11/11/2014
Thứ Ba sau Chúa Nhật
32 Quanh Năm
Thánh Máctinô, giám mục. Lễ nhớ.
* Thánh nhân sinh khoảng
năm 316 trong một gia đình ngoại giáo. Người lãnh nhận bí tích thánh tẩy, sau
đó bỏ binh nghiệp. Trước tiên, người làm đồ đệ của thánh Hilariô, lập đan viện
Liguygê, nước Pháp. Rồi khi được đặt làm giám mục giáo phận Tua (372), người
thành lập nhóm đan sĩ truyền giáo. Cùng với họ, người đi giảng Tin Mừng ở các
vùng quê thuộc miền Turen và các vùng phụ cận. Người qua đời năm 397.
Bài
Ðọc I: (Năm II) Tt 2, 1-8. 11-14
"Chúng
ta hãy sống đạo đức, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện của
Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Ðấng cứu độ chúng ta".
Trích
thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Con
thân mến, con hãy giảng dạy những gì hợp với đạo lý lành mạnh. Những ông cao
niên hãy sống tiết độ, đoan trang, khôn ngoan, lành mạnh trong đức tin, đức mến,
đức kiên nhẫn. Các bà cao niên cũng thế, phải ăn ở thánh thiện, chớ nói hành
nói xấu, chớ mê say rượu chè, nhưng biết dạy đường lành, để dạy cho các thiếu
phụ biết mến chồng thương con, khôn ngoan, thanh khiết, tiết độ, chăm lo việc
nhà, hiền hậu, tùng phục chồng, để lời Thiên Chúa khỏi bị xúc phạm.
Các
thanh niên cũng thế, con hãy khuyên dạy cho chúng biết tiết độ. Trong mọi sự,
con hãy nên gương mẫu về các việc lành, tinh tuyền trong giáo huấn, trang
nghiêm, lời lẽ lành mạnh không ai bắt bẻ được, để đối phương phải xấu hổ, vì
không thể nói xấu chúng ta điều gì.
Vì
chưng, ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người,
dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công
minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện
sự vinh quang của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng Cứu Ðộ chúng
ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian
ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt
tâm làm việc thiện.
Ðó
là lời Chúa.
Ðáp
Ca: Tv 36, 3-4. 18 và 23. 27 và 29
Ðáp: Người hiền được
Chúa ban ơn cứu độ (c. 39a).
Xướng:
1) Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng
an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu.
- Ðáp.
2)
Chúa chăm lo cho mạng sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời.
Nhờ ơn Chúa mà hiền nhân vững bước, và Người yểm hộ đường lối người đi. - Ðáp.
3)
Hãy tránh ác và hãy làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu. Những người hiền sẽ
được đất nước, và cư ngụ ở đó tới ngàn thu. - Ðáp.
Alleluia:
Cl 3, 16a và 17c
Alleluia,
alleluia! - Nguyện cho lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em; anh em hãy nhờ
Ðức Kitô mà tạ ơn Chúa Cha. - Alleluia.
Phúc
Âm: Lc 17, 7-10
"Chúng
tôi là đầy tớ vô dụng: vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm".
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn
súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa",
mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng
và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì
chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy
nghĩ rằng không.
"Phần
các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các
con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều
chúng tôi phải làm".
Ðó
là lời Chúa.
Suy
Niệm:
Tinh
Thần Phục Vụ Ðích Thực
Nhân
vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất,
hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất: giải
Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60; đầu năm 1971, Mẹ lại được
Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình; giải thưởng Kenedy do chính phủ
Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy
tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta; tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự
đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru; nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel
Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế
giới biết đến, cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện
thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa".
"Tất
cả vì vinh quang Chúa", đó là động lực đã thúc đẩy Mẹ Têrêsa dấn thân phục
vụ người nghèo trên khắp thế giới. Với bao nhiêu danh vọng và tiền bạc do các
giải thưởng mang lại, Mẹ vẫn tiếp tục là một nữ tu khiêm tốn, nghèo khó, làm việc
âm thầm giữa những người nghèo khổ nhất. Thông thường, các giải thưởng cho một
người nào đó như một sự nhìn nhận vào cuối một cuộc đời phục vụ làm việc hay một
công trình nghiên cứu; nhưng đối với Mẹ Têrêsa, mỗi giải thưởng là một bàn đạp
mới, một khởi đầu cho một công trình phục vụ to lớn hơn và làm cho nhiều người
biết đến và ngợi khen Thiên Chúa nhiều hơn.
Qua
cuộc đời của Mẹ Têrêsa, chắc chắn thế giới sẽ hiểu hơn thế nào là tinh thần phục
vụ đích thực trong Giáo Hội. Một Giáo Hội càng phục vụ thì bộ mặt của Chúa Kitô
phục vụ càng sáng tỏ hơn; trái lại, khuôn mặt Chúa Kitô sẽ lu mờ đi, nếu Giáo Hội
chưa thể hiện được tinh thần phục vụ đích thực của Ngài.
Tin
Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay mời gọi chúng ta nhìn nhận những
thiếu sót của chúng ta: có lẽ dung mạo của một Chúa Kitô phục vụ và phục vụ cho
đến chết chưa được phản ảnh trên gương mặt của các Kitô hữu; tinh thần phục vụ
đích thực của Kitô giáo vẫn chưa được sáng tỏ và thể hiện qua cách sống của các
Kitô hữu. Chúa Giêsu đã khẳng định: "Khi làm tất cả những gì theo lệnh phải
làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm những việc
bổn phận mà thôi". Ðầy tớ là người làm tất cả những mọi sự vì chủ, đầy tớ
là người hoàn toàn sống cho chủ. Dĩ nhiên, ở đây, Chúa Giêsu không có ý đề cao
quan hệ chủ tớ trong xã hội. Ngài đã xem quan hệ trong xã hội con người và
Thiên Chúa như một quan hệ chủ tớ; Ngài đã chẳng mạc khải cho chúng ta Thiên
Chúa như một người Cha và mời gọi chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha đó sao?
Như
vậy, ở đây, Chúa Giêsu chỉ muốn dùng hình ảnh người đầy tớ vốn có trước mắt người
Do thái, để nói lên tương quan đích thực giữa con người và Thiên Chúa, đó là
con người chỉ sống thực sự khi nó sống cho Thiên Chúa mà thôi. Cái nghịch lý lớn
nhất mà Kitô giáo đề ra là càng tìm kiếm bản thân, càng sống cho riêng mình,
con người càng đánh mất chính mình; trái lại, càng sống cho Thiên Chúa, càng
tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa, nghĩa là càng phục vụ vô vị lợi, con người càng
lớn lên và càng tìm lại được bản thân; giá trị đích thực của con người như Chúa
Giêsu đã dạy và đã sống chính là phục vụ một cách vô vị lợi. Công Ðồng Vaticanô
II trong Hiến Chế "Vui Mừng và Hy Vọng" đã để lại một châm ngôn đáng
được chúng ta suy niệm và đem ra thực hành: "Con người chỉ tìm gặp lại bản
thân bằng sự hiến thân vô vị lợi mà thôi".
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại định hướng cơ bản trong cuộc sống chúng
ta: đâu là mục đích và ý nghĩa cuộc sống chúng ta? đâu là giá trị đích thực mà
chúng ta đang tìm kiếm và xây dựng trong cuộc sống hiện tại.
Veritas Asia
Lời Chúa Mỗi Ngày
Thứ Ba Tuần 32 TN2
Bài đọc: Tit 2:1-8, 11-14;
Lk 17:7-10.
GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người có bổn phận
phục vụ Thiên Chúa.
Trong
lãnh vực thương mại, khi một người ra ngân hàng mượn tiền, họ có bổn phận phải
trả lại cho ngân hàng cả vốn lẫn lời. Cùng một cách như vậy đối với Thiên Chúa,
Ngài đã cho con người vay tất cả mọi sự: tình yêu, ơn thánh, sự sống, khôn
ngoan, tài năng, thời gian, của cải vật chất. Con người phải trả lại tương xứng
tất cả những gì Thiên Chúa đã cho vay, và còn phải hơn thế nữa cho phân lời.
Khi hòan tất cả vốn lẫn lời, con người mới chỉ chu tòan bổn phận mà thôi. Trong
Bài đọc I, Thánh Phaolô nhắc nhở Titô bổn phận phải trau dồi kiến thức cũng như
đức hạnh trước khi có thể gíao dục mọi thành phần Dân Chúa trong giáo đòan.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu chỉ dạy các môn đệ: Thiên Chúa không cần phải biết ơn
con người; vì nếu con người hết lòng phục vụ Thiên Chúa, họ mới chỉ chu tòan bổn
phận của họ mà thôi.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/
Bài đọc I:
Phải giáo dục mọi thành phần của Dân Chúa biết sống tốt lành.
Thư
gởi Titô là một trong các Thư Mục Vụ. Gọi là các Thư Mục Vụ vì nội dung liên
quan đến đời sống các tín hữu. Bổn phận người lãnh đạo là phải giáo dục và chăm
sóc mọi thành phần trong giáo đòan, không được lơ là bất cứ một thành phần nào.
Đọan văn hôm nay nói tới:
1.1/
Bổn phận giáo dục mọi thành phần trong Giáo-đòan của Titô:
(1)
Bản thân người lãnh đạo: Không
ai có thể cho cái mình không có nên Phaolô khuyên Titô phải biết trau dồi bản
thân về cả 2 phương diện tri thức và đức hạnh:
-
về phương diện tri thức: Lãnh đạo phải khôn ngoan sáng suốt. Điều quan trọng
trước tiên là phải rành rẽ đạo lý mình tin tưởng: “Khi anh giảng dạy thì đạo lý
phải tinh tuyền, thái độ phải đàng hoàng, lời lẽ phải lành mạnh, không ai bắt bẻ
được, khiến đối phương phải bẽ mặt, vì không thể nói xấu chúng ta được điều gì…
Hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh.”
-
về phương diện đức hạnh: Không phải chỉ dạy đạo lý thôi, mà “chính anh hãy làm
gương về mặt đức hạnh.”
(2)
Các thành phần trong cộng đòan: Người lãnh đạo không được chỉ chú trọng đến một hay
vài giới trong dân, nhưng phải giáo dục mọi thành phần của Dân Chúa. Lý do đơn
gỉan: tất cả đều là các chi thể của một thân thể; và nếu một chi thể đau, tòan
thân sẽ phải chịu cùng hậu quả. Thánh Phaolô khuyên Titô nên dạy:
-
Các cụ ông: Là những người chủ trong gia đình, họ có bổn phận làm gương và hướng
dẫn gia đình của họ: “Hãy khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực,
vững mạnh trong đức tin, đức mến, và đức nhẫn nại.”
-
Các cụ bà: Phúc đức tại mẫu. Các bà có bổn phận dạy dỗ con: “Phải ăn ở sao cho
xứng là người thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo
điều lành.”
-
Các thiếu nữ: Các bà mẹ phải dạy cho những bà mẹ tương lai: “biết yêu chồng,
thương con, biết sống chừng mực, trong sạch, chăm lo việc nhà, phục tùng chồng,
để lời Thiên Chúa khỏi bị người ta xúc phạm.”
-
Các thanh niên: Anh cũng hãy khuyên các thanh niên phải giữ chừng mực trong mọi
sự.
1.2/
Lý do tại sao phải sống tốt lành: Thánh Phaolô đưa ra 3 lý do:
(1)
Ân sủng của Thiên Chúa ban: là để sống tốt lành. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống
vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính, và đạo đức ở
thế gian này.
(2)
Niềm hy vọng vào cuộc sống đời sau: Mọi tín hữu phải sống tốt lành vì “chúng ta trông chờ
ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa vĩ đại và
là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.” Trong ngày đó, con người sẽ phải
lãnh nhận hậu quả cho các việc mình đã làm.
(3)
Là Dân Riêng của Thiên Chúa: Các tín hữu đã được rửa sạch bằng Máu Thánh của Đức Kitô, nên họ
phải sống cuộc đời thanh sạch: “Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc
chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến
chúng ta thành Dân Riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.”
2/
Phúc Âm:
Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.
2.1/
Bổn phận và việc thiện nguyện: Để hiểu ý nghĩa đọan văn ngắn này, chúng ta cần phân biệt 2 hành
động:
(1)
Bổn phận phải làm: Bổn
phận của đầy tớ là phải phục vụ chủ, không cần biết việc phải làm nhiều đến
đâu: "Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở
ngoài đồng về, lại bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi!" chứ không bảo:
"Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh
hãy ăn uống sau!” Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh
truyền sao?”
(2)
Việc thiện nguyện: Nếu
một người không phải là đầy tớ, mà tình nguyện phục vụ người khác; đó mới là việc
thiện nguyện. Người lãnh nhận phải biết ơn người tình nguyện phục vụ.
2.2/
Thiên Chúa có cần phải biết ơn con người? Cũng vậy, con người có bổn phận phục vụ Thiên Chúa,
vì Ngài đã dựng nên con người; đồng thời Ngài đầu tư vào con người tất cả những
gì cần thiết để làm việc sinh lời cho Ngài: ơn thánh, thời gian, sức khỏe, tài
năng… Khi con người ra sức làm việc để sinh lời tương xứng cho Chúa, đó mới chỉ
là hòan tất bổn phận hay công bằng, vì mượn vốn thì phải trả cả lời lẫn vốn. Vì
mọi sự trên đời là của Thiên Chúa, nên Ngài không cần phải biết ơn con người
như Chúa Giêsu nói hôm nay: “Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những
gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng
tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”
Tuy
nhiên, nếu Thiên Chúa ưu đãi và đối xử tốt với con người như trong trình thuật
khác của Luca: “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là
phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến
bên từng người mà phục vụ” (Lk 12:37); đó là vì Ngài quá thương yêu con người
mà thôi.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
-
Bổn phận của người lãnh đạo cộng đòan là phải giáo dục đức tin và nhân bản cho
mọi thành phần trong giáo đòan. Để có thể chu tòan bổn phận, người lãnh đạo trước
tiên phải có một đức tin vững mạnh, khôn ngoan học hỏi, dạy dỗ mọi thành phần,
và phải làm gương sáng cho mọi người.
-
Chúng ta phải ra sức tận dụng những quà tặng Thiên Chúa ban: sự sống, ơn thánh,
thời gian, khôn ngoan, tài năng, của cải vật chất, để sinh lời cho Ngài.
-
Cho dẫu hòan tất tốt đẹp và trả lại tương xứng cho Thiên Chúa, con người cũng
không có quyền đòi Thiên Chúa phải biết ơn họ; vì họ mới chỉ làm tròn bổn phận
đã được giao phó mà thôi.
Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP
11/11/14 THỨ BA TUẦN 32
TN
Th. Mác-ti-nô, giám mục
Lc 17,7-10
Th. Mác-ti-nô, giám mục
Lc 17,7-10
Suy niệm: Mọi
việc làm cho người khác đều phát xuất từ bổn phận. Trong gia đình, một người
con phải làm việc nhà và vâng lời cha mẹ, đó là việc bổn phận của em. Vợ chồng
chia sẻ cho nhau, chăm lo con cái, đó là điều họ đã cam kết khi thành hôn.
Người anh, người chị giúp đỡ em mình, điều đó chẳng có gì lạ, bởi họ phải làm
việc bổn phận. Đối với người khác cũng vậy, những việc hy sinh chúng ta phải
làm để cầu cho các linh hồn trong luyện ngục là những đòi hỏi của bổn phận đối
với các ngài. Cũng thế, những việc Ki-tô hữu phải làm là những việc do bổn phận
đối với Thiên Chúa và tha nhân đòi buộc. Thiên Chúa không mắc nợ con người;
trái lại, những việc con người làm là do đòi buộc của lòng biết ơn đối với
Thiên Chúa. Càng trưởng thành, con người càng biết ơn Đấng ban ơn cho mình. Vậy
có gì mà chúng ta cao ngạo như thể đang làm ơn cho Chúa hay trách cứ Ngài không
trả công xứng đáng? Thực ra, như lời Chúa quả quyết, chúng ta đang làm công
việc của một người thuộc về Chúa. Chu toàn bổn phận như thế đã là vinh dự cho
Ki-tô hữu, bởi họ được nên tôi trung của Ngài.
Mời Bạn ý
thức rõ ràng rằng: Tôi chỉ là tôi tớ của Thiên Chúa, tôi phải nỗ lực tìm kiếm
thánh ý Chúa để thi hành, chứ không đòi Chúa làm theo ý tôi.
Sống Lời Chúa: Dâng
lên Chúa lời cảm tạ sau khi bạn làm một việc tốt lành do Lời Chúa đòi hỏi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô duyên, nhưng xin Chúa hãy cứ dùng
con cho những công việc của người đầy tớ Chúa.
Đầy tớ vô dụng
Thanh thoát với chính những công việc lớn lao
mình đã làm, siêu thoát khỏi cái tôi muốn phình to bằng công đức, đó là điều mà
Đức Giêsu muốn nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.
Suy niệm:
Vào thời xưa, những tù binh
bại trận phải làm nô lệ cho phe thắng.
Khi nhân phẩm của từng con
người chưa được nhận ra
thì chuyện mua bán nô lệ là
chuyện dễ hiểu (Xh 21, 21).
Dân Ítraen cũng có kinh
nghiệm về việc bị bắt làm nô lệ ở Ai-cập,
và kinh nghiệm được Thiên
Chúa giải phóng để trả lại tự do.
Những kinh nghiệm này khiến
cho chế độ nô lệ ở Ítraen bớt tàn nhẫn.
Người chủ không có quyền bạc
đãi nô lệ của mình (Xh 21, 26-27).
Có những nô lệ còn được trao
trách nhiệm quản trị thay cho chủ.
Nếu nô lệ là người Do thái
thì sau sáu năm phục vụ,
năm thứ bảy anh phải được
trả tự do (Xh 21, 2).
Hơn nữa, sách Lêvi còn nói
đến việc chuyển đổi biên chế
để một nô lệ Do thái trở
thành người làm công trong nhà (25, 39-55).
Tin Mừng hôm nay là một dụ
ngôn nói về chuyện một ông chủ.
Ông có một đầy tớ, hay đúng
hơn ông sở hữu một anh nô lệ (doulos).
Có một sự khác biệt lớn giữa
nô lệ và người làm công.
Anh nô lệ được mua về, và anh
phải hoàn toàn lệ thuộc vào chủ.
Khác với người làm công, anh
nô lệ không được đòi hỏi gì.
Người nô lệ phải làm mọi
việc chủ bảo làm
mà không được đòi lương hay
bất cứ ân huệ nào khác.
Đức Giêsu mời các môn đệ đặt
mình vào hoàn cảnh của ông chủ.
Có thể ông chỉ có một anh nô
lệ thôi,
nên anh vừa phải lo việc
đồng áng, vừa phải lo việc cơm nước.
Khi anh từ ngoài đồng về,
sau cả ngày làm việc,
sau khi đã vất vả đi cày hay
đi chăn chiên (c. 7),
liệu ông chủ có mời anh ngồi
vào bàn, ăn cơm tối với mình không?
Câu trả lời vào thời đó dĩ
nhiên là không.
Anh sẽ phải tiếp tục phục vụ
chủ bằng cách vào bếp, dọn bữa tối.
Khi bữa tối được dọn xong,
khi ông chủ ngồi ăn uống thảnh thơi,
thì anh nô lệ phải đứng hầu
bàn,
thắt lưng gọn gàng trong tư
thế của người đang làm việc (c. 8).
Chỉ khi ông chủ ăn uống
xong, bấy giờ mới đến lúc anh ăn uống.
“Ông chủ có biết ơn anh nô
lệ, vì anh đã làm theo lệnh truyền không?”
Câu trả lời vào thời đó dĩ
nhiên là không.
Ông chủ chẳng phải trả công
cho anh nô lệ.
Và anh cũng không chờ bất cứ
một lời khen hay ân huệ nào từ ông chủ.
Anh hồn nhiên làm điều anh
phải làm mỗi ngày, thế thôi.
Dụ ngôn này của Đức Giêsu
gây sốc cho chúng ta ngày nay,
những người vất vả lo việc
Chúa, những người ít khi được nghỉ.
Chúng ta cũng thuộc về Chúa
tương tự như một nô lệ (Cv 4, 29).
Chúng ta làm điều phải làm
(c. 10),
nhưng không như người làm
công chờ lương,
cũng không đòi tiếng khen,
quyền lợi, hay đặc ân nào khác từ chủ.
Người tông đồ giống như
người đi cày (Lc 9, 62),
chăn chiên (Cv 20, 28), hay
hầu bàn (Lc 22, 27).
Khi chu toàn mọi việc được
giao, vẫn nhận mình là đầy tớ vô dụng,
không một chút kiêu hãnh,
đòi hỏi công lao hay tự hào về thành quả.
Thanh thoát với chính những
công việc lớn lao mình đã làm,
siêu thoát khỏi cái tôi muốn
phình to bằng công đức,
đó là điều mà Đức Giêsu muốn
nhắn nhủ cho những ai làm việc cho Chúa.
Dù sao ta không được phép
nghĩ Thiên Chúa như một ông chủ tàn nhẫn.
Đức Giêsu đã mang lấy thân
phận một nô lệ để cứu chúng ta (Ph 2, 7).
Ngài đã sống như người hầu
bàn cho các môn đệ (Lc 22, 27).
Và Ngài sẽ cư xử như một
người hầu bàn ăn cho ta
khi Ngài đến mà thấy ta vẫn
tỉnh thức đợi chờ (Lc 12, 37).
Cầu nguyện:
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng
đại,
biết phụng sự Chúa cho xứng
với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính
toán,
biết chiến đấu không ngại
thương tích,
biết làm việc không tìm an
nghỉ,
biết hiến thân mà không mong
chờ phần thưởng nào
ngoài việc biết mình đã chu
toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
Lm Antôn Nguyễn Cao
Siêu, SJ
Hãy Nâng Tâm Hồn Lên
11
THÁNG MƯỜI MỘT
Nguồn
Tài Nguyên Cho Tương Lai
Quả
là mối đe dọa khủng khiếp đang tiềm ẩn trong sự thay đổi kỹ thuật đã đánh thức
lương tâm chúng ta, giúp chúng ta thấy cần phải khôn ngoan và cần phải nhớ lại
những giá trị đạo đức của nền văn minh của mình. Chính sự tiến bộ khoa học đã đặt
ra "vấn đề đạo đức" như là "vấn đề xã hội" mới của tương
lai. Và đâu là câu trả lời?
Chúng
ta phải bắt đầu bằng việc theo đuổi sự khôn ngoan. Vì sự khôn ngoan đích thực
là tinh túy của lương tâm các dân tộc, nên vai trò của công chúng trong việc
quyết định tương lai thế giới là một cái gì rất hiển nhiên. Chẳng hạn, hãy xem
xét lãnh vực di truyền học đang ngày càng phát triển. Những nghiên cứu hiện nay
cho thấy rằng con người có thể đạt được những thành tựu rất lớn. Những cũng có
nhiều khả năng hủy hoại tàn khốc đối với loài người chúng ta. Các nhà khoa học
và các chính quyền có trách nhiệm không thể tránh né việc tự hỏi mình những câu
hỏi hệ trọng của triết học và thần học. Con người là ai? Định mệnh của con người
là gì?
Trong
khi theo đuổi sự khôn ngoan, nhiều người bắt đầu khám phá lại câu trả lời của
chân lý Kitô giáo. Họ bắt đầu thấy rằng sự bảo đảm đích thực duy nhất cho nhân
tính trong xã hội tương lai chính là sự tôn trọng đối với con người và đối với
sự sống. Chúng ta đang về nguồn. Con người đang nhận ra rằng các giá trị dường
như cũ kỹ trong quá khứ đang tỏ ra là những của gia bảo cần phải được trân trọng
giữ gìn cho tương lai.
Và
sự khôn ngoan này trong việc nhận biết con người và bản tính con người xuất phát
từ chính lương tâm của các dân tộc trên trái đất. Sở dĩ tôi đi khắp nơi trên thế
giới và gặp gỡ người ta thuộc mọi nền văn hóa và tôn giáo, đấy bởi vì tôi tin rằng
Chúa Thánh Thần ươm trồng những mầm khôn ngoan trong lương tâm của mọi dân tộc.
Đó là nguồn tài nguyên thực sự cho tương lai của thế giới chúng ta, một tương
lai trong đó con người biết phục vụ cho con người.
-
suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II -
Lm.
Lê Công Đức dịch từ nguyên tác
LIFT
UP YOUR HEARTS
Daily
Meditations by Pope John Paul II
Lời Chúa Trong Gia
Đình
NGÀY
11-11
Thánh
Martinô, Gám mục
Tt
2, 1-8. 11-14; Lc 17, 7-10.
LỜI
SUY NIỆM: “Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó
đã làm theo lệnh truyền sao”
Thiên
Chúa là Tình Yêu, mỗi người Kitô hữu phải sống hết mình cho Tình Yêu, đối với
Tình Yêu thì không bao giờ đạt đến tận cùng và đầy đủ được. Khi chúng ta sống
tình yêu, đó là bổn phận mà mỗi người phải chu toàn. Trong tình yêu thì có ai
là trọn vẹn, mà đòi hỏi Chúa phải ban lại cho mình điều này điều nọ. Nhưng phải
biết khiêm tốn, thưa lên với Chúa: con là tôi tớ bất xứng của Ngài. Sau mỗi
công việc mà mình đã hoàn thành do Chúa sai bảo, và cho được làm việc.
Lạy
Chúa Giêsu, xin Chúa ban mọi ơn lành trên gia đình chúng con, để nhờ ơn của
Chúa mà chúng con chu toàn bổn phận trong việc thờ phượng Chúa và yêu mến phục
vụ tha nhân.
Mạnh
Phương
Gương Thánh Nhân
Ngày
11-11
Thánh
MARTINÔ Thành Turinô
Giám
Mục (khoảng 315 - 397)
Chúng
ta biết được thánh Martinô nhờ Sulpicô Sêvêrê, thân hữu và nhà chép sử của
Ngài. Nhiều phép lạ động trời ông kể lại tuy khó tin nhưng đầy sống động và xác
tín khiến các phép lạ chỉ còn khó tin đối với những ai chối bỏ thế giới thiêng
liêng. Một cách chính yếu chúng ta có thể tin vào Sulpiciê được.
Martinô
sinh ra khoảng năm 315 ở Sabaria... miền Pannonia (hay là Hungaria) là con của
một sĩ quan. Cha mẹ Ngài đều là lương dân, nhưng còn trẻ Ngài đã ghi tên làm dự
tòng.
Lúc
15 tuổi, Martinô nhập ngũ và sớm được phái sang miền Gaule ngoại đạo (nước Pháp
ngày nay). Các binh sĩ trong trại sống không gương mẫu gì, nhưng Martinô tin
vào Chúa Kitô nên sống như một Kitô hữu. Ngài phân phát một phần tiền lương cho
người nghèo và có những hành vi bác ái ít gặp thấy, chẳng hạn đảo ngược vai trò
để đánh giày cho người hầu. Ơ cửa thành Amiens một ngày mùa đông, chàng hiệp sĩ
sẽ trẻ gặp người ăn xin dường như trần truồng. Martinô nói: - Tôi chỉ có áo quần
và khí giới.
Rồi
rút kiếm ra, Ngài xẻ đi chiếc áo cho người ăn xin.
Câu
chuyện kết thúc với giấc mơ trong đó Martinô thấy Chúa Kitô hiện ra mặc nửa chiếc
áo và nói với các thiên thần. - Chính Martinô đã mặc cho Ta đây.
Sau
đó ít lâu vào khoảng 20 tuổi, Martinô lãnh nhận phép rửa tội, nhưng vẫn phải miễn
cưỡng ở lại trong quân đội hai năm sau khi quân rợ xâm lăng Gaule, Martinô xin
cấp chỉ huy, có lẽ là Constantinô để được từ nhiệm: - Tôi là binh sĩ Chúa Kitô,
thật sái phép nếu tôi phải phục vụ trong quân ngũ.
Bị
coi là hèn nhát, Ngài bị giải pháp trong hành tiền quân tại chiến điạ. Tuy
nhiên, quân rợ đã bao vậy nhưng không động binh. Martinô được giải ngũ có lẽ
năm 339.
Danh
tiếng của thánh Hilariô giám mục Poitier đã thu hút Martinô trở thành môn đệ của
Ngài. Nhưng ao ước cho cha mẹ trở lại đạo, Martinô đã trở về sinh quán ở
Pannonia. Khi qua núi Alple, Ngài bị bọn cướp vây bắt. Martinô đã nói với người
sắp dùng búa giết Ngài:
-
Một người Kiô hữu không sợ gì, nhưng chính anh lại phải sợ tất cả. Anh sẽ trả lời
thế nào với Chúa khi anh phải trả lẽ cho đời sống đầy tội ác của anh ?
Ngài
đã được tên cướp giải phóng và đưa hắn trở về với Chúa.
Tương
truyền rằng: bên ngoài Milan, thánh Martinô gặp qui và satan tuyên cáo rằng: -
Đi đâu mày cũng sẽ phải gặp tao. Đáp lại, thánh Martinô hứa hẹn với qủi một cuộc
chiến cam go: - Cả hai bên đều phải giữ lời nhé.
Thánh
Martinô được hạnh phúc thấy mẹ trở lại nhưng người cha không muốn nghe gì hết.
Bị bắt bớ và bị người đồng hương đánh đòn, thánh Martinô đi Gaule. Nhưng Ngài
biết rằng: thánh Hilariô đã bị những người theo Kitô bắt đi đày. Ngài rút vào một
tu viện gần Milan, nhưng bị những người theo lạc giáo săn đuổi và chạy ẩn vào một
hoang đảo gần Ghênes, sống bằng cây cỏ. Ngày kia, Ngài bị trúng độc và như sắp
chết. Theo thói quen, Ngài chống lại bệnh tật bằng lời cầu nguyện và cơn bệnh
biến mất, Ngài gặp lại thánh Hilariô trên đường lưu đày trở về và xây dựng ở
Lihugné. Gần Poitiers một nơi ẩn tu mà chẳng bao lâu đã trở thành cộng đoàn của
các nhà ẩn tu.
Ngài
được chọn làm giám mục thành Tour vì danh tiếng và sự thánh thiện của Ngài.
Nhưng để đưa được Ngài ra khỏi tu viện, người ta phải kiếm cớ là có bệnh nhân ở
Tours cần được chữa khỏi. Thày dòng vội vã ra đi nhưng chĩ gặp và một số giám mục
đến tấn phong cho Ngài ngày 4 tháng 7 năm 371. Trong khi đó những người quí
phái và lãnh Chúa chống lại "một người ăn mặc bẩn thỉu và đầu tóc rối
bù".
Vị
tân giám mục vẫn giữ được chiếc áo len thô, ngai tòa Ngài là một chiếc ghế đẩu
bằng gỗ. Càng nặng trách nhiệm Ngài càng cảm thấy cần hồi tâm. Ngài lập tu viện
Marmoutiers với chủng viện và nhà trường. Các linh mục được đào tạo tại đó để
nâng hàng giáo sĩ buông thả lên. Marmuotiers sắp sinh ra trường công lập đầu
tiên là mẹ đại học Oparis.
Công
cuộc truyền giáo của thánh Martinô mở rộng khác thường. Đời sống luân lý của
dân quê thật khắc khổ. Có những Kitô hữu hợp nhau với lương dân để mừng kính thần
Jupiter, tập hợp quanh những dòng nước, nhưng cây cổ thụ. Vị giám mục truyền
giáo không dừng lại ở giáo phận Ngài, nhưng đi khắp nơi tìm kiếm các linh hồn. Ở
mỗi sào huyệt của ngẫu tượng, Ngài dừng lại giảng dạy cải hóa thay thế đền miếu
bằng một thánh đường, và đặt linh mục Marmoutiers dẫn dắt. Thế là một giáo xứ
thành hình.
Thiên
Chúa luôn giúp đỡ Ngài. Ở Ambroisé có một ngôi đền vĩ đại thờ thần Mars. Không
ai dám nghĩ đến việc phá đổ. Martinô cầu nguyện suốt đêm. Hôm sau một cơn bão lớn
nổi lên phá đổ ngẫu tượng. Một nhà thờ được dựng lên và thế là giáo xứ Ambroise
được thành lập.
Trong
một thị trấn nhỏ, vị tông đồ truyền chặt bỏ cây cổ thụ được thần thánh hóa. Những
người thờ ngẫu tượng nói: - Nếu Thiên Chúa ông thờ quyên phép như ông nói, ông
hãy nằm dưới chỗ cây đổ xuống, nếu ông thoát nạn, chúng tôi sẽ tin Thiên Chúa.
Martinô
nhận lời, cây bị đốn lung lay ngã xuống... sắp nghiền nát Đức giám mục... nhưng
Ngài bỉnh tĩnh làm dấu thánh giá và cây bỗng quay ngược về phía đối diện.
Ở
Apris Ngài chữa lành một người cùi, ở Treves Ngài làm phép dầu để chữa lành một
cô bé bất toại, trên đường về Ngài phục sinh đứa con duy nhất Chúa một phụ nữ
và toàn dân hò vang niềm tin vào Thiên Chúa. Tới gần Vandome tái diễn phép lạ:
sau bài giảng làm động lương tâm người nghe, một phụ nữ đưa tới cho Ngài một em
bé đã chết, quỳ xuống cầu nguyện và trả đứa bé sống lại cho mẹ nó.
Đây
là một giai thoại đẹp về chiếc áo thánh Martinô mặc, biến thành áo choàng sáng
láng. Các Vua Chúa nhận lời thề của các chư hầu trên "chiếc áo choàng
thánh Martinô này" và người ta có lẽ đã hay gọi nơi giữ áo choàng này là
nguyện đường (tiếng Pháp là Capelle hay Chapelle). Aix, nơi Charlemanghe ở trẻ
thành Aix-la-chapelle, và tên chapelle này lan rộng để chỉ mọi nơi người ta đến
cầu nguyện.
Tới
80 tuổi, thánh Martinô vẫn truyền giáo không mệt mỏi. Ngài còn chuộc các tù
nhân, tham dự các cộng đồng. Ngài chỉ nghỉ ngơi đôi chút nơi các tu sĩ của
mình, ở Marmoutiers để lại ra đi bằng bất cứ phương tiện nào dùng được cho việc
truyền giáo. Trong một sứ vụ cuối tại địa phận, khi thấy cái chết tới gần,
thánh Martinô báo cho môn đệ biết, nhưng vẫn dâng lao lực của mình cho Chúa.
-
"Lạy Chúa, nếu dân Chúa còn cần đến con, con không từ chối đau khổ và công
việc nào, nguyện cho ý Chúa được thực hiện".
Nằm
trên tro như Ngài muốn. Thân thể lên cơn sốt, Đức giám mục vẫn đưa tay ngước mắt
lên trời. Các tu sĩ xin Ngài xuôi tay, Ngài nói: - "Các anh để tôi nhìn trời
hơn là nhìn thế gian để hồn tôi theo đường ngay mà tới Chúa".
Quỉ
dữ tấn công Ngài lần chót, người ta nghe tiếng người hấp hối nói: - "Đồ
súc vật độc ác, mầy làm gì đó ? mầy không tìm được nơi tao điều gì đâu, đồ bị
chúc dữ ! Chính lòng Abraham sẽ đón nhận tao".
Đó
là những lời sau cùng trước khi Ngài chết vào ngày 8 tháng 11 năm 379. Ba ngày
sau ngày được mai táng ở Tours. Ngài là vị thánh đầu tiên không phải là tử đạo
hay lừng danh vì cuộc tử đạo. Mộ của Ngài ở Tours là thành trì vững chắc chống
lại dân man di. Toàn dân Pháp và các vị thánh của nước này suốt nhiều thế kỷ vẫn
hành hương để khấn cầu vị cải hóa Gaule che chở.
(Daminhvn.net)
11
Tháng Mười Một
Xẻ Áo
Trong
một ngày đông giá lạnh, Martinô, lúc ấy đang còn phục vụ trong quân ngũ và chưa
lãnh nhận niềm tin Kitô, gặp một ông ăn mày nghèo khổ đến độ không có lấy một mảnh
vải che thân, đang ngồi tựa lưng vào bức tường giơ bàn tay khẳng khiu van xin từng
đồng xu nhỏ của những người qua lại. Không sẵn tiền trong túi và cũng không có
lương thực để cho, Martinô nhanh nhẹn leo xuống ngựa, tuốt gươm cắt phân nửa áo
choàng của mình và quàng lên tấm thân gầy guộc của người ăn xin đang run rẩy vì
cái lạnh buốt xương. Kẻ qua đường đồng thanh cười nhạo cử chỉ khác lạ của người
thanh niên.
Ðêm
hôm đó, Martinô nằm mơ thấy chính Chua Giêsu bận nửa áo choàng mà chàng đã trao
tặng cho người ăn mày và Chúa nói: "Martinô, tuy chưa lãnh nhận Phép Rửa Tội,
đã đắp lên tôi chiếc áo này".
Ai
trong chúng ta cũng biết câu chuyện truyền khẩu trên về hành động bác ái của
thánh Martinô, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay.
Chào
đời vào khoảng thế kỷ thứ 4 tại Sabaria, nay thuộc nước Hungari, năm 20 tuổi,
Martinô được gửi theo học tại Italia. Tuy là người không theo đạo Kitô, nhưng
vì sống giữa các sinh viên Công Giáo, nên chàng đã suy nghĩ nhiều khi nghe bạn
bè nói đến Ðức Giêsu. Chàng nhất định tìm hiểu xem Giêsu là ai?
Nhưng
chẳng bao lâu chàng bị động viên. Khoảng năm 350, rời khỏi quân ngũ, Martinô
xin làm đồ đệ thánh Hilariô, giám mục thành Potiers. Nhận thấy Martinô là người
đầy nhân đức và có học thức, giám mục Hilariô đã phong cho chàng các chức
thánh.
Năm
350, bè rối Ariô bắt thánh Hilariô đem đi đày vì ngài chống lại họ. Martinô cũng
bị giám mục thành Milan là người bệnh vực bè rối trục xuất khỏi giáo phận và sống
trên một hòn đảo cùng với một linh mục khác. Sau khi thánh Hilariô được tha,
Martinô trở lại Poachi và lập một dòng tu tại Luguygé. Năm 370, khi đến Cadet để
hòa giải một bất bình giữa một số linh mục và tu sĩ, ngài đã ngã bệnh và từ trần
tại đó.
Mỗi
năm gần đến ngày lễ thánh Martinô thành Tôrinô, các trẻ em vùng nói tiếng Ðức
cũng náo nức như các trẻ em Việt Nam nôn nao đếm từng ngày trước lễ Trung Thu.
Vì đây cũng là ngày các em rước đèn đi đến khoảng sân rộng để xem diễn tuồng
thánh Martinô, với những bài hát ca ngợi tình yêu thương cụ thể của chàng sĩ
quan trẻ tuổi, với vở tuồng được trình diễn bằng người ngựa thật và nhất là với
những quà bánh thơm ngon được trình bày bán chung quanh chỗ diễn tuồng.
Chủ
đích của cuộc lễ này vẫn là khắc ghi đậm nét vào lòng các trẻ em mẫu gương
"xẻ áo" của thánh Martinô để giúp các em hiểu rõ lời Chúa Giêsu tuyên
bố trong ngày phán xét: "Ta bảo thật: mỗi lần anh chị em làm những điều ấy
cho một kẻ hèn mọn trong anh em Ta, thì là làm cho chính Ta vậy".
(Lẽ
Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét