mệnh tương lai của
Giáo Hội, cộng đoàn những kẻ tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Rỗi. Vận mệnh
tương lai của Giáo Hội Chúa được xây dựng trên nền tảng là niềm tin vào Chúa
Giêsu Kitô phục sinh, Đấng cứu rỗi duy nhất của tất cả mọi người, là sự dấn
thân của con người cộng tác với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, để làm chứng
cho Chúa và thông truyền cho anh chị em mình những sự thật có sức cứu rỗi, trao
ban ơn tha tội, giải hòa con người với Thiên Chúa và với nhau.
Nơi bài đọc thứ nhất từ sách Tông Đồ Công Vụ, chúng ta nhìn
thấy các tông đồ đã sống thái độ vừa nói trên. Bị những vị lãnh đạo đầy uy quyền
nhưng không tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng cứu rỗi, bị những vị lãnh đạo uy
quyền này của dân Do Thái ngăn cấm không được lên tiếng làm chứng Chúa Giêsu
Kitô Phục Sinh, không được rao giảng sự thật của Chúa. Thánh tông đồ Phêrô đã mạnh
dạn trả lời: "Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời loài người. Thiên
Chúa, Cha chúng ta đã cho Chúa Giêsu sống lại. Đấng mà các ông đã giết chết bằng
cách đóng đinh trên thập giá, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người bên hữu Ngài và
làm cho Người trở thành thủ lãnh và là Đấng Cứu Thế, để ban cho dân Israel ơn
ăn năn trở lại và sự tha thứ các tội lỗi. Về tất cả những điều này, chúng tôi
và Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa Cha đã ban cho tất cả những ai tuân phục Chúa,
chúng tôi và Chúa Thánh Thần cùng làm chứng."
Vận mệnh tương lai của Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng
của thái độ can đảm này, thái độ sống đức tin, làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô và
sự thật cứu rỗi của Người. "Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng
lời con người", đọc và suy nghĩ về lời này của thánh tông đồ Phêrô trong
hoàn cảnh mà chính thánh nhân và các tông đồ khác lúc đó trải qua, chúng ta hiểu
rõ hơn ý nghĩa của nó. Khi những vị lãnh đạo dân Do Thái, những vị lãnh đạo đầy
uy quyền và họ là những vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái cùng với quyền lãnh đạo
dân Do Thái; Khi những vị lãnh đạo Do Thái này lạm dụng quyền hành của họ để
xen vào việc tôn giáo, việc các tông đồ làm chứng Chúa Kitô Phục Sinh để trao
ban ơn tha tội cho con người, làm chứng cho một sự thật tôn giáo. Khi các vị
lãnh đạo Do Thái lạm dụng quyền hành của mình để xen vào sinh hoạt tôn giáo của
các tông đồ, bắt buộc các ngài phải có một trong hai thái độ hoặc theo Chúa
Giêsu Kitô, hoặc chiều theo sự lạm dụng của các vị lãnh đạo Do Thái, thì lúc
đó, thánh Phêrô đã trả lời mạnh mẽ là ngài và các tông đồ chọn theo Chúa Giêsu
Kitô, chọn vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời con người. Đây là câu trả lời
cho một quyền hành xen mình vào việc tôn giáo chứ không phải là lời kêu gọi dân
chúng nổi loạn chống lại một quyền hành chính trị.
Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ được tự do để rao giảng
Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh, rao giảng sự ăn năn thống hối, sự giải phóng con người
khỏi cảnh nô lệ cho những tội lỗi, những tật xấu, những sự dữ đang làm cho con
người thù ghét nhau, chia rẽ với nhau. Nếu sinh hoạt tôn giáo của các tông đồ
được tôn trọng, nói theo ngôn ngữ ngày nay, được hưởng sự tự do như đáng được,
thì các ngài đâu cần phải xác nhận là phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời
con người.
Làm sao con người có thể chiếm lấy địa vị hoặc thay thế chỗ
của Thiên Chúa được? Trong thâm tâm mỗi người chúng ta hôm nay, trong giây phút
này, làm sao chúng ta có thể nói mình không cần sự tha thứ của Thiên Chúa,
không cần được ơn Chúa giải thoát khỏi những điều xấu, điều tội, để sống đúng
phẩm vị con người, sống như là những con cái của Thiên Chúa, và như là anh chị
em với nhau? Ai trong chúng ta không cần được nâng đỡ và được khuyến khích để sống
trọn vẹn cuộc sống con người, một cuộc sống lãnh nhận từ Thiên Chúa, và cuối
cùng, sau hai mươi năm, ba mươi năm, năm mươi năm, hay một trăm năm, sẽ trở về
lại với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Thái độ của các tông đồ được trình bày trong bài đọc thứ nhất
của thánh lễ Chúa Nhật thứ ba phục sinh đã xây dựng Giáo Hội cho đến ngày nay.
"Chúng tôi và Thánh Thần", không phải riêng tự sức các tông đồ nhưng
là trong sự cộng tác chặt chẽ với Chúa Thánh Thần. Ơn Chúa không thiếu, nhưng
con người chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban hay không?
Bài Phúc Âm cũng kể lại biến cố Chúa hiện ra với các tông đồ
đang bị cám dỗ từ bỏ ơn gọi của mình để trở về với cuộc sống thường nhật trước
khi được Chúa gọi, trở về nghề chài lưới. Chúa đến để củng cố sự dấn thân của họ
và chúng ta biết rõ điều gì đã xảy ra cho các tông đồ. Chúa đến củng cố các
ngài bằng một phép lạ và một bữa ăn. Bữa ăn bổ sức trong tình thân thiết Thầy
trò, để các tông đồ có sức mạnh và niềm vui mà chu toàn sứ mạng đã lãnh nhận.
Bài Phúc Âm hôm nay mang đến cho chúng ta niềm vui mừng và củng cố chúng ta
trong niềm tin tưởng vào Giáo Hội Chúa vì những lý do sau đây:
Chúa Kitô Phục Sinh không từ bỏ các môn đệ, những kẻ cách
này hay cách khác đã vấp ngã trong thử thách Chúa đã trải qua, tức cuộc khổ nạn
và chết của Chúa trên thập giá. Chúa sống lại không quở trách các ông mà ngược
lại đã ban cho các ông bình an và niềm vui: "Bình an cho các con",
như thể Chúa đã nói: "Thầy không chấp những lỗi lầm của các con đã bỏ Thầy,
Thầy tha thứ cho các con, và hơn nữa, ban ơn Thánh Thần để đổi mới các con, cho
các con được kiên vững trong tình yêu Thầy, để luôn luôn có sự bình an giữa sự
thử thách".
Hơn nữa, như trong Phúc Âm ghi lại Chúa Giêsu thực hiện phép
lạ mà chính Chúa đã thực hiện khi kêu gọi các tông đồ lần đầu tiên, phép lạ lưới
được nhiều cá, và làm như vậy, các tông đồ hiểu rằng Chúa Phục Sinh mời gọi họ,
tiếp tục mời gọi họ theo Ngài mặc cho những lỗi lầm của họ. Chúa mời gọi mỗi
người chúng ta đóng góp phần của mình trong Giáo Hội và Chúa không bao giờ từ bỏ
chương trình Ngài đã định.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con được bình an và niềm vui.
Xin thương đổ tràn Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con cho chúng con được củng
cố trong đức tin và trung thành trong sứ mạng đã lãnh nhận.
‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’--R. Veritas
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét